XXX. PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
 41
 Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói thân              giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói xúc giới, thân thức giới và              thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường,              hoặc vô thường; nói thân giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói xúc giới, thân              thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra              hoặc lạc, hoặc khổ; nói thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói xúc              giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói thân giới hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh, nói xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả              năng nương các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh              giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên cầu              thân giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu xúc giới cho đến các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường; nên              cầu thân giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu xúc giới cho đến các thọ              do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu thân giới              hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu xúc giới cho đến các thọ do thân xúc              làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu thân giới hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh, nên cầu xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm              duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu              các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu thân giới hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường,              hoặc vô thường; cầu thân giới hoặc lạc, hoặc khổ, cầu xúc giới cho              đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ; cầu              thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu xúc giới cho đến các thọ do              thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu thân giới hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh, cầu xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm              duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các              pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói ý giới              hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp giới, ý thức giới và ý xúc              cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường;              nói ý giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp giới, ý thức giới và ý xúc              cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ; nói ý              giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng              các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói ý giới              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng              các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng nương các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh              giới nên cầu ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp giới              cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô              thường; nên cầu ý giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp giới cho đến              các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu ý              giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu ý giới hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm              duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu              các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, cầu pháp              giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô              thường; cầu ý giới hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp giới cho đến các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ; cầu ý giới hoặc ngã,              hoặc vô ngã, cầu pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh              ra hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu              pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì              ta gọi là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.                            Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói địa              giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói thủy, hỏa, phong, không, thức              giới hoặc thường, hoặc vô thường; nói địa giới hoặc lạc, hoặc khổ,              nói thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc, hoặc khổ; nói địa              giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thủy, hỏa, phong, không, thức giới              hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói địa giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói              thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh              giới nên cầu địa giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thủy, hỏa,              phong, không, thức giới hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu địa              giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thủy, hỏa, phong, không, thức giới              hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu địa giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu              thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu              địa giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu thủy, hỏa, phong, không,              thức giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các              pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.                           Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu địa giới hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường, hoặc vô thường; cầu              địa giới hoặc lạc, hoặc khổ, cầu thủy, hỏa, phong, không, thức giới              hoặc lạc, hoặc khổ; cầu địa giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu thủy,              hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu địa giới              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu thủy, hỏa, phong, không, thức giới              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu              hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở              đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói vô              minh hoặc thường, hoặc vô thường, nói hành, thức, danh sắc, lục xứ,              xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc              thường, hoặc vô thường; nói vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, nói hành,              thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ; nói vô minh hoặc ngã, hoặc vô              ngã, nói hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,              lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói vô minh              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ,              ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như vậy mà tu hành              tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người              tu hành tịnh giới nên cầu vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, nên              cầu hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc              vô thường; nên cầu vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu hành cho đến              lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu vô minh              hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ,              ưu, não hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu vô minh hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu              hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, cầu hành              cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô thường;              cầu vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, cầu hành cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ; cầu vô minh hoặc ngã, hoặc vô ngã,              cầu hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc vô              ngã; cầu vô minh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu hành cho đến lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương              vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh              giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói bố thí              Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường, nói tịnh giới, an nhẫn,              tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường;              nói bố thí Ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ, nói tịnh giới, an nhẫn,              tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ; nói bố              thí Ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tịnh giới, an nhẫn, tinh              tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói bố thí              Ba-la-mật-đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tịnh giới, an nhẫn, tinh              tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh              giới nên cầu bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường, nên              cầu tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô              thường; nên cầu bố thí Ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tịnh              giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu bố thí              Ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu bố thí              Ba-la-mật-đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả              năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô              thường, cầu tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc              vô thường; cầu bố thí Ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tịnh giới              cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ; cầu bố thí              Ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tịnh giới cho đến              Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu bố thí Ba-la-mật-đa              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu              hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở              đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp không ngoại,              pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không              thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt              ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không              không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không              cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt              được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không              tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường; nói pháp không nội hoặc              lạc, hoặc khổ, nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp              không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu              vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ; nói              pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp không ngoại, pháp              không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng              nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp              không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi              khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng              tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được,              pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự              tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh, nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không,              pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp              không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp              không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp              không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp              không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự              tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh              giới nên cầu pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu              pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc thường,              hoặc vô thường; nên cầu pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu              pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc,              hoặc khổ; nên cầu pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô              ngã; nên cầu pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành              tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường,              cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc              thường, hoặc vô thường; cầu pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, cầu              pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc,              hoặc khổ; cầu pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp không              ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã;              cầu pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp không ngoại              cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như              thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              chơn như hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp giới, pháp tánh, tánh              chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh,              định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư              nghì hoặc thường, hoặc vô thường; nói chơn như hoặc lạc, hoặc khổ,              nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác,              tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh              giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc, hoặc khổ; nói chơn              như hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư              vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp,              trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc              ngã, hoặc vô ngã; nói chơn như hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp              giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình              đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người              có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên              cầu chơn như hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp giới cho đến              cảnh giới bất tư nghì hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu chơn như              hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì              hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu chơn như hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên              cầu chơn như hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp giới cho đến              cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả              năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu chơn như hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc thường, hoặc vô thường;              cầu chơn như hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất              tư nghì hoặc lạc, hoặc khổ; cầu chơn như hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu              chơn như hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp giới cho đến cảnh giới              bất tư nghì hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp              này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              Thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, nói Thánh đế tập, diệt,              đạo hoặc thường, hoặc vô thường; nói Thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc              khổ, nói Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ; nói Thánh đế              khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã,              hoặc vô ngã; nói Thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói Thánh đế              tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng              nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên cầu Thánh              đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo              hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu Thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc              khổ, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu              Thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo              hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu Thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và              nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là              tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu Thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường; cầu Thánh đế              khổ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc              khổ; cầu Thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu Thánh đế tập, diệt,              đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu Thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế,              để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành              tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, nói bốn vô lượng, bốn định              vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường; nói bốn tịnh lự hoặc lạc, hoặc              khổ, nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ; nói bốn              tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc              hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói bốn tịnh lự hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói              bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người              có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành              tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên              cầu bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu bốn vô lượng,              bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu bốn tịnh lự              hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc,              hoặc khổ; nên cầu bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu bốn vô              lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu bốn tịnh lự              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà              tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường; cầu bốn              tịnh lự hoặc lạc, hoặc khổ, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc              lạc, hoặc khổ; cầu bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu bốn vô              lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu bốn tịnh lự hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh              giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương              tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nói tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường; nói tám giải              thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ; nói tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô              ngã, nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc              vô ngã; nói tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tám thắng              xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh              giới nên cầu tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám              thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô              thường; nên cầu tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tám thắng              xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu tám              giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tám thắng xứ, chín định              thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu tám giải thoát              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu              các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường,              cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc              vô thường; cầu tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tám thắng xứ,              chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ; cầu tám giải              thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu tám giải thoát hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành              tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc              tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, nói bốn chánh đoạn, bốn              thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo              hoặc thường, hoặc vô thường; nói bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ,              nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng              giác, tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ; nói bốn niệm trụ hoặc              ngã, hoặc vô ngã, nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm              lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói              bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói bốn chánh đoạn, bốn thần              túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế              mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế              này: Người tu hành tịnh giới nên cầu bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc              vô thường, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc              thường, hoặc vô thường; nên cầu bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, nên              cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ; nên              cầu bốn niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu bốn chánh đoạn cho              đến tám chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu bốn niệm trụ              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi              thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các              pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.                           Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô              thường; cầu bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu bốn chánh đoạn cho              đến tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ; cầu bốn niệm trụ hoặc ngã,              hoặc vô ngã, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc ngã,              hoặc vô ngã; cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu bốn              chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như              thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp môn              giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường; nói pháp              môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ; nói pháp môn giải thoát không              hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện              hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu              hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này:              Người tu hành tịnh giới nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc              thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu pháp môn giải thoát              không hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc              ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện              hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà              tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc              vô thường, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường,              hoặc vô thường; cầu pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ,              cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ; cầu              pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu pháp môn giải              thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các              pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, nói sáu phép thần thông              hoặc thường, hoặc vô thường; nói năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ,              nói sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ; nói năm loại mắt hoặc              ngã, hoặc vô ngã, nói sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói              năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói sáu phép thần thông hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế              mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế              này: Người tu hành tịnh giới nên cầu năm loại mắt hoặc thường, hoặc              vô thường, nên cầu sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường;              nên cầu năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu sáu phép thần thông              hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên              cầu sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu năm loại mắt              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu sáu phép thần thông hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu              hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, cầu              sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường; cầu năm loại mắt              hoặc lạc, hoặc khổ, cầu sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ; cầu              năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu sáu phép thần thông hoặc              ngã, hoặc vô ngã; cầu năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu sáu              phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các              pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nói bốn điều không              sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,              mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường; nói mười              lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng hoặc lạc, hoặc khổ; nói mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô              ngã, nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại              bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc vô              ngã; nói mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói bốn điều              không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại              xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh              giới nên cầu mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu              bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường,              hoặc vô thường; nên cầu mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nên              cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc lạc,              hoặc khổ; nên cầu mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu              bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc              vô ngã; nên cầu mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu              bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu              hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô              thường, cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng              hoặc thường, hoặc vô thường; cầu mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc              khổ, cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc              lạc, hoặc khổ; cầu mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu bốn              điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc vô              ngã; cầu mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu bốn điều              không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta              gọi là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.                            Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nói tánh luôn luôn              xả hoặc thường, hoặc vô thường; nói pháp không quên mất hoặc lạc,              hoặc khổ, nói tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ; nói pháp không              quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc              vô ngã; nói pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tánh              luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương              các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên cầu pháp              không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tánh luôn luôn              xả hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu pháp không quên mất hoặc              lạc, hoặc khổ, nên cầu tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu              pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tánh luôn luôn xả              hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh, nên cầu tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu              người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu              hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô              thường, cầu tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường; cầu pháp              không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tánh luôn luôn xả hoặc lạc,              hoặc khổ; cầu pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tánh              luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu pháp không quên mất hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh              như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi              là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, nói trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường; nói trí nhất thiết              hoặc lạc, hoặc khổ, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc              lạc, hoặc khổ; nói trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói trí nhất              thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết              tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các              pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên cầu trí nhất thiết hoặc              thường, hoặc vô thường, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng              hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc              khổ, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ;              nên cầu trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu trí đạo tướng,              trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã; nên cầu trí nhất thiết              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết              tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp              như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa.                           Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường,              cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường;              cầu trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, cầu trí đạo tướng, trí nhất              thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ; cầu trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô              ngã, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã;              cầu trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các              pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói              tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường, hoặc vô thường, nói tất cả              pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường, hoặc vô thường; nói tất cả pháp môn              Đà-la-ni hoặc lạc, hoặc khổ, nói tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc              lạc, hoặc khổ; nói tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc ngã, hoặc vô ngã,              nói tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc ngã, hoặc vô ngã; nói tất cả              pháp môn Đà-la-ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương              các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới              Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này: Người tu hành tịnh giới nên cầu tất              cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tất cả              pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường, hoặc vô thường; nên cầu tất cả pháp              môn Đà-la-ni hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tất cả pháp môn Tam-ma-địa              hoặc lạc, hoặc khổ; nên cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc ngã, hoặc              vô ngã, nên cầu tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc ngã, hoặc vô ngã;              nên cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu              tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có              khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh              giới Ba-la-mật-đa.               Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v… cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường, hoặc vô              thường, cầu tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường, hoặc vô thường;              cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc lạc, hoặc khổ; cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc              ngã, hoặc vô ngã, cầu tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc ngã, hoặc vô              ngã; cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tất              cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương              vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh              giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.               Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên              biết, đều là nói về tịnh giới Ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ.