XXX. PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
 31
 Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ngoài các loại              hữu tình trong châu Thiệm bộ, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v...              giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, châu Đông thắng thân,              khiến đều tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm              phép thần thông, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v...              ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?               Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất              nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!              Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện              nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm              như thế, biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép,              truyền bá rộng rãi, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, phước              đức có được, hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả              pháp vô lậu đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như              thế, Bổ-đặc-già-la của chủng tánh Thanh-văn, tu học pháp này, mau              nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh-văn, đắc quả Dự-lưu, đắc quả              Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán; Bổ-đặc-già-la của              chủng tánh Độc-giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của              Độc-giác, lần lượt chứng đắc quả vị Độc-giác; Bổ-đặc-già-la của              chủng tánh Bồ-tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của              Bồ-tát, lần lượt tu hành các hạnh Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ              cao tột.              Này Kiều Thi Ca! Tất cả pháp vô lậu,              đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đó là bố              thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh              tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; pháp              không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không,              pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp              không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp              không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp              không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp              không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự              tánh, pháp không không tánh tự tánh; chơn như, pháp giới, pháp tánh,              tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly              sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì; bốn tịnh lự vô lậu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám              giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; bốn niệm              trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căm, năm lực, bảy chi đẳng              giác, tám chi thánh đạo; pháp môn giải thoát không, pháp môn giải              thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; năm loại mắt, sáu              phép thần thông; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tất              cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa và vô lượng, vô              biên Phật pháp khác, tất cả đều là pháp vô lậu đã nói trong đó.              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự-lưu, thì phước              đức có được, còn hơn giáo hóa các loại hữu tình trong châu Nam Thiệm              bộ, châu Đông thắng thân, khiến đều tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng,              bốn định vô sắc, năm phép thần thông. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các              hữu tình tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm              phép thần thông chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ thú; nhưng              nếu các hữu tình trụ quả Dự-lưu thì được vĩnh viễn thoát khỏi ba              đường ác, huống là giáo hóa, khiến trụ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán,              thì phước đức có được, chẳng hơn kia sao?              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ,              châu Đông thắng thân đều trụ quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán,              thì phước đức có được chẳng bằng có người giáo hóa một hữu tình,              khiến họ an trụ quả vị Độc-giác. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì công đức              của quả vị Độc-giác hơn Dự-lưu v.v... gấp trăm, ngàn lần.              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ,              châu Đông thắng thân, khiến đều an trụ quả vị Độc-giác, thì phước              đức có được chẳng bằng người giáo hóa một hữu tình, khiến hướng đến              quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu giáo hóa hữu              tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tức là làm cho Phật              nhãn trong thế gian chẳng dứt. Vì sao? Vì do có đại Bồ-tát nên mới              có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, và quả vị Độc-giác; vì              do có đại Bồ-tát nên mới có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc              quả vị giác ngộ cao tột; vì do có đại Bồ-tát nên mới có Phật bảo,              Pháp bảo, Tăng bảo; tất cả thế gian quy y cúng dường. Vì vậy nên,              Kiều Thi Ca! Tất cả thế gian hoặc trời, hoặc ma, hoặc phạm, hoặc Sa-môn,              hoặc Bà-la-môn và A-tố-lạc, nhơn phi nhơn v.v... nên dùng vô lượng              tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... tuyệt diệu, y phục, anh lạc,              tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả              vật sở hữu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen đại Bồ-tát.              Này Kiều Thi Ca! Do đó nên biết, nếu              thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thậm thâm như thế, biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau              sao chép, truyền bá rộng rãi, thì phước đức có được, hơn phước nói              trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện thù thắng thế              gian, xuất thế gian, đã rộng nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bà-la-môn, dòng dõi lớn Trưởng              giả, dòng dõi lớn Cư sĩ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa,              trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại; vì do pháp đã nói trong tạng              bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm; vì              do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trời Quang, trời Thiểu-quang, trời              Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời              Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời              Sắc-cứu-cánh; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời              Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của bố              thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh              tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì do              pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian              mới có được sự hiện hữu của pháp không nội, pháp không ngoại, pháp              không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng              nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp              không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác,              pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng,              pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp              không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của chơn như, pháp giới, pháp tánh,              tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly              sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; vì do pháp              đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới              có được sự hiện hữu của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy              chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp              môn giải thoát vô nguyện; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,              đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì do              pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian              mới có được sự hiện hữu của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, và Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng,              Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của Độc-giác, và quả vị Độc-giác; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của tất cả đại Bồ-tát và các hạnh đại Bồ-tát; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị              giác ngộ cao tột của chư Phật.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ngoài các loại              hữu tình trong châu Thiệm bộ, châu Đông thắng thân, nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa cả các loại hữu tình trong châu Thiệm              bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, khiến đều tu học bốn              tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, thì              theo ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân              duyên này, được phước nhiều chăng?               Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất              nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!              Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện              nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm              như thế, biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép,              truyền bá rộng rãi, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, phước              đức có được, hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả              pháp vô lậu đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như              thế, Bổ-đặc-già-la của chủng tánh Thanh-văn, tu học pháp này, mau              nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh-văn, đắc quả Dự-lưu, đắc quả              Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán; Bổ-đặc-già-la của              chủng tánh Độc-giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của              Độc-giác, lần lượt chứng đắc quả vị Độc-giác; Bổ-đặc-già-la của              chủng tánh Bồ-tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của              Bồ-tát, lần lượt tu hành các hạnh Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ              cao tột.              Này Kiều Thi Ca! Tất cả pháp vô lậu,              đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đó là bố              thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh              tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; pháp              không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không,              pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp              không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp              không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp              không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp              không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự              tánh, pháp không không tánh tự tánh; chơn như, pháp giới, pháp tánh,              tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly              sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì; bốn tịnh lự vô lậu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám              giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; bốn niệm              trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căm, năm lực, bảy chi đẳng              giác, tám chi thánh đạo; pháp môn giải thoát không, pháp môn giải              thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; năm loại mắt, sáu              phép thần thông; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tất              cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa và vô lượng, vô              biên Phật pháp khác, tất cả đều là pháp vô lậu đã nói trong đó.              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự-lưu, thì phước              đức có được, còn hơn giáo hóa các loại hữu tình trong châu Nam Thiệm              bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, khiến đều tu học bốn              tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông. Vì sao?              Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn              định vô sắc, năm phép thần thông chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng              sanh, quỷ thú; nhưng nếu các hữu tình trụ quả Dự-lưu thì được vĩnh              viễn thoát khỏi ba đường ác, huống là giáo hóa, khiến trụ quả              Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, thì phước đức có được, chẳng hơn kia              sao?              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ,              châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, đều trụ quả Dự-lưu,              Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, thì phước đức có được chẳng bằng có              người giáo hóa một hữu tình, khiến họ an trụ quả vị Độc-giác. Vì sao?              Kiều Thi Ca! Vì công đức của quả vị Độc-giác hơn Dự-lưu v.v... gấp              trăm, ngàn lần.              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ,              châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, khiến đều an trụ quả vị              Độc-giác, thì phước đức có được chẳng bằng có người giáo hóa một hữu              tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều Thi Ca!              Vì nếu giáo hóa hữu tình, hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tức là              làm cho Phật nhãn trong thế gian chẳng dứt. Vì sao? Vì do có đại              Bồ-tát nên mới có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, và quả              vị Độc-giác; vì do có đại Bồ-tát nên mới có Như Lai Ứng Chánh Đẳng              Giác chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; vì do có đại Bồ-tát nên mới              có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo; tất cả thế gian quy y cúng dường.              Vì vậy nên, Kiều Thi Ca! Tất cả thế gian hoặc trời, hoặc ma, hoặc              phạm, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn và A-tố-lạc, nhơn phi nhơn v.v...              nên dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... tuyệt diệu,              y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc,              đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi              khen đại Bồ-tát.              Này Kiều Thi Ca! Do đó nên biết, nếu              thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thậm thâm như thế, biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau              sao chép, truyền bá rộng rãi, thì phước có được, hơn phước nói trước              vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện thù thắng thế gian,              xuất thế gian, đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa              như thế; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa              này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của dòng dõi lớn              Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bà-la-môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng              dõi lớn Cư sĩ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa,              trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại; vì do pháp đã nói trong tạng              bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm; vì              do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trời Quang, trời Thiểu-quang, trời              Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời              Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời              Sắc-cứu-cánh; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời              Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của bố              thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh              tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì do              pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian              mới có được sự hiện hữu của pháp không nội, pháp không ngoại, pháp              không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng              nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp              không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác,              pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng,              pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp              không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của chơn như, pháp giới, pháp tánh,              tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly              sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; vì do pháp              đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới              có được sự hiện hữu của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy              chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp              môn giải thoát vô nguyện; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,              đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì do              pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian              mới có được sự hiện hữu của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, và Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng,              Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của Độc-giác, và quả vị Độc-giác; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của tất cả đại Bồ-tát và các hạnh đại Bồ-tát; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị              giác ngộ cao tột của chư Phật.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ngoài các loại              hữu tình trong châu Thiệm bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu              hóa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa cả các loại hữu              tình trong châu Thiệm bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa,              châu Bắc cu lô, khiến đều tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định              vô sắc, năm phép thần thông, thì theo ý ông thế nào? Thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?                           Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất              nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!              Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện              nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm              như thế, biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép,              truyền bá rộng rãi, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, phước              đức có được, hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả              pháp vô lậu đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như              thế, Bổ-đặc-già-la của chủng tánh Thanh-văn, tu học pháp này, mau              nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh-văn, đắc quả Dự-lưu, đắc quả              Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán; Bổ-đặc-già-la của              chủng tánh Độc-giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của              Độc-giác, lần lượt chứng đắc quả vị Độc-giác; Bổ-đặc-già-la của              chủng tánh Bồ-tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của              Bồ-tát, lần lượt tu hành các hạnh Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ              cao tột.              Này Kiều Thi Ca! Tất cả pháp vô lậu,              đã rộng nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đó là bố              thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh              tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; pháp              không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không,              pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp              không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp              không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp              không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp              không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự              tánh, pháp không không tánh tự tánh; chơn như, pháp giới, pháp tánh,              tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly              sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì; bốn tịnh lự vô lậu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám              giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; bốn niệm              trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căm, năm lực, bảy chi đẳng              giác, tám chi thánh đạo; pháp môn giải thoát không, pháp môn giải              thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; năm loại mắt, sáu              phép thần thông; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tất              cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa và vô lượng, vô              biên Phật pháp khác, tất cả đều là pháp vô lậu đã nói trong đó.              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự-lưu, thì phước              đức có được, còn hơn giáo hóa các loại hữu tình trong châu Nam Thiệm              bộ, châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, châu Bắc cu lô, khiến              đều tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần              thông. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình tu hành bốn tịnh lự, bốn              vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông chẳng thoát khỏi địa              ngục, bàng sanh, quỷ thú; nhưng nếu các hữu tình trụ quả Dự-lưu thì              được vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, huống là giáo hóa, khiến trụ              quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, thì phước đức có được, chẳng hơn              kia sao?              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ,              châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, châu Bắc cu lô đều trụ quả              Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, thì phước đức có được chẳng              bằng người giáo hóa một hữu tình, khiến họ an trụ quả vị Độc-giác.              Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì công đức của quả vị Độc-giác hơn Dự-lưu v.v...              gấp trăm, ngàn lần.              Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ,              châu Đông thắng thân, châu Tây ngưu hóa, châu Bắc cu lô khiến đều an              trụ quả vị Độc-giác, thì phước đức có được chẳng bằng người giáo hóa              một hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều              Thi Ca! Vì nếu giáo hóa hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ              cao tột, tức là làm cho Phật nhãn trong thế gian chẳng dứt. Vì sao?              Vì do có đại Bồ-tát nên mới có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán,              và quả vị Độc-giác; vì do có đại Bồ-tát nên mới có Như Lai Ứng Chánh              Đẳng Giác chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; vì do có đại Bồ-tát nên              mới có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo; tất cả thế gian quy y cúng              dường. Vì vậy nên, Kiều Thi Ca! Tất cả thế gian hoặc trời, hoặc ma,              hoặc phạm, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn và A-tố-lạc, nhơn phi nhơn              v.v... nên dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v...              tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí,              kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cung kính cúng dường, tôn              trọng ngợi khen đại Bồ-tát. Này              Kiều Thi Ca! Do đó nên biết, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v...              sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, biếu tặng người              khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì              phước đức có được, hơn phước nói trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì              tất cả pháp thiện thù thắng thế gian, xuất thế gian, đã rộng nói              trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế; vì do pháp đã nói              trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được              sự hiện hữu của dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bà-la-môn,              dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma,              trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội,              trời Đại-phạm; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời              Cực-quang-tịnh; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh; vì              do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời              Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời              Sắc-cứu-cánh; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời              Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của bố              thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh              tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì do              pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian              mới có được sự hiện hữu của pháp không nội, pháp không ngoại, pháp              không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng              nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp              không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi              khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng              tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được,              pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự              tánh; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này              nên thế gian mới có được sự hiện hữu của chơn như, pháp giới, pháp              tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh              ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới              bất tư nghì; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; vì do pháp              đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới              có được sự hiện hữu của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy              chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp              môn giải thoát vô nguyện; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì do pháp đã nói trong tạng bí              mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu              của mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,              đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì do              pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian              mới có được sự hiện hữu của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả;              vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế              gian mới có được sự hiện hữu của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật              Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của              tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, và Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng,              Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của Độc-giác, và quả vị Độc-giác; vì do pháp đã nói trong              tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự              hiện hữu của tất cả đại Bồ-tát và các hạnh đại Bồ-tát; vì do pháp đã              nói trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có              được sự hiện hữu của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị              giác ngộ cao tột của chư Phật.