XXXI. PHẨM TUỲ HỶ HỒI HƯỚNG
03
Lại nữa, thưa Ðại sĩ! Nếu đại Bồ-tát đối với sự tu hành làm các sự nghiệp phước đức thì biết đúng đắn là lìa sắc, lìa thọ, tưởng, hành, thức; biết đúng đắn là lìa nhãn xứ, lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; biết đúng đắn là lìa sắc xứ, lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; biết đúng đắn là lìa nhãn giới, lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; biết đúng đắn là lìa nhĩ giới, lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; biết đúng đắn là lìa tỷ giới, lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; biết đúng đắn là lìa thiệt giới, lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; biết đúng đắn là lìa thân giới, lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; biết đúng đắn là lìa ý giới, lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; biết đúng đắn là lìa địa giới, lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới; biết đúng đắn là lìa vô minh, lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; biết đúng đắn là lìa bố thí Ba-la-mật-đa, lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; biết đúng đắn là lìa pháp không nội, lìa pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; biết đúng đắn là lìa chơn như, lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; biết đúng đắn là lìa Thánh đế khổ, lìa Thánh đế tập, diệt, đạo; biết đúng đắn là lìa bốn tịnh lự, lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc; biết đúng đắn là lìa tám giải thoát, lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; biết đúng đắn là lìa bốn niệm trụ, lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; biết đúng đắn là lìa pháp môn giải thoát không, lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; biết đúng đắn là lìa năm loại mắt, lìa sáu phép thần thông; biết đúng đắn là lìa mười lực Phật, lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; biết đúng đắn là lìa pháp không quên mất, lìa tánh luôn luôn xả; biết đúng đắn là lìa trí nhất thiết, lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; biết đúng đắn là lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa; biết đúng đắn là lìa hạnh đại Bồ-tát; biết đúng đắn là lìa quả vị giác ngộ cao tột của Phật. Đại Bồ-tát ấy đối với việc tu hành làm các sự nghiệp phước đức, biết đúng đắn như thế là có khả năng tùy hỷ đúng đắn hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.
              Lại nữa, thưa Ðại đức! Nếu đại Bồ-tát              biết đúng đắn việc tu hành tùy hỷ cùng làm các sự nghiệp phước đức              thì xa lìa tự tánh của việc tu hành tùy hỷ cùng làm các sự nghiệp              phước đức; biết đúng đắn Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, xa lìa tự tánh              Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác; biết đúng đắn công đức của Như Lai Ứng              Chánh Ðẳng Giác, xa lìa tự tánh công đức của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng              Giác; biết đúng đắn Thanh-văn, Ðộc-giác, Bồ-tát, xa lìa tự tánh              Thanh-văn, Ðộc-giác, Bồ-tát; biết đúng đắn căn lành đã tu của              Thanh-văn, Ðộc-giác, Bồ-tát, xa lìa tự tánh căn lành của Thanh-văn,              Ðộc-giác, Bồ-tát; biết đúng đắn tâm Bồ-đề, xa lìa tự tánh tâm Bồ-đề;              biết đúng đắn tâm hồi hướng, xa lìa tự tánh tâm hồi hướng; biết đúng              đắn sự hồi hướng của quả vị giác ngộ cao tột, xa lìa tự tánh sự hồi              hướng của quả vị giác ngộ cao tột; biết đúng đắn              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, xa lìa tự tánh Bát-nhã-ba-la-mật-đa; biết đúng              đắn tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, xa              lìa tự tánh tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí              Ba-la-mật-đa; biết đúng đắn pháp không nội, xa lìa tự tánh pháp              không nội; biết đúng đắn pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, xa lìa tự tánh pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; biết đúng đắn              chơn như, xa lìa tự tánh chơn như; biết đúng đắn pháp giới, pháp              tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh              ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì, xa lìa tự tánh pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì;              biết đúng đắn Thánh đế khổ, xa lìa tự tánh Thánh đế khổ; biết đúng              đắn Thánh đế tập, diệt, đạo, xa lìa tự tánh Thánh đế tập, diệt, đạo;              biết đúng đắn bốn tịnh lự, xa lìa tự tánh bốn tịnh lự; biết đúng đắn              bốn vô lượng, bốn định vô sắc, xa lìa tự tánh bốn vô lượng, bốn định              vô sắc; biết đúng đắn tám giải thoát, xa lìa tự tánh tám giải thoát;              biết đúng đắn tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, xa lìa              tự tánh tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; biết đúng đắn              là bốn niệm trụ, xa lìa tự tánh bốn niệm trụ; biết đúng đắn bốn              chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám              chi thánh đạo, xa lìa tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo; biết đúng đắn pháp môn giải thoát không, xa lìa tự tánh pháp              môn giải thoát không; biết đúng đắn pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện, xa lìa tự tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; biết              đúng đắn năm loại mắt, xa lìa tự tánh năm loại mắt; biết đúng đắn              sáu phép thần thông, xa lìa tự tánh sáu phép thần thông; biết đúng              đắn mười lực Phật, xa lìa tự tánh mười lực Phật; biết đúng đắn bốn              điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ,              đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, xa lìa tự tánh bốn điều không              sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; biết đúng đắn pháp không              quên mất, xa lìa tự tánh pháp không quên mất; biết đúng đắn tánh              luôn luôn xả, xa lìa tự tánh tánh luôn luôn xả; biết đúng đắn trí              nhất thiết, xa lìa tự tánh trí nhất thiết; biết đúng đắn trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng, xa lìa tự tánh trí đạo tướng, trí nhất              thiết tướng; biết đúng đắn tất cả pháp môn Đà-la-ni, xa lìa tự tánh              tất cả pháp môn Đà-la-ni; biết đúng đắn tất cả pháp môn Tam-ma-địa,              xa lìa tự tánh tất cả pháp môn Tam-ma-địa; biết đúng đắn hạnh đại              Bồ-tát, xa lìa tự tánh hạnh đại Bồ-tát; biết đúng đắn quả vị giác              ngộ cao tột của Phật, xa lìa tự tánh chư quả vị giác ngộ cao tột của              Phật. Đại Bồ-tát ấy tu hành ly tánh Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế,              thì có khả năng tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.              Lại nữa, thưa Ðại sĩ! Chư đại Bồ-tát,              đối với thiện căn công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã              Niết-bàn và đệ tử, nếu muốn phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị              giác ngộ cao tột, thì nên khởi sự tùy hỷ hồi hướng thế này, nghĩa là              nghĩ như thế này: Như chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các đệ tử              đều đã diệt độ thì công đức thiện căn cũng lại như vậy. Tâm đã phát              khởi sự tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột của ta và sự hồi              hướng quả vị giác ngộ cao tột, tánh của nó cũng vậy. Sự tùy hỷ hồi              hướng quả vị giác ngộ cao tột như thế là không có tưởng điên đảo,              không có tâm điên đảo, không có kiến điên đảo. Nếu đại Bồ-tát dùng              thủ tướng làm phương tiện tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với tất              cả công đức thiện căn của Phật và đệ tử ấy, giữ lấy tướng tùy hỷ hồi              hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì đó là chẳng phải thiện tùy hỷ hồi              hướng; dùng công đức thiện căn của chư Phật và đệ tử trong quá khứ,              giữ lấy cảnh giới phi tướng vô tướng, đại Bồ-tát ấy, dùng ý niệm thủ              tướng mà phát khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, vì vậy              nên chẳng phải là thiện tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên này mà bị              rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Nếu đại Bồ-tát,              chẳng dùng thủ tướng làm phương tiện tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa,              đối với tất cả công đức thiện căn của Phật và đệ tử ấy, lìa tướng              tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, vì vậy nên gọi là thiện              tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên này, đại Bồ-tát ấy tùy hỷ hồi hướng              lìa tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.              Lúc bấy giờ, đại Bồ-tát Di Lặc hỏi cụ              thọ Thiện Hiện: Thưa Ðại đức! Vì sao đại Bồ-tát đối với công đức              thiện căn của chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và chúng đệ tử, tùy hỷ              cùng làm các sự nghiệp phước đức đều chẳng thủ tướng, mà có khả năng              tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột?              Cụ thọ Thiện Hiện đáp: Thưa Ðại sĩ!              Nên biết, trong sự học Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát có những              phương tiện thiện xảo như thế, tuy chẳng thủ tướng mà thành tựu              được; chẳng phải lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà có khả năng phát khởi              tùy hỷ cùng làm các sự nghiệp phước đức, hồi hướng quả vị giác ngộ              cao tột.              Đại Bồ-tát Di Lặc nói: Thưa Ðại đức              Thiện Hiện! Chớ nói như vậy. Vì sao? Vì trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thậm thâm, tất cả công đức thiện căn của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác              và chúng đệ tử đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Các sự              phước tùy hỷ đã làm cũng không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sự              phát tâm hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột cũng không có sở hữu,              chẳng thể nắm bắt được. Trong đó, đại Bồ-tát khi tu hành hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên quán thế này: Công đức thiện căn của chư              Phật và chúng đệ tử trong quá khứ, tánh đều đã diệt; các sự nghiệp              tùy hỷ phước đã làm, sự phát tâm hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột,              tánh đều tịch diệt. Nếu ta đối với công đức thiện căn của tất cả Như              Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và chúng đệ tử ấy, mà thủ tướng phân biệt và              đối với các sự nghiệp phước đức đã tùy hỷ cùng làm, sự phát tâm hồi              hướng quả vị giác ngộ cao tột mà thủ tướng phân biệt; dùng thủ tướng              phân biệt ấy làm phương tiện, phát khởi hồi hướng quả vị giác ngộ              cao tột, thì chư Phật Thế Tôn đều không hứa khả. Vì sao? Vì đối với              chư Phật Thế Tôn và chúng đệ tử đã diệt độ, mà thủ tướng phân biệt              tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, là có sở đắc lớn. Vì vậy              nên đại Bồ-tát muốn đối với công đức thiện căn của chư Phật và chúng              đệ tử, phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột một              cách đúng đắn, thì chẳng nên ở trong đó, khởi lên cái hữu sở đắc,              thủ tướng phân biệt, tùy hỷ hồi hướng; nếu ở trong đó khởi lên cái              hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt, tùy hỷ hồi hướng thì Phật chẳng nói              những người kia có lợi lớn. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy              là vọng tưởng phân biệt, xen lẫn độc dược. Thí như có thức ăn, tuy              đủ mùi vị, màu sắc ngon lành nhưng có lẫn độc dược, người ngu không              biết, tham lam lấy ăn; tuy lúc đầu vừa ý hoan hỷ, khoái lạc, nhưng              sau, thức ăn tiêu hóa bị chịu các khổ, hoặc suýt chết, hoặc mất              mạng. Loại Bổ-đặc-già-la như thế là chẳng khéo thọ trì, chẳng khéo              quán sát, chẳng khéo đọc tụng, chẳng biết rõ nghĩa, mà bảo với chủng              tánh Ðại-thừa: Đến đây! Thiện nam tử! Ngươi đối với tất cả Như Lai              Ứng Chánh Ðẳng Giác ở quá khứ, vị lai và hiện tại, từ sơ phát tâm              cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu              độ vô lượng chúng sanh, đã nhập Vô-dư-y Niết-bàn cho đến khi pháp              diệt, ở khoảng giữa ấy, hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm,              đang chứa nhóm khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc thiện căn đã              chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu hành tịnh lự, tinh              tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc thiện căn đã chứa              nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi trụ pháp không nội; hoặc              thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi trụ pháp              không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn,              pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp              không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp              không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp              không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm              bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang              chứa nhóm khi trụ chơn như; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa              nhóm, đang chứa nhóm khi trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư              vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp,              trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc              thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi trụ Thánh              đế khổ; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm              khi trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ              chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu bốn tịnh lự; hoặc thiện căn đã chứa              nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu bốn vô lượng, bốn định vô              sắc; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi              tu tám giải thoát; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang              chứa nhóm khi tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc              thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu bốn niệm              trụ; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi              tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng              giác, tám chi thánh đạo; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm,              đang chứa nhóm khi tu pháp môn giải thoát không; hoặc thiện căn đã              chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang              chứa nhóm khi tu năm loại mắt; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa              nhóm, đang chứa nhóm khi tu sáu phép thần thông; hoặc thiện căn đã              chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu mười lực Phật; hoặc              thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu bốn điều              không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại              xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ              chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu pháp không quên mất; hoặc thiện căn              đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu tánh luôn luôn xả;              hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu trí              nhất thiết; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa              nhóm khi tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc thiện căn đã              chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi tu tất cả pháp môn              Đà-la-ni; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm              khi tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc thiện căn đã chứa nhóm, sẽ              chứa nhóm, đang chứa nhóm khi nghiêm tịnh cõi Phật; hoặc thiện căn              đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm khi thành tựu hữu tình;              hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri              kiến uẩn và tất cả vô số, vô lượng, vô biên công đức khác của chư              Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác; hoặc tất cả thiện căn hữu lậu, vô lậu              của đệ tử Phật; hoặc công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác              đã, sẽ và đang thọ ký cho quả vị Ðộc-giác, trời, người v.v... hoặc              thiện căn đã chứa nhóm, sẽ chứa nhóm, đang chứa nhóm của trời, rồng,              Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc,              Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... hoặc thiện căn đối với các công              đức phát khởi tùy hỷ hồi hướng của thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v…              Tất cả như thế, đều nhóm tụ lại, cân nhắc, suy lường, hiện tiền tùy              hỷ, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.              Sự tùy hỷ hồi hướng đã nói như thế, là dùng hữu sở đắc, thủ tướng              phân biệt làm phương tiện, như thức ăn lẫn chất độc, trước lợi sau              hại, cho nên đây chẳng phải là thiện tùy hỷ hồi hướng. Vì sao? Vì              dùng hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt mà phát khởi tâm tùy hỷ hồi              hướng, có nhân, có duyên, có tác ý, có hý luận, chẳng tương ưng              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì nó có lẫn chất độc, tức là hủy báng Phật,              chẳng theo lời Phật dạy, chẳng theo pháp đã nói. Chủng tánh              Bổ-đặc-già-la của Bồ-tát chẳng nên theo điều đã nói đó mà tu học. Vì              vậy nên, thưa Ðại đức! Nên nói Bồ-tát thừa trụ như thế nào? Các              thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... nên đối với công đức thiện căn              tùy hỷ hồi hướng của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và chúng đệ tử              trong quá khứ, vị lai, hiện tại ở mười phương thế giới đó là các đức              Phật ấy từ sơ phát tâm đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển              pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh, đã nhập Vô-dư-y              Niết-bàn … cho đến pháp diệt, ở giữa khoảng ấy, hoặc các thiện căn              đã chứa nhóm khi tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc các thiện căn đã chứa              nhóm khi tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí              Ba-la-mật-đa; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi trụ pháp không              nội; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi trụ pháp không ngoại, pháp              không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu              vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc các thiện căn đã              chứa nhóm khi trụ chơn như; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi trụ              pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi              trụ Thánh đế khổ; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi trụ Thánh đế              tập, diệt, đạo; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu bốn tịnh lự;              hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu bốn vô lượng, bốn định vô              sắc; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu tám giải thoát; hoặc các              thiện căn đã chứa nhóm khi tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu bốn niệm trụ; hoặc              các thiện căn đã chứa nhóm khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm              căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc các thiện              căn đã chứa nhóm khi tu pháp môn giải thoát không; hoặc các thiện              căn đã chứa nhóm khi tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện;              hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu năm loại mắt; hoặc các thiện              căn đã chứa nhóm khi tu sáu phép thần thông; hoặc các thiện căn đã              chứa nhóm khi tu mười lực Phật; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi              tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi,              đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc các thiện căn đã              chứa nhóm khi tu pháp không quên mất; hoặc các thiện căn đã chứa              nhóm khi tu tánh luôn luôn xả; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi              tu trí nhất thiết; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu              tất cả pháp môn Đà-la-ni; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi tu tất              cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi nghiêm              tịnh cõi Phật; hoặc các thiện căn đã chứa nhóm khi thành thục hữu              tình; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát              tri kiến uẩn và tất cả vô số, vô lượng, vô biên công đức khác của              chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác; hoặc tất cả thiện căn hữu lậu, vô              lậu của đệ tử Phật; hoặc công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng              Giác đã, đang, sẽ thọ ký cho quả vị Ðộc-giác, trời, người v.v...              hoặc các thiện căn đã chứa nhóm của trời, rồng, Dược-xoa,              Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già,              nhơn phi nhơn v.v... hoặc thiện căn đối với các công đức phát khởi              tùy hỷ hồi hướng của thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… Các thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... trụ Bồ-tát thừa, đối với công đức thiện căn              đó, phát khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột như thế nào?              Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Thưa Ðại sĩ!              Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... trụ Bồ-tát thừa, tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu muốn chẳng hủy báng chư Phật Thế Tôn khi              phát tâm tùy hỷ hồi hướng, thì nên nghĩ thế này: Như chư Như Lai Ứng              Chánh Ðẳng Giác dùng Phật trí vô thượng hiểu rõ, biết khắp các thiện              căn công đức, có loại như vậy, có thể như vậy, có tướng như vậy, có              pháp như vậy, để mà tùy hỷ; ta nay cũng nên tùy hỷ như thế. Lại như              chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác dùng Phật trí vô thượng hiểu rõ,              biết khắp, nên dùng các sự nghiệp phước đức như thế hồi hướng quả vị              giác ngộ cao tột; ta nay cũng nên hồi hướng như thế. Các thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... trụ Bồ-tát thừa, đối với thiện căn công đức              của chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các đệ tử, nên khởi sự tùy hỷ              hồi hướng như thế. Nếu khởi sự tùy hỷ hồi hướng như thế, thì tức là              chẳng hủy báng Phật, theo lời Phật dạy, theo pháp Phật nói. Đại              Bồ-tát ấy, tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy, chẳng lẫn chất độc, cuối              cùng đạt đến quả vị giác ngộ cao tột ngọt ngào.              Lại nữa, thưa Ðại sĩ! Các thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... trụ Bồ-tát thừa tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng              Chánh Ðẳng Giác và các đệ tử, nên khởi sự tùy hỷ hồi hướng như thế              này: Như sắc chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như thọ, tưởng, hành, thức chẳng đọa Dục giới, Sắc              giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị              lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như nhãn xứ chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng đọa ba Dục giới, Sắc giới, Vô              sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như sắc xứ chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc              giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như nhãn giới chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm              duyên sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng              đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi              hướng cũng nên như vậy; như nhĩ giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới,              Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai,              hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như thanh giới, nhĩ              thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như tỷ giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các              thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc              giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như thiệt giới chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như vị              giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng              đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi              hướng cũng nên như vậy; như thân giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới,              Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai,              hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như xúc giới, thân thức              giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như ý giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc              giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như địa giới chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô              sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như vô minh chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới;              đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy              hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như bố thí Ba-la-mật-đa chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như pháp không nội chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã              chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ              hồi hướng cũng nên như vậy; như pháp không ngoại, pháp không nội              ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa,              pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không              không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp              không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp              không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không              không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như chơn như chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh              chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp,              thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              Thánh đế khổ chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng đọa Dục giới,              Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ,              vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như bốn tịnh lự              chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì              chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như              vậy; như bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng đọa Dục giới, Sắc giới,              Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai,              hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như tám giải thoát              chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì              chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như              vậy; như tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              bốn niệm trụ chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm              lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng đọa Dục giới, Sắc              giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị              lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như pháp môn giải              thoát không chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như năm loại mắt chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng              đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi              hướng cũng nên như vậy; như sáu phép thần thông chẳng đọa Dục giới,              Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ,              vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như mười lực              Phật chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam              giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng              nên như vậy; như bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại              từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng đọa              Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng              phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy;              như pháp không quên mất chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới;              đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy              hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như tánh luôn luôn xả chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              trí nhất thiết chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng              đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi              hướng cũng nên như vậy; như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng              chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì              chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như              vậy; như tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô              sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như tất cả pháp môn              Tam-ma-địa chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa              tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng              cũng nên như vậy; như giới uẩn chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc              giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như định uẩn, tuệ uẩn, giải              thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô              sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện              tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như Dự-lưu quả chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như              Nhất-lai quả, Bất-hoàn quả, A-la-hán quả chẳng đọa Dục giới, Sắc              giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị              lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như quả vị              Ðộc-giác chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam              giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng              nên như vậy; như các hạnh đại Bồ-tát chẳng đọa Dục giới, Sắc giới,              Vô sắc giới; đã chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai,              hiện tại, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy; như quả vị giác ngộ cao              tột của chư Phật chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; đã chẳng              đọa tam giới thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, tùy hỷ hồi              hướng cũng nên như vậy. Vì sao? Vì như các pháp ấy tự tánh là không,              nên chẳng đọa tam giới, chẳng phải thuộc về ba đời, tùy hỷ hồi hướng              cũng lại như vậy, đó là vì chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác tự tánh              là không, nên chẳng đọa tam giới, chẳng phải thuộc về ba đời; vì              công đức của chư Phật tự tánh là không, nên chẳng đọa tam giới,              chẳng phải thuộc về ba đời; vì Thanh-văn, Ðộc-giác và trời, người              v.v... tự tánh là không, nên chẳng đọa tam giới, chẳng phải thuộc về              ba đời; vì các thiện căn ấy, tự tánh là không, nên chẳng đọa tam              giới, chẳng phải thuộc về ba đời; vì tùy hỷ ấy, tự tánh là không,              nên chẳng đọa tam giới, chẳng phải thuộc về ba đời; vì pháp sở hồi              hướng, tự tánh là không, nên chẳng đọa tam giới, chẳng phải thuộc về              ba đời; vì người năng hồi hướng, tự tánh là không, nên chẳng đọa tam              giới, chẳng phải thuộc về ba đời. Nếu đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì biết như thật sắc chẳng đọa Dục giới, Sắc              giới, Vô sắc giới; biết như thật thọ, tưởng, hành, thức chẳng đọa              Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu đều chẳng đọa tam giới thì              chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải ba đời thì              chẳng thể dùng hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương              tiện, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì              các pháp sắc v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh thì không có              sở hữu, chẳng thể dùng pháp không sở hữu kia mà tùy hỷ hồi hướng cái              không có sở hữu. Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              biết như thật nhãn xứ chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới;              biết như thật nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng đọa Dục giới, Sắc              giới, Vô sắc giới. Nếu đều chẳng đọa tam giới thì chẳng phải quá              khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải ba đời thì chẳng thể dùng hữu              tướng kia làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, phát sanh hồi              hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì pháp nhãn xứ v.v... tự              tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh thì không sở hữu, chẳng thể dùng              pháp không sở hữu kia mà tùy hỷ hồi hướng cái không sở hữu. Nếu đại              Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì biết như thật sắc xứ chẳng              đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; biết như thật thanh, hương, vị,              xúc, pháp xứ chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu đều              chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng              phải ba đời thì chẳng thể dùng hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở              đắc làm phương tiện, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao              tột. Vì sao? Vì pháp sắc xứ v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất              sanh thì không sở hữu, chẳng thể dùng pháp không sở hữu kia tùy hỷ              hồi hướng cái không sở hữu. Nếu đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì biết như thật nhãn giới chẳng đọa Dục giới,              Sắc giới, Vô sắc giới; biết như thật sắc giới, nhãn thức giới và              nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu đều chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải ba đời thì chẳng thể dùng              hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, phát sanh              tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì pháp nhãn giới              v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh thì không sở hữu, chẳng              thể dùng pháp không sở hữu kia tùy hỷ hồi hướng cái không sở hữu.              Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì biết như thật nhĩ              giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; biết như thật thanh              giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu đều chẳng đọa              ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải ba              đời thì chẳng thể dùng hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở đắc làm              phương tiện, phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.              Vì sao? Vì pháp nhĩ giới v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh              thì không sở hữu, chẳng thể dùng pháp không sở hữu kia tùy hỷ hồi              hướng cái không sở hữu. Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thì biết như thật tỷ giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới;              biết như thật hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu              đều chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu              chẳng phải ba đời thì chẳng thể dùng hữu tướng kia làm phương tiện,              hữu sở đắc làm phương tiện, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác              ngộ cao tột. Vì sao? Vì pháp tỷ giới v.v... tự tánh bất sanh. Nếu              pháp bất sanh thì không sở hữu, chẳng thể dùng pháp không sở hữu kia              tùy hỷ hồi hướng cái không sở hữu. Nếu đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì biết như thật thiệt giới chẳng đọa Dục              giới, Sắc giới, Vô sắc giới; biết như thật vị giới, thiệt thức giới              và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng đọa              Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải              quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải ba đời thì chẳng thể dùng              hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, phát sanh              sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì pháp thiệt giới              v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh thì không sở hữu, chẳng              thể dùng pháp không sở hữu kia tùy hỷ hồi hướng cái không sở hữu.              Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì biết như thật thân              giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; biết như thật xúc              giới, thân thức giới, và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu đều chẳng đọa              ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng phải ba              đời thì chẳng thể dùng hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở đắc làm              phương tiện, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì              sao? Vì pháp thân giới v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh              thì không sở hữu, chẳng thể dùng pháp không sở hữu kia tùy hỷ hồi              hướng cái không sở hữu. Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thì biết như thật ý giới chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới;              biết như thật pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc              làm duyên sanh ra chẳng đọa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Nếu đều              chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu chẳng              phải ba đời thì chẳng thể dùng hữu tướng kia làm phương tiện, hữu sở              đắc làm phương tiện, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao              tột. Vì sao? Vì pháp ý giới v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất              sanh thì không sở hữu, chẳng thể dùng pháp không sở hữu kia tùy hỷ              hồi hướng cái không sở hữu.
