A Nan, đây là Phật đảnh quang tụ “Tát Đát Đa Bát Đát Ra” (Sitatapatra), những kệ bí mật, câu chữ vi diệu, xuất sinh tất cả chư Phật mười phương. Mười phương Như Lai nhân tâm chú này đắc thành Vô thượng Chánh biến Tri Giác. Mười phương Như Lai nắm tâm chú này hàng phục các ma, ngăn dẹp ngoại đạo. Mười phương Như Lai cỡi tâm chú này ngồi hoa sen báu mà ứng hiện nơi cõi nước như số vi trần. Mười phương Như Lai trì tâm chú này, ở khắp mười phương xoa đảnh thọ ký, tự mình chưa thành quả vị cũng có thể nơi mười phương nhờ Phật thọ ký. Mười phương Như Lai nương tâm chú này ở khắp mười phương cứu vớt các khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đui, điếc, câm, ngọng; các khổ oán ghét phải ở chung, yêu thương phải cách xa, cầu mà chẳng được; khổ vì năm ấm lẫy lừng, trái ngang nghịch cảnh lớn nhỏ đồng thời giải thoát.
Nạn cướp, nạn binh, nạn vua, nạn tù, nạn gió, lửa, nước, đói khát bần cùng, nghĩ đến liền tiêu. Mười phương Như Lai tùy tâm chú này ở khắp mười phương phụng sự thiện tri thức, trong bốn oai nghi, cúng dường đều như ý, trong pháp hội hằng sa Như Lai được suy tôn làm đại Pháp vương tử. Mười phương Như Lai hành tâm chú này, ở trong mười phương nhiếp thọ thân nhân, khiến cho hàng Tiểu thừa nghe tạng bí mật không sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng chú tâm này thành Vô thượng giác, ngồi cội Bồ đề, vào Đại Niết bàn. Mười phương Như Lai truyền tâm chú này, sau khi diệt độ, phó chúc pháp sự của Phật được trụ trì rốt ráo, nghiêm tịnh giới luật thảy đều thanh tịnh.
……………………………………..
Tất cả hoạt động của Phật đều do tâm chú này mà thành. Từ đắc thành Giác ngộ, chuyển pháp luân khắp các cõi nước, thọ ký cho hàng Bồ tát, cúng dường chư Như Lai thiện tri thức, cho đến nhập Đại Niết bàn đều dùng năng lực của chú ánh sáng tụ nơi đỉnh Phật này.
Phật đảnh quang tụ, ánh sáng tụ nơi đảnh Phật, và đảnh này không thể thấy (vô kiến đảnh tướng), người trì chú này có thể tiếp thông với ánh sáng này để tịnh hóa thân tâm mình, đưa đến trí huệ.
……………………………………….
Nếu ta nói về chú Phật đảnh quang tụ Bát Đát Ra thì dùng âm thanh liên tục, câu chữ không lặp lại, từ sáng đến tối, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể cùng tận. Chú này cũng gọi tên là Như Lai Đảnh.
……………………………………..
Chú này là Phật đảnh quang tụ, là Như Lai đảnh, là Ba thân của Phật, nên không thể nói hết công dụng của nó, vì nó ở khắp pháp giới, có tất cả năng lực của pháp giới và ứng hiện khắp pháp giới.
……………………………………..
Hàng Hữu học các ông chưa hết luân hồi, phát tâm chí thành cầu quả A La Hán mà không trì chú này khi ngồi đạo tràng khiến cho thân tâm xa lìa các ma sự thì không thể được.
A Nan, các thế giới có những chúng sanh tùy chỗ cõi nước mình sanh ra có các thứ vỏ cây, lá bối, giấy trắng, bạch điệp nên chép chú này, đựng trong giấy thơm. Nếu người ấy tối tăm chưa thể nhớ tụng được thì mang trong người hoặc viết trong nhà, phải biết người ấy suốt đời không bị tất cả các thứ độc làm hại.
A Nan, nay ta vì ông nói lại chú này để cứu hộ thế gian được đại vô úy và thành tựu trí xuất thế gian của chúng sanh.
Như sau khi ta diệt độ, chúng sanh đời mạt thế có người tụng hay dạy người khác tụng, phải biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa không thể đốt cháy, nước chẳng thể chìm, các thứ độc yếu mạnh không thể hại. Như thế cho đến các chú ác dữ của thiên, long, quỷ thần, tinh kỳ, ma mị đều không thể đụng chạm. Tâm được chánh thọ thì tất cả bùa chú, trùng độc, thuốc độc, kim độc, độc khí các loài cỏ cây, trùng rắn vào trong miệng người ấy đều thành vị cam lồ. Hết thảy ác tinh cùng các quỷ thần lòng dữ hại người không thể khởi ra niệm ác đối với người ấy. Tần na, Dạ ca, các quỷ vương ác dữ khác cùng với quyến thuộc đều chịu ơn sâu, thường giữ gìn ủng hộ.
………………………………………..
Người cầu giải thoát, cầu Vô học lậu tận thì bị những thế lực nặng nề, tối tăm của vòng sanh tử níu kéo lại. Có những thế lực tự nhiên, nhưng cũng do cọng nghiệp, như sự trì trệ của đất, sự thấm ướt và chảy xuống của nước, sự bùng phát của lửa… và có những sinh thể xấu ác chống lại ánh sáng của con đường hoàn thiện. Những sinh thể này gọi là ma. Ma ở bên ngoài hợp với ma là những phiền não bên trong luôn luôn muốn cản trở hành giả.
Chú này có sức mạnh của ánh sáng từ Như Lai Đảnh nên phá trừ mọi tăm tối, xấu ác. Hoặc tự tụng hay dạy người khác tụng, viết trong nhà, đeo nơi người… thì không bị các độc tự nhiên hay từ ma quỷ đến làm hại.
Chú cứu hộ thế gian và giúp người thành tựu trí huệ xuất thế gian. Khi nhờ chú mà được chánh thọ hay đại định, các thứ độc vào trong miệng người ấy đều biến thành vị cam lồ.
……………………………………..
A Nan, nên biết chú này thường có tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa câu chi chủng tộc Kim Cương Tạng Vương Bồ tát, mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cương làm quyến thuộc ngày đêm theo hầu. Giả sử các chúng sanh tâm còn tán loạn, chưa vào Tam ma địa mà tâm ghi nhớ, miệng trì chú này thì Kim Cương vương thường theo bên mình. Huống là người có tâm Bồ đề quyết định thì các Kim Cương Tạng Vương Bồ tát sẽ dùng tịnh tâm âm thầm phù trợ, phát huy thần thức người ấy, khiến cho người ấy lúc ấy nhớ lại tám vạn bốn ngàn hằng hà sa kiếp, rõ biết khắp cả, không còn nghi lầm.
…………………………………….
Định mà người tu Lăng Nghiêm mong muốn đạt đến là Tam muội Kim cương Như huyễn. Tam muội Kim cương là tánh Kim cương, và tánh Kim cương chính là tánh Không. Trong việc đạt được tánh Kim cương Như huyễn này, có sự âm thầm phù trợ lớn lao của Kim Cương bộ, được an trí trong đàn tràng.
…………………………………….
Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối cùng, đời đời không sanh trong các loài Dược xoa, La sát, Phú đơn na, Ca tra phú đơn na, Cưu bàn trà, Tỳ xá giá… các loài ngạ quỷ có hình hay không có hình, có tưởng hay không có tưởng, các chốn xấu ác như vậy. Người thiện nam này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc viết hoặc chép, hoặc đeo hoặc giữ, hoặc cúng dường theo nhiều cách thì đời đời không sanh vào chỗ không thể vui, bần cùng hạ tiện.
Các chúng sanh này dù tự mình chẳng làm nghiệp phước mà công đức mười phương Như Lai đều thông cho họ. Do vậy mà trải qua vô số kiếp không thể nói, thường được sanh một chỗ với chư Phật, vô lượng công đức nhóm lại như chùm ác xoa, đồng một chỗ để huân tu, hằng không phân tán.
Thế nên có thể khiến người đã phá giới được giới căn trở lại thanh tịnh. Người chưa được giới khiến cho họ được giới. Người chưa được tinh tấn khiến được tinh tấn. Người không trí huệ khiến được trí huệ. Người không thanh tịnh khiến mau được thanh tịnh. Người không giữ trai giới tự thành có trai giới.
A Nan, người thiện nam ấy khi trì chú này giả sử có phạm cấm giới khi chưa thọ trì thì sau khi trì chú này các tội phá giới không kể nặng nhẹ, đều nhất thời tiêu diệt. Dù đã uống rượu ăn năm thứ rau cay, các thứ bất tịnh, thì tất cả chư Phật, Bồ tát, Kim cương, tiên thiên, quỷ thần, không cho là có lỗi. Dù mặc y phục rách nát không sạch thì mỗi cử chỉ đi đứng thảy đồng thanh tịnh.
Dầu không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành đạo mà trì tụng chú này thì công đức so với vào đàn hành đạo không khác. Nếu tạo trọng tội, ngũ nghịch vô gián và tội tứ khí, bát khí của tỳ kheo, tỳ kheo ni mà tụng chú này rồi thì các nghiệp nặng như vậy đều tiêu diệt hết cũng như gió mạnh thổi tan đống cát không còn chút gì.
A Nan, nếu có chúng sanh từ vô lượng, vô số kiếp đến nay có tất cả tội chướng hoặc nặng hoặc nhẹ chưa kịp sám hối mà nay có thể đọc tụng, biên chép đeo trên thân hay để nơi chỗ ở như trang trại, nhà, vườn, quán… thì những nghiệp chứa nhóm trước kia đều tiêu tan như nước sôi tiêu tuyết, không bao lâu đều được ngộ Vô sanh pháp nhẫn.
………………………………..
Trì giữ chú này là trì giữ trí huệ và công đức của chư Phật.
Trì tụng, biên chép, hoặc đeo, hoặc giữ thì nhiều kiếp không sanh vào những loài thấp kém và bần cùng, khó tu. Trái lại nếu có chú này thì thông với công đức mười phương chư Phật, thường được sanh một chỗ với chư Phật.
Chú này khiến người đã nhiễm ô tội lỗi được tịnh hóa. Dù mặc y phục rách rưới không sạch thì mỗi cử chỉ đi đứng thảy đồng thanh tịnh, vì chú tịnh hóa từ trong tâm, đến ngữ và thân. Tụng chú này có sức tịnh hóa tất cả những tội nặng nhất. Tụng chú này xem như sám hối tất cả tội lỗi từ vô thủy kiếp đến nay.
……………………………………….
Lại nữa, A Nan, nếu có người nữ chưa sanh con trai con gái, muốn cầu có thai, nếu hay chí tâm nhớ niệm chú này, hoặc đeo trên người chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra này, bèn sanh con trai con gái trí huệ phước đức. Người cầu sống lâu thì được sống lâu, cầu quả báo mau được viên mãn thì mau được viên mãn. về thân mạng, hình sắc, sức khỏe cũng lại như vậy. Sau khi mạng chung, tùy nguyện vãng sanh nơi mười phương cõi nước, chắc chắn không sanh nơi biên địa hạ tiện huống là các loài hình thù khác.
A Nan, nếu các cõi nước, châu huyện, làng xóm bị đói kém, dịch bệnh, tai nạn hay đao binh đấu tranh và tất cả những chỗ có ách nạn khác, nên viết thần chú này treo ở bốn cửa thành, các tháp, đài cao để cho chúng sanh nơi ấy nghinh đón, cung kính, lễ bái, nhất tâm cúng dường, khiến nhân dân mỗi người đeo trong mình hay cất trong mỗi nhà thì tất cả tai ách thảy đều tiêu diệt.
A Nan, bất cứ chỗ nào có chú này thì thiên, long hoan hỷ, mưa thuận gió hòa, mùa màng sung túc, dân chúng an vui Lại cũng trấn giữ tất cả các ác tinh tùy chỗ biến hiện những điều quái lạ khiến tai chướng không khởi, người không bị chết dữ, chết yểu thân thể không vướng xiềng xích, gông cùm, ngày đêm ngủ yên, thường không ác mộng.
A Nan, cõi Ta bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến ác tinh, hai mươi tám đại ác tinh đứng đầu, lại có tám đại ác tinh làm chủ, biến hiện nhiều thứ trên đời, gây ra nhiều tai họa dị thường cho chúng sanh. Nếu chỗ nào có thần chú này thì các thứ ấy đều tiêu diệt hết, trong mười hai do tuần làm vòng kết giới thì các tai biến hung dữ không thể nào vào được.
…………………………………..
Thần chú này đem lại điều nguyện ước cho cá nhân và ngăn trừ tai họa cho cả một quốc gia, sự thịnh vượng cho một đất nước. Hòa bình, thịnh vượng của một đất nước có thể duy trì nhờ phổ biến chú này cho nhân dân.
……………………………………..
Thế nên, Như Lai tuyên dạy chú này, để bảo hộ các người tu hành sơ học ở đời vị lai vào được Tam ma địa, thân tâm rỗng rang, được đại an ổn, không bị hết thảy ma, quỷ thần và những oan khiên, nghiệp cũ, nợ xưa từ vô thủy đến khuấy hại.
Ông và các người hữu học trong chúng cùng các người tu hành đời vị lai y như đàn tràng ta dạy y như pháp mà trì giới, gặp được tăng thanh tịnh làm giới chủ để trì tâm chú này mà không sanh nghi hối. Người thiện nam này ngay nơi cái thân cha mẹ sanh ra này mà không được tâm thông thì mười phương Như Lai hóa ra là vọng ngữ.
…………………………………..
Tâm thông là tâm thông được với Niết bàn hay Pháp thân. Chữ dùng của Kinh là vào được Tam ma địa, tức Tam muội Kim cương Như huyễn. Đây là Sơ quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn hay Sơ địa của Đại thừa. Chữ dùng của Duy thức tông là Thông đạt vị.
Thần chú gồm cả Chỉ và Quán nên tịnh hóa tâm thức, phá trừ những nghiệp chướng, tức là phiền não chướng và sở tri chướng để người tu hành trực tiếp thấy biết bản tánh.
Chú hộ trì tâm, uốn nắn tâm làm cho tâm chuyển hóa cùng một tần số với chân tâm khiến chân tâm hiển hiện ngay nơi “ cái thân cha mẹ sanh ra này” . Cho nên thần chú là đàn tràng bằng âm thanh vậy.