Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá        ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahakotthita (Đại Câu-hy-la),        vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn        giả Sariputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những        lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Sau khi        ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahakotthita nói với Tôn giả Sariputta: – Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (Suppanna)        được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là        liệt tuệ? – Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không tuệ tri        (Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ. Không tuệ        tri gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri: đây là Khổ tập,        không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri: đây là con đường        đưa đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả,        nên được gọi là liệt tuệ. – Lành thay, Hiền giả! Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả        Sariputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa: – Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được gọi là        như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí tuệ? – Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên        được gọi là trí tuệ. Có tuệ trí gì? Có tuệ tri: đây là Khổ,        có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ diệt, có        tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ tri, có        tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ. – Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như        vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức? – Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này Hiền        giả nên được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri lạc, thức        tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Vì thức tri, thức tri, này Hiền        giả, nên được gọi là có thức. – Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy,        những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có        thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân        tích chúng nhiều lần? – Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy,        những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp. Không        có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân        tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ tri được là        thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do        vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp,        và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau        khi phân tích chúng nhiều lần. – Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy,        thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không        phải không kết hợp này? – Này Hiền giả, Trí tuệ như vậy, thức như vậy,        giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết        hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), còn thức cần        phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa        những pháp này. – Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi        là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ? – Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti), nên        được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ        khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc thọ. Này Hiền giả, cảm thọ, cảm        thọ, nên được gọi là cảm thọ. – Này Hiền giả, tưởng, tưởng (Sanna) được gọi        là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng? – Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền giả,        nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri gì? Tưởng tri màu xanh,        tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng.        Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng. – Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy,        những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có        thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân        tích chúng nhiều lần? – Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như        vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được        kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp        này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm        thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là        cảm thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không        phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai        khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. – Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ        đến năm căn có thể đưa đến gì? – Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ        đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không        là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô        biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì. – Này Hiền giả, pháp gì đưa đến nhờ gì có        thể tuệ tri được? – Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được đưa        đến có thể tuệ tri. – Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa gì? – Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri        (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận        (Pahanattha). – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến chánh tri        kiến sanh khởi? – Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh tri kiến        sanh khởi: Tiếng của người khác và như lý tác ý. Này Hiền giả,        do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi. – Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ        trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải        thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả        công đức? – Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ        trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát        quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công        đức. Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ,        có văn (Suta) hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha) hỗ        trợ, có quán (Samadhi) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến        được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả,        tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải        thoát quả công đức. – Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (Bhava)? – Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc hữu,        vô sắc hữu. – Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong        tương lai được xảy ra? – Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái        trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia, như vậy,        sự tái sinh trong tương lai được xảy ra. – Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong        tương lai không xảy ra? – Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi,        tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không        xảy ra. – Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ nhất? – Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác        bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ        lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là        Thiền thứ nhất. – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao nhiêu chi        phần? – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần.        Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có        tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ nhất        có năm chi phần như vậy. – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao nhiêu        chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần? – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi        phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị        Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân,        từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành        tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền        thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần. – Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới        khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới,        hành giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền        giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai        khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì        làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới củ        húng? – Nầy Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai        khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành        giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả,        giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác,        không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý làm sở y cho        chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới củ húng. – Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi,        lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng an        trú? – Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi,        lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ (Ayu)        mà chúng an trú. – Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên gì mà an trú? – Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú. – Này Hiền giả, hơi nóng do duyên gì mà an trú? – Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. – Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ        lời nói của Tôn giả Sariputta-là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an        trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả        Sariputta-là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền giả, như        thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này? – Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ. Nhờ ví        dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói.        Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên        tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn        được thấy. Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng        mà an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. – Này Hiền giả, những pháp thọ hành (Ayusankhara)        này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay những pháp        thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này? – Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không        phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu        những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này thì        không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu        Diệt thọ tưởng định. Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành        khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự        xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định. – Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào có        bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống,        quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri? – Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba        pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này        nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ như một khúc gỗ vô tri. – Này Hiền giả, có sự sai khác gì giữa vật        chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng        định? – Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân        hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng        lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng        tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt        thọ tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt,        được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại,        tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không        diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt.        Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung        này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định. – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng        nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc? – Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập        tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị        Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng        và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.        Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất        khổ bất lạc. – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng        nhập vô tướng tâm giải thoát? – Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô        tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác        ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập        vô tướng tâm giải thoát. – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an trú vô        tướng tâm giải thoát? – Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô        tướng tâm giải thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô        tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba        duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát. – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất        khởi vô tướng tâm giải thoát? – Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi vô        tướng tâm giải thoát: tác ý nhất thiết tướng và không tác ý        vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô        tướng tâm giải thoát. – Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát này,        vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và vô        tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh        sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt. – Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát, vô        sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm        giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này,        các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, lại        có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng        nhất và danh sai biệt. Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do        pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác?        Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với        tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương        thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới,        trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên        giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng        đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi...        với tâm câu hữu với hỷ... an trú biến mãn một phương với tâm        câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ        ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên,        dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị        ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô        biên, không hận, không sân. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô        lượng tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là vô sở        hữu tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên        mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì" chứng        và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở        hữu tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là không tâm        giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay        đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau:        "Đây trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở".        Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát. Và này Hiền        giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền        giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an        trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô        tướng tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn        này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền        giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy        có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt. Tham, này Hiền giả, là nguyên        nhân của hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là        nguyên nhân của hạn lượng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ        các lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như        thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh        trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô        lượng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng        đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát        không có tham, không có sân, không có si. Tham, này Hiền giả, là        một vật gì (chướng ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si        là một vật gì (chướng ngại). Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ        các lậu hoặc, thì tham, sân, si này đã được chặt tận gốc, như        thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh        trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô        sở hữu, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối        thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải        thoát ấy không có tham, không có sân, không có si. Tham, này Hiền        giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là        nhân tạo ra tướng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu        hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây tala        được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai.        Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, thì bất        động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các        tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có        tham, không có sân, không có si. Như vậy, này Hiền giả, là pháp        môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt. Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Tôn giả        Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.
