XIV. PHẨM ÁO GIÁO ĐẠI - THỪA
03
 Bạch Thế Tôn! Bố thí              Ba-la-mật-đa, không buộc, không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không buộc, không mở. Vì sao? Bạch              Thế Tôn! Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên không              buộc, không mở; vì tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly, nên không buộc, không mở;              vì tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là viễn ly, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là tịch tịnh,              nên không buộc, không mở; vì tánh của tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên không buộc, không mở; vì tánh              của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là vô tướng, nên không              buộc, không mở; vì tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa              là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa là vô nguyện, nên không buộc, không mở; vì tánh của              tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là vô nguyện, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là vô sanh, nên không buộc,              không mở; vì tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là vô              sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là              vô diệt, nên không buộc, không mở; vì tánh của tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của bố thí Ba-la-mật-đa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở; vì              tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là vô nhiễm, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là vô tịnh,              nên không buộc, không mở; vì tánh của tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa là vô tịnh, nên không buộc, không mở.              Bạch Thế Tôn! Năm loại              mắt, không buộc, không mở; sáu phép thần thông, không buộc, không mở.              Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của năm loại mắt không có sở hữu, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông không có sở              hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là viễn ly,              nên không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là viễn ly,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là tịch tịnh, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là tịch tịnh,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là không, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là không, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô tướng, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là vô tướng,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô nguyện, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là vô nguyện,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô sanh, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là vô sanh,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô diệt, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là vô diệt,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô nhiễm, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là vô nhiễm,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô tịnh, nên              không buộc, không mở; vì tánh của sáu phép thần thông là vô tịnh,              nên không buộc, không mở.              Bạch Thế Tôn! Mười lực              của Phật, không buộc, không mở; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết              thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất              cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không              buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của mười lực của Phật              không có sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của bốn điều              không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại              xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của mười lực Phật là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì tánh của              bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là viễn ly, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là tịch tịnh, nên không              buộc, không mở; vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết              tướng là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực              Phật là không, nên không buộc, không mở; vì tánh của bốn điều không              sợ cho đến trí nhất thiết tướng là không, nên không buộc, không mở.              Vì tánh của mười lực Phật là vô tướng, nên không buộc, không mở; vì              tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô tướng,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô nguyện,              nên không buộc, không mở; vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí              nhất thiết tướng là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              mười lực Phật là vô sanh, nên không buộc, không mở; vì tánh của bốn              điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô sanh, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô diệt, nên không              buộc, không mở; vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết              tướng là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực              Phật là vô nhiễm, nên không buộc, không mở; vì tánh của bốn điều              không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô nhiễm, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô tịnh, nên không buộc,              không mở; vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng              là vô tịnh, nên không buộc, không mở.              Bạch Thế Tôn! Chơn như,              không buộc, không mở; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh              chẳng đổi khác, định pháp, trụ pháp, tánh bình đẳng, tánh ly sanh,              thật tế, tánh vô vi, không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì              tánh của chơn như không có sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh              của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác,              định pháp, trụ pháp, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, thật tế, tánh vô              vi không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như              là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì tánh của pháp giới cho đến              tánh của vô vi là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              chơn như là tịch tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của pháp              giới cho đến tánh của vô vi là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.              Vì tánh của chơn như là không, nên không buộc, không mở; vì tánh của              pháp giới cho đến tánh của vô vi là không, nên không buộc, không mở.              Vì tánh của chơn như là vô tướng, nên không buộc, không mở; vì tánh              của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô tướng, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của chơn như là vô nguyện, nên không buộc, không              mở; vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô nguyện, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô sanh, nên không              buộc, không mở; vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô              sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô diệt, nên              không buộc, không mở; vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi              là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô              nhiễm, nên không buộc, không mở; vì tánh của pháp giới cho đến tánh              của vô vi là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn              như là vô tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của pháp giới cho              đến tánh của vô vi là vô tịnh, nên không buộc, không mở.              Bạch Thế Tôn! Bồ-đề,              không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của Bồ-đề không              có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề là viễn ly,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề là tịch tịnh, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề là không, nên không buộc, không              mở. Vì tánh của Bồ-đề là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của Bồ-đề là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề              là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề là vô diệt,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề là vô nhiễm, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của Bồ-đề là vô tịnh, nên không buộc, không              mở.               Bạch Thế Tôn! Tát-đỏa,              không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của Tát-đỏa              không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát-đỏa là              viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát-đỏa là tịch tịnh,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát-đỏa là không, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của Tát-đỏa là vô tướng, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của Tát-đỏa là vô nguyện, nên không buộc, không              mở. Vì tánh của Tát-đỏa là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của Tát-đỏa là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              Tát-đỏa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát-đỏa              là vô tịnh, nên không buộc, không mở.               Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát,              không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của đại Bồ-tát              không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là              viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là tịch              tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là không, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là vô tướng, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là vô nguyện, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là vô sanh, nên không buộc, không              mở. Vì tánh của đại Bồ-tát là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của đại Bồ-tát là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của đại Bồ-tát là vô tịnh, nên không buộc, không mở.               Bạch Thế Tôn! Quả vị giác              ngộ cao tột, không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của              quả vị giác ngộ cao tột không có sở hữu, nên không buộc, không mở.              Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là viễn ly, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là tịch tịnh, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô              tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột              là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ              cao tột là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị              giác ngộ cao tột là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              quả vị giác ngộ cao tột là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô tịnh, nên không buộc, không              mở.               Bạch Thế Tôn! Bậc chứng              đắc quả vị giác ngộ cao tột, không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế              Tôn! Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột không có sở              hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác              ngộ cao tột là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc              chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là tịch tịnh, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là              không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị              giác ngộ cao tột là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô nguyện, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô              sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị              giác ngộ cao tột là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô nhiễm, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô              tịnh, nên không buộc, không mở.              Bạch Thế Tôn! Nói tóm              lại, tất cả pháp đều không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì              tánh của tất cả pháp không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của tất cả pháp là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của tất cả pháp là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              tất cả pháp là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả              pháp là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp              là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là              vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô              diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nhiễm,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô tịnh, nên              không buộc, không mở.               Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện: Tôn              giả nói sắc không buộc, không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức v.v...              không buộc, không mở chăng?               Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy!                           Mãn Từ Tử hỏi: Những sắc nào là không              buộc, không mở? những thọ, tưởng, hành, thức ... nào là không buộc,              không mở?              Thiện Hiện đáp: Sắc như              huyễn là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như huyễn là              không buộc, không mở. Sắc như mộng là không buộc, không mở; thọ,              tưởng, hành, thức như mộng là không buộc, không mở. Sắc như ảnh              tượng là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như ảnh tượng              là không buộc, không mở. Sắc như tiếng vang là không buộc, không mở;              thọ, tưởng, hành, thức như tiếng vang là không buộc, không mở. Sắc              như bóng sáng là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như              bóng sáng là không buộc, không mở. Sắc như hoa đốm giữa hư không là              không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như hoa đốm giữa hư              không là không buộc, không mở. Sắc như bóng nắng là không buộc,              không mở; thọ, tưởng, hành, thức như bóng nước là không buộc, không              mở. Sắc như ảo thành là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức              như ảo thành là không buộc, không mở. Sắc như việc biến hóa là không              buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là không              buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc như huyễn … cho              đến tánh của sắc như việc biến hóa không có sở hữu, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến              tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa không có sở hữu,              nên không buộc, không mở; vì tánh của sắc như huyễn ... cho đến tánh              của sắc như việc biến hóa là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì              tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn ... cho đến tánh của thọ,              tưởng, hành, thức như việc biến hóa là viễn ly, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của sắc như huyễn ... cho đến tánh của sắc như              việc biến hóa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của              thọ, tưởng, hành, thức như huyễn ... cho đến tánh của thọ, tưởng,              hành, thức như việc biến hóa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.              Vì tánh của sắc như huyễn ... cho đến tánh của sắc như việc biến hóa              là không, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành,              thức như huyễn ... cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc              biến hóa là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc như              huyễn ... cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô tướng, nên              không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn              ... cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô              tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc như huyễn ... cho              đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô nguyện, nên không buộc,              không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn ... cho đến              tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô nguyện, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của sắc như huyễn ... cho đến tánh của              sắc như việc biến hóa là vô sanh, nên không buộc, không mở; vì tánh              của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn ... cho đến tánh của thọ,              tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô sanh, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của sắc như huyễn ... cho đến tánh của sắc như              việc biến hóa là vô diệt, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức như huyễn ... cho đến tánh của thọ, tưởng, hành,              thức như việc biến hóa là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh              của sắc như huyễn ... cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô              nhiễm, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức              như huyễn... cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến              hóa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc như huyễn              ... cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô tịnh, nên không              buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn ... cho              đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô tịnh,              nên không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Sắc quá khứ              không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không buộc,              không mở. Sắc vị lai không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vị              lai không buộc, không mở. Sắc hiện tại không buộc, không mở; thọ,              tưởng, hành, thức hiện tại không buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử!              Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại không có sở hữu, nên không              buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai,              hiện tại không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc              quá khứ, vị lai, hiện tại là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì              tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là viễn              ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện              tại là tịch tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng,              hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là tịch tịnh, nên không buộc,              không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là không, nên              không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị              lai, hiện tại là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc              quá khứ, vị lai, hiện tại là vô tướng, nên không buộc, không mở; vì              tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô              tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai,              hiện tại là vô nguyện, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô nguyện, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô              sanh, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức              quá khứ, vị lai, hiện tại là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô diệt, nên không buộc,              không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện              tại là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ,              vị lai, hiện tại là vô nhiễm, nên không buộc, không mở; vì tánh của              thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô nhiễm, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là              vô tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành,              thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô tịnh, nên không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Sắc thiện,              không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức thiện không buộc, không              mở. Sắc bất thiện, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức bất              thiện, không buộc, không mở. Sắc vô ký, không buộc, không mở; thọ,              tưởng, hành, thức vô ký, không buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì              tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký không có sở hữu, nên không              buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện,              vô ký, không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc              thiện, bất thiện, vô ký là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì              tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là viễn ly,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là              tịch tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành,              thức thiện, bất thiện, vô ký là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.              Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là không, nên không buộc,              không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký              là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất              thiện, vô ký là vô tướng, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô tướng, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô              nguyện, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức              thiện, bất thiện, vô ký là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì              tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô sanh, nên không buộc,              không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký              là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất              thiện, vô ký là vô diệt, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô diệt, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô nhiễm,              nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện,              bất thiện, vô ký là vô nhiễm , nên không buộc, không mở. Vì tánh của              sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô tịnh, nên không buộc, không mở; vì              tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô tịnh,              nên không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Sắc hữu nhiễm,              không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm, không buộc,              không mở. Sắc vô nhiễm, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức              vô nhiễm, không buộc, không mở. Sắc hữu tội, không buộc, không mở;              thọ, tưởng, hành, thức hữu tội, không buộc, không mở. Sắc vô tội,              không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vô tội, không buộc,              không mở. Sắc hữu lậu, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức              hữu lậu, không buộc, không mở. Sắc vô lậu, không buộc, không mở;              thọ, tưởng, hành, thức vô lậu, không buộc, không mở. Sắc tạp nhiễm,              không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức tạp nhiễm, không buộc,              không mở. Sắc thanh tịnh, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành,              thức thanh tịnh, không buộc, không mở. Sắc thế gian, không buộc,              không mở; thọ, tưởng, hành, thức thế gian, không buộc, không mở. Sắc              xuất thế gian, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức xuất thế              gian, không buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc hữu              nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian không có sở hữu, nên không              buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến              tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian không có sở hữu, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc              xuất thế gian là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức              xuất thế gian là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc              hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là tịch tịnh, nên không              buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến              tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là tịch tịnh, nên              không buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc              xuất thế gian là không, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức              xuất thế gian là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc              hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô tướng, nên không              buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến              tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô tướng, nên không              buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất              thế gian là vô nguyện, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ,              tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức              xuất thế gian là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô sanh, nên              không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm              cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô sanh,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của              sắc xuất thế gian là vô diệt, nên không buộc, không mở; vì tánh của              thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành,              thức xuất thế gian là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của              sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô nhiễm, nên              không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm              cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô nhiễm,              nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của              sắc xuất thế gian là vô tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của              thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành,              thức xuất thế gian là vô tịnh, nên không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức              như vậy không buộc, không mở, nên biết như vậy thì nhãn xứ cho đến ý              xứ, sắc xứ cho đến pháp xứ; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và              nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến ý giới,              pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh              ra; địa giới cho đến thức giới; Thánh đế khổ, cho đến thánh đế đạo;              vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; cái không nội cho              đến cái không không tánh tự tánh; bốn tịnh lự cho đến bốn định vô              sắc; bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; pháp môn giải thoát              không cho đến pháp môn giải thoát vô nguyện; bố thí Ba-la-mật-đa cho              đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa; năm loại mắt, sáu phép thần thông; mười              lực của Phật cho đến trí nhất thiết tướng; chơn như cho đến vô vi;              Bồ-đề, Tát-đỏa, đại Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột, bậc chứng đắc              quả vị giác ngộ cao tột, tất cả pháp tương ưng với các pháp đó, lại              cũng không buộc, không mở như vậy.              Mãn Từ Tử! Các đại Bồ-tát              đối với pháp môn, không buộc, không mở như vậy, lấy vô sở đắc làm              phương tiện, nên biết như thật; đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng,              bốn định vô sắc, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm              căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, pháp môn giải              thoát không, vô tướng, vô nguyện, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh              tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, năm loại mắt, sáu phép thần              thông, mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông              suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,              trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không buộc,              không mở như vậy, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên siêng năng tu              học.              Mãn Từ Tử! Các đại Bồ-tát, lấy vô sở              đắc làm phương tiện, nên an trú bốn tịnh lự, không buộc, không mở              cho đến nên an trú trí nhất thiết tướng, không buộc, không mở; lấy              vô sở đắc làm phương tiện, nên thành thục hữu tình, không buộc,              không mở, nên nghiêm tịnh cõi Phật, không buộc, không mở, nên thân              cận cúng dường chư Phật, không buộc, không mở, nên nghe, nhận lãnh              pháp môn, không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát ấy, thường chẳng              xa lìa chư Phật Thế Tôn, không buộc, không mở; thường chẳng xa lìa              năm loại mắt thanh tịnh, không buộc, không mở; thường chẳng xa lìa              sáu phép thần thông thù thắng, không buộc, không mở; thường chẳng xa              lìa pháp môn Đà-la-ni, không buộc, không mở; thường chẳng xa lìa              pháp môn Tam-ma-địa, không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát ấy sẽ phát sanh              trí đạo tướng, không buộc, không mở; sẽ chứng đắc trí nhất thiết,              trí nhất thiết tướng, không buộc, không mở; sẽ chuyển pháp luân,              không buộc, không mở; sẽ dùng pháp Ba-thừa, không buộc, không mở, an              lập các hữu tình, không buộc, không mở.              Này Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ-tát tu hành              sáu phép Ba-la-mật-đa, không buộc, không mở, thì sẽ chứng đắc, không              buộc, không mở, vì tất cả pháp không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh,              không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh đều              không buộc, không mở.              Mãn Từ Tử! Nên biết, đại              Bồ-tát ấy, gọi là người mặc áo giáp Đại-thừa không buộc, không mở. 
   
 
 
                          XV. PHẨM BIỆN ĐẠI - THỪA
                           01                             Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện              Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao biết được tướng Đại-thừa của              đại Bồ-tát? Vì sao biết được sự phát tâm hướng đến Đại-thừa của đại              Bồ-tát? Đại-thừa đó từ đâu mà ra, đến trụ ở nơi nào? Đại-thừa ấy làm              thế nào mà trụ? Ai nương Đại-thừa ấy mà xuất hiện?              Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi hỏi vì sao              mà biết được cái tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát? Sáu phép              Ba-la-mật-đa là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát. Những gì là sáu? Đó              là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn              Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa,              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu              đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm              đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự bố thí tất cả sở hữu trong              ngoài, cũng khuyên người khác bố thí sở hữu trong ngoài. Duy trì              thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác              ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là bố thí Ba-la-mật-đa của đại              Bồ-tát.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tịnh giới Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô              sở đắc làm phương tiện, tự an trú mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên              người khác an trú muời thiện nghiệp đạo, duy trì thiện căn này, cùng              với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này              Thiện Hiện, đó là tịnh giới Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là an nhẫn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô              sở đắc làm phương tiện, tự làm đầy đủ và tăng thượng an nhẫn, cũng              khuyên người khác làm đầy đủ và tăng thượng an nhẫn, duy trì thiện              căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ              cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là an nhẫn Ba-la-mật-đa của đại              Bồ-tát.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô              sở đắc làm phương tiện, đối với sáu phép Ba-la-mật-đa, tự siêng năng              tu tập chẳng dừng nghỉ, cũng khuyên người khác đối với sáu phép              Ba-la-mật-đa, siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, duy trì thiện căn              này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao              tột, thì này Thiện Hiện, đó là tinh tấn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tịnh lự Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu              đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm              đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự mình có thể khéo léo nhập vào              các tịnh lự vô lượng, vô sắc, hoàn toàn chẳng theo thế lực ấy mà thọ              sanh, cũng có thể khuyên người khác nhập vào các tịnh lự, vô lượng,              vô sắc giống như sự khéo léo của mình, duy trì thiện căn này, cùng              với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này              Thiện Hiện, đó là tịnh lự Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô              sở đắc làm phương tiện, có khả năng tự quán sát như thật tất cả pháp              tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, cũng khuyên              người khác quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp              tánh, không có sự chấp trước, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả              hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện              Hiện, đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.               Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng              Đại-thừa của đại Bồ-tát.              Lại nữa, Thiện Hiện!              Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là cái không nội, cái không ngoại, cái              không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng              nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái              không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác,              cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái              không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không              tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Đó là tướng              Đại-thừa của đại Bồ-tát.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là nội không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nội nghĩa là nội              pháp, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Trong đó, nhãn gắn liền              với cái không của nhãn. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải              hoại, bản tánh là như vậy; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý gắn liền với cái              không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Vì sao? Vì chẳng phải thường,              chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nội không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là ngoại không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Ngoại nghĩa là              ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong đó, sắc              gắn liền với cái không của sắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng              phải hoại, bản tánh là như vậy. Thanh, hương, vị, xúc, pháp gắn liền              với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì chẳng phải              thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là              ngoại không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là nội ngoại không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nội ngoại nghĩa              là nội, ngoại pháp, tức là nội lục xứ, ngoại lục xứ. Trong đó, nội              lục xứ gắn liền với cái không của ngoại lục xứ. Vì sao? Vì chẳng              phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Ngoại lục xứ gắn              liền với cái không của nội lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường,              chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nội, ngoại              không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là không không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Không nghĩa là              tất cả pháp đều không. Cái không này gắn liền với cái không của              không. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là              như vậy. Thiện Hiện! Đó là không không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là đại không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Đại nghĩa là              mười phương, tức là đông, nam, tây, bắc, tứ vi, thượng, hạ. Trong              đó, phương đông gắn liền với cái không của phương đông. Vì sao? Vì              chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Phương nam,              tây, bắc, tứ vi, thượng, hạ gắn liền với cái không của phương nam,              tây, bắc, tứ vi, thượng, hạ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng              phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là đại không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là thắng nghĩa không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Thắng nghĩa              nghĩa là Niết bàn. Thắng nghĩa này gắn liền với cái không của thắng              nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là              như vậy. Thiện Hiện! Đó là thắng nghĩa không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là hữu vi không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Hữu vi nghĩa là              Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Trong đó, Dục giới gắn liền với cái              không của Dục giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại,              bản tánh là như vậy. Sắc, Vô Sắc giới gắn liền với cái không của              Sắc, Vô Sắc giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản              tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là hữu vi không.               Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là vô vi không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Vô vi nghĩa là              không sanh, không trụ, không dị, không diệt. Vô vi này gắn liền với              cái không của vô vi. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại,              bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô vi không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tất cánh không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Tất cảnh nghĩa              là cái rốt cùng của các pháp, chẳng thể nắm bắt được. Cái rốt cùng              này gắn liền với cái không rốt cùng. Vì sao? Vì chẳng phải thường,              chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tất cánh              không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là vô tế không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tế nghĩa là              không có ranh giới giữa cái khởi đầu, ở giữa và sau cùng, có thể nắm              bắt được, và không có cái ranh giới giữa đi và đến, có thể nắm bắt              được. Vô tế này gắn liền với cái không của vô tế. Vì sao? Vì chẳng              phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là              vô tế không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tán không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Tán nghĩa là có              buông, có bỏ, có xả, có thể nắm bắt được. Tán này gắn liền với cái              không của tán. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản              tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tán không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là vô biến dị không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Vô biến dị nghĩa              là không buông, không bỏ, không xả, có thể nắm bắt được. Cái vô biến              dị này gắn liền với cái không của vô biến dị. Vì sao? Vì chẳng phải              thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô              biến dị không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là bản tánh không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Bản tánh nghĩa              là bản tánh của tất cả pháp, hoặc tánh của pháp hữu vi, hoặc tánh              của pháp vô vi, đều chẳng phải Thanh-văn làm ra, chẳng phải Độc-giác              làm ra, chẳng phải Bồ-tát làm ra, chẳng phải Như Lai làm ra, cũng              chẳng phải ai khác làm ra. Bản tánh này gắn liền với cái không của              bản tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là              như vậy. Thiện Hiện! Đó là bản tánh không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tự tướng không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Tự tướng nghĩa              là tự tướng của tất cả pháp, như biến ngại là tự tuớng của sắc, lãnh              nạp là tự tướng của thọ, thủ tượng là tự tướng của tưởng, tạo tác là              tự tướng của hành, liễu biệt là tự tướng của thức; hoặc là tự tướng              của pháp hữu vi, hoặc là tự tướng của pháp vô vi, cũng như vậy. Tự              tướng này gắn liền với cái không của tự tướng. Vì sao? Vì chẳng phải              thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tự              tướng không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là cộng tướng không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Cộng tướng nghĩa              là tướng chung của tất cả pháp. Như khổ là cộng tướng của pháp hữu              lậu, vô thường là cộng tướng của pháp hữu vi; không, vô ngã là cộng              tướng của tất cả pháp, có vô lượng cộng tướng như vậy. Cộng tướng              này gắn liền với cái không của cộng tướng. Vì sao? Vì chẳng phải              thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là cộng              tướng không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là nhất thiết pháp không?              Phật dạy: Thiện Hiện! Nhất thiết pháp              nghĩa là pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hoặc là pháp hữu              sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu,              hữu vi, vô vi. Nhất thiết pháp này gắn liền với cái không của nhất              thiết pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh              là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nhất thiết pháp không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là bất khả đắc không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Bất khả đắc              nghĩa là trong tất cả pháp này, chẳng thể nắm bắt được, hoặc quá khứ              chẳng thể nắm bắt được, vị lai chẳng thể nắm bắt được, hiện tại              chẳng thể nắm bắt được; hoặc trong quá khứ không có vị lai hiện tại,              có thể nắm bắt được; hoặc trong vị lai không có quá khứ, hiện tại,              có thể nắm bắt được; hoặc trong hiện tại không có quá khứ, vị lai,              có thể nắm bắt được. Bất khả đắc này gắn liền với cái không của bất              khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là              như vậy. Thiện Hiện! Đó là bất khả đắc không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là vô tánh không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tánh nghĩa là              không có một mảy may tánh có thể nắm bắt được. Vô tánh này gắn liền              với cái không của vô tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải              hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tánh không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là tự tánh không?               Phật dạy: Thiện Hiện! Tự tánh nghĩa là              tự tánh năng hòa hợp của các pháp. Tự tánh này gắn liền với cái              không của tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại,              bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tự tánh không.              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Thế nào là vô tánh tự tánh không?              Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tánh tự tánh              nghĩa là các pháp không có tánh năng hòa hợp nhưng có tự tánh sở hòa              hợp. Vô tánh tự tánh này gắn liền với cái không của vô tánh tự tánh.              Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy.              Thiện Hiện! Đó là vô tánh tự tánh không.              Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tánh gắn liền              với cái không của hữu tánh; vô tánh gắn liền với cái không của vô              tánh; tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh; tha tánh gắn liền              với cái không của tha tánh.               Thế nào là hữu tánh gắn liền với cái              không của hữu tánh? Hữu tánh nghĩa là năm uẩn. Hữu tánh này gắn liền              với cái không của hữu tánh. Vì tánh sanh của năm uẩn chẳng thể nắm              bắt được. Đó là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh.                            Thế nào là vô tánh gắn liền với cái              không của vô tánh? Vô tánh nghĩa là vô vi. Vô tánh này gắn liền với              cái không của vô tánh. Đó là vô tánh gắn liền với cái không của vô              tánh.               Thế nào là tự tánh gắn liền với cái              không của tự tánh? Nghĩa là tự tánh của tất cả pháp đều là không.              Không này chẳng phải do trí làm ra, chẳng phải do kiến làm ra, cũng              chẳng phải do cái gì khác làm ra. Đó là tự tánh gắn liền với cái              không của tự tánh.               Thế nào là tha tánh gắn liền với cái              không của tha tánh? Nghĩa là hoặc Phật xuất thế, hoặc chẳng xuất              thế, tất cả pháp, pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, tánh bất hư vọng, tánh bất biến              dị, thật tế, đều gắn liền với tha tánh nên là không. Đó là tha tánh              gắn liền với cái không của tha tánh.               Thiện Hiện! Nên biết, đó              là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát. 
