Kinh Văn:
Hán Văn:
Phật vấn Sa-môn: "Nhân mạng tại kỷ gian?"
Đối viết: "Sổ nhật gian."
Phật ngôn: "Tử vị tri Đạo."
Phục vấn nhất Sa-môn: "Nhân mạng tại kỷ gian?"
Đối viết: "Phạn thực gian."
Phật ngôn: "Tử vị tri Đạo."
Phục vấn nhất Sa-môn: "Nhân mạng tại kỷ gian?"
Đối viết: "Hô hấp gian."
Phật ngôn: "Thiện tai! Tử tri Đạo hỷ."
Dịch Nghĩa:
Đức Phật hỏi một vị Sa-môn: "Mạng người được bao lâu?"
Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng vài ngày."
Đức Phật dạy: "Ông chưa hiểu Đạo!"
Lại hỏi một vị Sa-môn khác: "Mạng người được bao lâu?"
Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng một bữa ăn."
Đức Phật dạy: "Ông chưa hiểu Đạo."
Lại hỏi một vị Sa-môn khác: "Mạng người được bao lâu?"
Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng một hơi thở."
Đức Phật dạy: "Lành thay! Ông đã hiểu Đạo rồi vậy!"
Lược giảng:
Đức Phật hỏi vị Sa-môn: "Mạng người được bao lâu?" Ở đây, Đức Phật cố ý đặt ra một cuộc vấn đáp. Đức Phật vốn không cần phải hỏi người khác về vấn đề này, và cũng không phải vì Ngài không biết nên cần phải hỏi các thầy Sa-môn để có được một đáp án rõ ràng. Thật ra, bởi biết rằng chẳng ai biết tánh mạng con người có thể kéo dài trong bao nhiêu lâu, cho nên Đức Phật mới có ý hỏi thầy Sa-môn: "Mạng người được bao lâu? Ông cho rằng con người sống được bao lâu?"
Đáp rằng, thầy Sa-môn này bạch với Đức Phật rằng: "Thưa, trong khoảng vài ngày. Chừng một vài hôm là có thể chết. Đời người không dài lắm đâu!"
Đức Phật dạy, Đức Phật nói với thầy Sa-môn này rằng: "Ông chưa hiểu Đạo. Ông vẫn còn chưa hiểu được Đạo!"
Đức Phật lại hỏi một vị Sa-môn khác: "Mạng người được bao lâu?" Sanh mạng con người dài độ bao nhiêu?
Đáp rằng, thầy Sa-môn bạch với Phật: "Thưa, trong khoảng một bữa ăn." Nghĩa là trong thời gian bằng chừng ăn xong một bữa cơm, sanh mạng con người có thể không còn nữa!
Đức Phật dạy. Đức Phật nói với thầy ấy: "Ông chưa hiểu Đạo." Ông vẫn chưa hiểu rõ Đạo!
Đức Phật lại hỏi một vị Sa-môn khác: "Mạng người được bao lâu?" Trong quảng thời gian bao lâu thì mạng sống con người kết thúc?
Đáp rằng, thầy Sa-môn này trả lời Đức Phật: "Thưa, trong khoảng một hơi thở." Thọ mạng của con người chỉ nội trong một hơi thở ra vô mà thôi!
Đức Phật dạy, Đức Phật nói với vị Sa-môn ấy: "Lành thay! Thật tốt lắm thay! Ông đã hiểu Đạo rồi vậy." Ông đã thấu rõ được Đạo rồi!
Thuở trước, tại Ần-Độ có một vị vua sùng tín ngoại đạo. Phái ngoại đạo thường tu nhiều loại khổ hạnh; như có người thì trì ngưu-giới (sống theo cách của bò), có người thì trì cẩu-giới (sống theo cách của chó), có người thì lấy tro bôi khắp mình mẩy, có người thì ngủ giường đinh...Họ tu những khổ hạnh của phái Du-già, tự hành xác theo đủ mọi hình thức. Trái lại, các thầy Tỳ-khưu tu theo Phật Pháp thì trông có vẻ thanh nhàn, và họ không phải tu tập những khổ hạnh ấy.
Vì thế, vị vua nọ hỏi các đệ tử của Đức Phật: "Trẫm tin rằng mặc dù phái ngoại đạo tu nhiều thứ khổ hạnh như thế, họ vẫn chưa thể đoạn trừ được lòng tham muốn sắc dục. Tỳ-khưu các thầy tùy tiện như thế thì làm sao mà đoạn trừ được phiền não và lòng dâm dục? Chắc chắn là các thầy không thể nào đoạn trừ được!"
Có một vị Pháp-sư trả lời nhà vua rằng: "Xin Bệ-hạ hãy cho gọi một tù nhân có án tử hình còn bị giam giữ trong ngục đến, và phán rằng: "Trẫm giao cho ngươi một bát dầu. Ngươi phải bưng bát dầu này bằng hai tay và đi trên đường phố. Trong lúc đi như thế, nếu ngươi làm nhiễu một giọt dầu ra khỏi bát, Trẫm sẽ cho đem ngươi ra xử tử; còn nếu nhà ngươi không làm đổ một giọt dầu nào cả, thì khi ngươi trở về, Trẫm sẽ tha tội chết và ngươi sẽ được phóng thích." Sau đó, Bệ-hạ hãy cho một số mỹ nữ đến đàn hát trên con đường mà tên tử tội bưng bát dầu sẽ phải đi qua. Đợi đến khi tên tù đáng tội chết kia đi hết con đường, Bệ-hạ hãy xem xét bát dầu của hắn. Nếu dầu có bị đổ, thì đương nhiên là hắn phải bị giết. Tuy nhiên, nếu một giọt dầu cũng không đổ, thì Bệ-hạ hãy hỏi hắn đã trông thấy những gì ở dọc đường, thử xem hắn trả lời ra sao."
Nhà vua liền làm theo đúng như thế. Vua cho gọi một tù nhân đã bị kết án tử hình đến và truyền: "Hôm nay đáng lẽ nhà ngươi sẽ bị xử tử, nhưng nay Trẫm cho nhà ngươi một cơ hội có thể thoát được tội chết. Như thế nào ư? Trẫm sẽ giao cho ngươi một bát dầu; và ngươi phải bưng bát dầu trên tay mà đi diễu qua đường phố. Nếu ngươi không để cho một giọt dầu nào sánh ra ngoài, thì khi trở về, ngươi sẽ được miễn tội chết. Còn nếu như ngươi làm đổ dù chỉ một giọt dầu, thì lúc trở về, Trẫm sẽ chiếu theo bản án khi trước mà xử tử nhà ngươi! Vậy ngươi hãy đi thử đi.!"
Người tù nhân theo lệnh vua. Sau khi hắn đi hết con đường và quay trở về, bát dầu của hắn vẫn còn nguyên vẹn, không đổ một giọt!
Nhà vua bèn hỏi: "Khi đi trên đường phố, ngươi đã trông thấy những gì?"
Người tử tù đáp: "Tôi không trông thấy gì khác ngoài bát dầu này! Từng giây từng khắc tôi mải lo canh chừng bát dầu, giữ cho dầu khỏi sánh ra ngoài. Ngoại trừ dầu trong cái bát này ra, tôi chẳng thấy và cũng chẳng nghe gì cả."
Nhà vua hỏi vị Pháp-sư: "Như thế là ngụ ý gì?"
Nhà Sư đáp: "Người tử tù ấy ví như những bậc Sa-môn xuất gia - bởi nhận thấy sanh tử là đại sự, là vấn đề quan trọng hơn cả, nên họ không có thì giờ để vọng tưởng về sắc dục. Họ chỉ nghĩ đến chuyện sanh tử, tương tự như người tử tù kia vậy - nếu hắn sơ ý để sánh ra ngoài một giọt dầu hoặc có một chút phiền não, thì phải chịu chết. Các bậc Sa-môn xuất gia cũng thế - tại sao họ có thể đoạn trừ được dâm dục? Bởi vì họ xem vấn đề sanh tử là trọng đại! Vì sao những kẻ ngoại đạo không thể dứt bỏ lòng ham mê sắc dục? Vì họ không thể hiểu được vấn đề sanh tử, không biết rằng sanh tử là một sự việc lớn lao. Do đó, họ không đoạn trừ được lòng dâm dục."
Vì sao quý vị tu Đạo mà chưa đoạn trừ được tâm dâm dục? Vì quý vị chưa chân chánh nhận thức được rằng sự vô thường của sanh tử sẽ xảy đến. Nếu biết được tánh cách cấp bách của lẽ vô thường đối với vấn đề sanh tử, hẳn quý vị sẽ chẳng có thì giờ để khởi các vọng tưởng về sắc dục và cũng chẳng có thì giờ để sanh phiền não về vấn đề ấy !