Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
Thiện  Hiện! Dị sanh thời trước chẳng khá được. Dị sanh thời sau chẳng khá  được. Dị sanh thời giữa chẳng khá được. Dị sanh trong ba đời bình đẳng  cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Thiện Hiện! Dị sanh quá khứ vị lai hiện  tại trong bình đẳng đều chẳng khá được. Vì cớ sao? Vì tánh bình đẳng  trong bình đẳng hãy chẳng khá được, huống chi trong bình đẳng có dị sanh  quá khứ vị lai hiện tại khá được, vì ngã, hữu tình cho đến tri giả,  kiến giả chẳng khá được vậy.
Thiện Hiện! Thanh văn, Ðộc giác, Bồ  tát, Như Lai thời trước chẳng khá được. Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát, Như  Lai thời sau chẳng khá được. Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát, Như Lai thời  giữa chẳng khá được. Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát, Như Lai trong ba đời  bình đẳng cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Thiện Hiện! Thanh văn, Ðộc  giác, Bồ tát, Như Lai quá khứ vị lai hiện tại trong bình đẳng đều chẳng  khá được. Vì cớ sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng hãy chẳng khá  được, huống chi trong bình đẳng có Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát, Như Lai  quá khứ vị lai hiện tại khá được, vì ngã, hữu tình cho đến tri giả, kiến  giả chẳng khá được vậy.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu  hành Bát nhã Ba la mật đa, trụ trong tướng ba đời bình đẳng này tinh  siêng tu học Nhất thiết trí trí. Vì không lấy chấp nên mau được viên  mãn. Ðấy tên là Bồ tát Ma ha tát tướng Ðại thừa ba đời bình đẳng. Nếu Bồ  tát Ma ha tát an trụ trong tướng Ðại thừa như vậy, vượt hơn tất cả thế  gian, trời, người, a tố lạc thảy, mau năng chứng được Nhất thiết trí  trí, lợi vui hữu tình!
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:  Bạch Thế Tôn! Hay thay, hay thay! Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khéo  nói chính thuyết Ðại thừa Bồ tát Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Ðại thừa như  thế rất tôn rất diệu. Các Bồ tát Ma ha tát quá khứ với trong đấy mà học  đã được Nhất thiết trí trí, các Bồ tát Ma ha tát vị lai với trong đấy mà  học sẽ được Nhất thiết trí trí, tất cả Bồ tát Ma ha tát hiện tại mười  phương vô lượng vô số vô biên thế giới với trong đấy mà học nay được  Nhất thiết trí trí. Vậy nên Ðại thừa rất tôn rất diệu, chỗ nương chơn  thật hơn hết của Nhất thiết trí trí.
Phật bảo: Thiện Hiện! Như  vậy, như vậy. Như lời ngươi vừa nói. Các Bồ tát Ma ha tát quá khứ vị lai  hiện tại đều nương Ðại thừa tinh siêng tu học, mau chứng được Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên Ðại thừa rất tôn rất diệu.
Bấy  giờ, Mãn Từ Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như Lai trước kia khiến  Tôn giả Thiện Hiện vì các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật  đa, mà nay cớ gì bèn thuyết Ðại thừa?
Cụ thọ Thiện Hiện tức thì  bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tôi trước kia đã thuyết Ðại thừa hầu không trái  vượt Bát nhã Ba la mật đa chứ? Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi trước kia đã  thuyết Ðại thừa, đối Bát nhã Ba la mật đa thảy đều tùy thuận, không có  trái vượt. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp,  hoặc Thanh văn pháp, hoặc Ðộc giác pháp, hoặc Bồ tát pháp, hoặc các Phật  pháp khác; tất cả như vậy không pháp nào chẳng nhiếp vào Bát nhã Ba la  mật đa.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn!  Những gì là tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn pháp,  hoặc Ðộc giác pháp, hoặc Bồ tát pháp, hoặc các Phật pháp khác, thảy đều  nhiếp vào Bát nhã Ba la mật đa ư?
Phật nói: Thiện Hiện! Hoặc bố  thí Ba la mật đa, hoặc tịnh giới Ba la mật đa, an nhẫn Ba la mật đa,  tinh tiến Ba la mật đa, tĩnh lự Ba la mật đa, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc  bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc bốn niệm trụ, bốn  chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh  đạo chi. Hoặc không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện  giải thoát môn. Hoặc năm nhãn, sáu thần thông. Hoặc Phật mười lực, bốn  vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám  pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.  Hoặc vô vong thất pháp, hằng trụ xả tánh. Thiện Hiện! Những như vậy  thảy tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn pháp, hoặc Ðộc  giác pháp, hoặc Bồ tát pháp, hoặc các Phật pháp khác; tất cả như vậy  thảy đều nhiếp vào Bát nhã Ba la mật đa. 
Lại nữa, Thiện Hiện!  Hoặc Ðại thừa, hoặc bát nhã Ba la mật đa, hoặc tĩnh lự tinh tiến an nhẫn  tịnh giới bố thí Ba la mật đa. Hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành thức. Hoặc  nhãn xứ, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Hoặc sắc xứ, hoặc thanh hương vị  xúc pháp xứ. Hoặc nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn  xúc làm duyên sanh ra các thọ. Hoặc nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới  và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Hoặc tỷ giới, hương giới,  tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Hoặc thiệt  giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra  các thọ. Hoặc thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc  làm duyên sanh ra các thọ. Hoặc ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý  xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Hoặc địa giới, hoặc thủy hỏa phong  không thức giới. Hoặc khổ thánh đế, hoặc tập diệt đạo thánh đế. Hoặc vô  minh, hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,  lão tử sầu thán khổ ưu não. Hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới. Hoặc  thiện pháp, phi thiện pháp. Hoặc pháp hữu ký, vô ký. Hoặc pháp hữu lậu,  vô lậu. Hoặc pháp hữu vi, vô vi. Hoặc pháp thế gian, xuất thế gian. Hoặc  bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tám giải thoát,  hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Hoặc bốn niệm trụ,  hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,  tám thánh đạo chi. Hoặc không giải thoát môn, hoặc vô tướng, vô nguyện  giải thoát môn. Hoặc năm nhãn, hoặc sáu thần thông. Hoặc Phật mười lực,  hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,  mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết  tướng trí. Hoặc vô vong thất pháp, hoặc hằng trụ xả tánh. Hoặc nhất  thiết đà la ni môn, hoặc nhất thiết tam ma địa môn. Hoặc các Như Lai,  hoặc Phật đã giác nói ra pháp luật. Hoặc nội không, hoặc ngoại không,  nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi  không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị  không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp  không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh  không. Hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất  biến dị tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt  giới, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, vô tánh giới,  vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, bổn  vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn; tất cả pháp như vậy thảy đều chẳng tương  ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc;  chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến; chẳng phải hữu đối, chẳng phải  vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Thiện Hiện! Do  vì nhân duyên đây, nên Ngươi trước kia đã thuyết Ðại thừa đối với Bát  nhã Ba la mật đa thảy đều tùy thuận, không chỗ trái vượt. Sở vì sao?
Thiện  Hiện! Ðại thừa chẳng khác Bát nhã Ba la mật đa, Bát nhã Ba la mật đa  chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật  đa, tánh không có hai, vì không hai phần vậy. Thiện Hiện! Ðại thừa  chẳng khác tĩnh lự tịnh giới an nhẫn tinh tiến bố thí Ba la mật đa, tĩnh  lự tịnh giới an nhẫn tinh tiến bố thí Ba la mật đa chẳng khác Ðại thừa.  Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc tĩnh lự tịnh giới an nhẫn tinh tiến  bố thí Ba la mật đa, tánh không có hai, vì không hai phần vậy.
Thiện  Hiện! Ðại thừa chẳng khác bốn tĩnh lự, bốn tĩnh lự chẳng khác Ðại thừa.  Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc bốn tĩnh lự, tánh không có hai, vì  không hai phần vậy. Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác bốn vô lượng, bốn vô  sắc định; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao?  Vì hoặc Ðại thừa, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tánh không có  hai, vì không hai phần vậy.
Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác tám  giải thoát, tám giải thoát chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại  thừa hoặc tám giải thoát, tánh không có hai, vì không hai phần vậy.  Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười  biến xứ; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng khác Ðại  thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ, tánh không có hai, vì không hai phần vậy.
Thiện  Hiện! Ðại thừa chẳng khác bốn niệm trụ, bốn niệm trụ chẳng khác Ðại  thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc bốn niệm trụ, tánh không có hai,  vì không hai phần vậy. Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác bốn chánh đoạn,  bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi;  bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao?  Vì hoặc Ðại thừa, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi, tánh  không có hai, vì không hai phần vậy.
Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng  khác không giải thoát môn, không giải thoát môn chẳng khác Ðại thừa. Vì  cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc không giải thoát môn, tánh không có hai,  vì không hai phần vậy. Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng khác Ðại  thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát  môn, tánh không có hai, vì không hai phần vậy.
Thiện Hiện! Ðại  thừa chẳng khác năm nhãn, năm nhãn chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì  hoặc Ðại thừa, hoặc năm nhãn, tánh không có hai, vì không hai phần vậy.  Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác sáu thần thông, sáu thần thông chẳng  khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc sáu thần thông, tánh  không có hai, vì không hai phần vậy.
Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng  khác Phật mười lực, Phật mười lực chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì  hoặc Ðại thừa, hoặc Phật mười lực, tánh không có hai, vì không hai phần  vậy. Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại  từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết  trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; bốn vô sở úy cho đến nhất  thiết tướng trí chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc  bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí, tánh không có hai, vì không  hai phần vậy.
Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác vô vong thất pháp,  vô vong thất pháp chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc  vô vong thất pháp, tánh không có hai, vì không hai phần vậy. Thiện  Hiện! Ðại thừa chẳng khác hằng trụ xả tánh, hằng trụ xả tánh chẳng khác  Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc hằng trụ xả tánh, tánh không  có hai, vì không hai phần vậy.
Thiện Hiện! Ðại thừa chẳng khác  pháp uẩn, giới, xứ thảy không, bất không; pháp uẩn, giới, xứ thảy không,  bất không chẳng khác Ðại thừa. Vì cớ sao? Vì hoặc Ðại thừa, hoặc pháp  uẩn, giới, xứ thảy không, bất không, tánh không có hai, vì không hai  phần vậy.
Thiện Hiện! Do vì nhân duyên đây, nên ngươi trước kia  đã thuyết Ðại thừa đối với Bát nhã Ba la mật đa thảy đều tùy thuận,  không chỗ trái vượt. Hoặc thuyết Ðại thừa thời là đã thuyết Bát nhã Ba  la mật đa, hoặc thuyết Bát nhã Ba la mật đa thời là đã thuyết Ðại thừa,  vì hai pháp như thế không có riêng khác nhau vậy.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thời trước Bồ tát  Ma ha tát chẳng khá được. Thời sau Bồ tát Ma ha tát chẳng khá được. Thời  giữa Bồ tát Ma ha tát chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Vì sắc vô  biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Thọ tưởng hành thức  vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Nhãn  xứ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhĩ tỷ thiệt  thân ý xứ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế  Tôn! Sắc xứ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Thanh  hương vị xúc pháp xứ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô  biên.
Bạch Thế Tôn! Nhãn giới vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha  tát cũng vô biên. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm  duyên sanh ra các thọ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô  biên. Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát  cũng vô biên. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên  sanh ra các thọ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên.  Bạch Thế Tôn! Tỷ giới vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô  biên. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các  thọ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn!  Thiệt giới vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Vị  giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ  vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Thân  giới vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Xúc giới,  thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên,  nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Ý giới vô  biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Pháp giới, ý thức  giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên, nên phải biết Bồ  tát Ma ha tát cũng vô biên.
Bạch Thế Tôn! Ðịa giới vô biên, nên  phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Thủy hỏa phong không thức giới  vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Khổ  thánh đế vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Tập diệt  đạo thánh đế vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch  Thế Tôn! Vô minh vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên.  Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu  thán khổ ưu não vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên.  Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la mật đa vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha  tát cũng vô biên. Tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật  đa vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên.
Bạch Thế  Tôn! Bốn tĩnh lự vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên.  Bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát  cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát vô biên, nên phải biết Bồ tát  Ma ha tát cũng vô biên. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô  biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Bốn  niệm trụ vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bốn chánh  đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo  chi vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn!  Không giải thoát môn vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô  biên. Vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô biên, nên phải biết Bồ tát  Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Năm nhãn vô biên, nên phải biết Bồ  tát Ma ha tát cũng vô biên. Sáu thần thông vô biên, nên phải biết Bồ  tát Ma ha tát cũng vô biên.
Bạch Thế Tôn! Phật mười lực vô biên,  nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại  giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất  thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô biên, nên phải biết Bồ  tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Vô vong thất pháp vô biên,  nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Hành trụ xả tánh vô biên,  nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Tất cả đà la  ni môn vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên; tất cả tam  ma địa môn vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô biên.
Bạch  Thế Tôn! Nội không vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng vô  biên. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa  không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán  không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng  không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh  không, vô tánh tự tánh không vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát  cũng vô biên. Bạch Thế Tôn! Chơn như vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha  tát cũng vô biên. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị  tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới,  bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, vô tánh giới, vô  tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, bổn vô,  thật tế, cứu cánh Niết bàn vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát cũng  vô biên.
Bạch Thế Tôn! Thanh văn thừa vô biên, nên phải biết Bồ  tát Ma ha tát cũng vô biên. Ðộc giác thừa vô biên, nên phải biết Bồ tát  Ma ha tát cũng vô biên. Ðại thừa vô biên, nên phải biết Bồ tát Ma ha tát  cũng vô biên.
Bạch Thế Tôn! Tức sắc, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được. Lìa sắc, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức  thọ tưởng hành thức, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa thọ  tưởng hành thức, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Bạch Thế  Tôn! Tức nhãn xứ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa nhãn  xứ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Bạch Thế Tôn! Tức sắc xứ,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa sắc xứ, Bồ tát Ma ha tát  vô sở hữu chẳng khá được. Tức thanh hương vị xúc pháp xứ, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa thanh hương vị xúc pháp xứ, Bồ tát Ma  ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức nhãn giới, Bồ  tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa nhãn giới, Bồ tát Ma ha tát  vô sở hữu chẳng khá được. Tức sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn  xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá  được. Lìa sắc giới, nhãn thức giới, và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh  ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế  Tôn! Tức nhĩ giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa nhĩ  giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức thanh giới, nhĩ  thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa thanh giới, nhĩ thức giới, và nhĩ xúc,  nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá  được.
Bạch Thế Tôn! Tức tỷ giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được. Lìa tỷ giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.  Tức hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các  thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa hương giới, tỷ thức  giới, và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô  sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức thiệt giới, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa thiệt giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở  hữu chẳng khá được. Tức vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc  làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.  Lìa vị giới, thiệt thức giới, và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra  các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn!  Tức thân giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa thân  giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức xúc giới, thân thức  giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát  vô sở hữu chẳng khá được. Lìa xúc giới, thân thức giới, và thân xúc,  thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá  được.
Bạch Thế Tôn! Tức ý giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng  khá được. Lìa ý giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức  pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát  Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa pháp giới, ý thức giới, và ý  xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng  khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức địa giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được. Lìa địa giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.  Tức thủy hỏa phong không thức giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng  khá được. Lìa thủy hỏa phong không thức giới, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức khổ thánh đế, Bồ tát Ma ha tát  vô sở hữu chẳng khá được. Lìa khổ thánh đế, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được. Tức tập diệt đạo thánh đế, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được. Lìa tập diệt đạo thánh đế, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức vô minh, Bồ tát Ma ha tát vô sở  hữu chẳng khá được. Lìa vô minh, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá  được. Tức hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,  lão tử sầu thán khổ ưu não, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.  Lìa hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức bố thí Ba la mật đa, Bồ tát Ma  ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa bố thí Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự  bát nhã Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa  tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức bốn tĩnh lự, Bồ  tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa bốn tĩnh lự, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức bốn vô lượng, bốn vô sắc định, Bồ tát  Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa bốn vô lượng, bốn vô sắc định,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức tám  giải thoát, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa tám giải  thoát, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức tám thắng xứ, chín  thứ đệ định, mười biến xứ, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.  Lìa tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, Bồ tát Ma ha tát vô sở  hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức bốn niệm trụ, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa bốn niệm trụ, Bồ tát Ma ha tát vô sở  hữu chẳng khá được. Tức bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,  bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng  khá được. Lìa bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi, Bồ tát Ma ha tát  vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức không giải thoát  môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa không giải thoát  môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức vô tướng, vô nguyện  giải thoát môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa vô tướng,  vô nguyện giải thoát môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch  Thế Tôn! Tức năm nhãn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa  năm nhãn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức sáu thần thông,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa sáu thần thông, Bồ tát  Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức Phật mười  lực, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa Phật mười lực, Bồ  tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại  giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất  thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, Bồ tát Ma ha tát vô sở  hữu chẳng khá được. Lìa bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí, Bồ  tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức đạo  tướng trí, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa đạo tướng trí,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức  pháp vô vong thất, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa pháp  vô vong thất, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức tánh hằng  trụ xả, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa tánh hằng trụ xả,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn! Tức tất  cả đà la ni môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa tất cả  đà la ni môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức tất cả tam  ma địa môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa tất cả tam ma  địa môn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế  Tôn! Tức nội không, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa nội  không, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức ngoại không, nội  ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô  vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn  tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không,  bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa ngoại không cho đến vô  tánh tự tánh không, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch  Thế Tôn! Tức chơn như, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa  chơn như, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức pháp giới, pháp  tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bất tư nghì giới, hư không  giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an  ẩn giới, tịch tĩnh giới, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn, Bồ tát Ma  ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa pháp giới, pháp tánh cho đến thật  tế, cứu cánh Niết bàn, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch  Thế Tôn! Tức Thanh văn thừa, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.  Lìa Thanh văn thừa, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức Ðộc  giác thừa, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa Ðộc giác thừa,  Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức Ðại thừa, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa Ðại thừa, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được. Bạch Thế Tôn! Tức Thanh văn bổ đặc già la, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa Thanh văn bổ đặc già la, Bồ tát Ma ha  tát vô sở hữu chẳng khá được. Tức Ðộc giác, Ðại thừa bổ đặc già la, Bồ  tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được. Lìa Ðộc giác, Ðại thừa bổ đặc  già la, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được.
Bạch Thế Tôn!  Ðối với tất cả pháp, đem tất cả chủng tánh, tất cả nơi chỗ, tất cả thời  gian để tìm Bồ tát Ma ha tát đều không thấy đâu hết, trọn chẳng khá  được. Vậy thì làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật đa dạy bảo dạy  trao các Bồ tát Ma ha tát được.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát  chỉ có giả danh, như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, các pháp cũng vậy  đều không tự tánh. Bạch Thế Tôn! Sắc thảy các pháp rốt ráo chẳng sanh.  Nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi sắc thảy. Bạch Thế Tôn! Tôi đâu  có thể đem rốt ráo chẳng sanh là Bát nhã Ba la mật đa dạy bảo dạy trao  rốt ráo chẳng sanh là các Bồ tát Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Lìa rốt ráo  chẳng sanh cũng không có Bồ tát Ma ha tát năng tu hành Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe tác lên thuyết này,  tâm kia chẳng kinh chẳng khủng chẳng bố, chẳng chìm chẳng đắm, cũng  chẳng lo buồn ăn năn, phải biết Bồ tát Ma ha tát này là năng tu hành Bát  nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì  duyên cớ nào nói Bồ tát Ma ha tát thời trước chẳng khá được, Bồ tát Ma  ha tát thời sau chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời giữa chẳng khá  được? Vì duyên cớ nào nói sắc thảy vô biên, nên Bồ tát Ma ha tát cũng vô  biên? Vì duyên cớ nào nói tức sắc thảy, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu  chẳng khá được; lìa sắc thảy, Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu chẳng khá được?  Vì duyên cớ nào mà nói tôi đối với tất cả pháp, đem tất cả chủng tánh,  tất cả nơi chỗ, tất cả thời gian tìm Bồ tát Ma ha tát đều không thấy đâu  hết, trọn chẳng khá được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật đa  dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát? Vì duyên cớ nào nói Bồ tát Ma ha  tát chỉ có giả danh? Vì duyên cớ nào nói như nói ngã thảy rốt ráo chẳng  sanh? Vì duyên cớ nào nói các pháp cũng vậy đều vô tự tánh? Vì duyên cớ  nào mà nói sắc thảy các pháp rốt ráo chẳng sanh? Vì duyên cớ nào nói nếu  rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc thảy? Vì duyên cớ nào nói tôi đâu  có thể đem rốt ráo chẳng sanh là Bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo dạy trao  rốt ráo chẳng sanh là các Bồ tát Ma ha tát? Vì duyên cớ nào nói lìa rốt  ráo chẳng sanh cũng không có Bồ tát Ma ha tát năng tu hành Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề? Vì duyên cớ nào nói Bồ tát Ma ha tát nghe tác lên  thuyết này, tâm kia chẳng kinh chẳng khủng chẳng bố, chẳng chìm chẳng  đắm, cũng chẳng lo buồn ăn năn, phải biết Bồ tát Ma ha tát này năng tu  hành Bát nhã Ba la mật đa?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp Xá Lợi  Tử rằng: Như Tôn giả đã hỏi vì duyên cớ nào nói Bồ tát Ma ha tát thời  trước chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời sau chẳng khá được, Bồ tát  Ma ha tát thời giữa chẳng khá được? Xá Lợi Tử! Vì hữu tình vô sở hữu,  nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Vì hữu tình  không, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Vì hữu  tình xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được? Vì  hữu tình không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa  chẳng khá được? Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì trong hữu tình vô sở hữu,  không, xa lìa, không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau  giữa chẳng khá được vậy. Xá Lợi Tử! Chẳng phải hữu tình vô sở hữu mà có  khác. Chẳng phải hữu tình không mà có khác. Chẳng phải hữu tình xa lìa  mà có khác. Chẳng phải hữu tình không có tự tánh mà có khác. Chẳng phải  Bồ tát Ma ha tát thời trước mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời  sau mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời giữa mà có khác. Xá  Lợi Tử! Hoặc hữu tình vô sở hữu, hoặc hữu tình không, hoặc hữu tình xa  lìa, hoặc hữu tình không có tự tánh, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời trước,  hoặc Bồ tát Ma ha tát thời sau, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời giữa; tất cả  pháp như thế không có hai, vì không hai phần vậy. Xá Lợi Tử! Do vì duyên  cớ này nên tôi tác lên thuyết là: Bồ tát Ma ha tát thời trước chẳng khá  được, Bồ tát Ma ha tát thời sau chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời  giữa chẳng khá được.
Xá Lợi Tử! Sắc vô sở hữu, nên Bồ tát Ma ha  tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Thọ tưởng hành thức vô sở hữu,  nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Sắc không, nên  Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Thọ tưởng hành thức  không, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Sắc xa  lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Thọ tưởng  hành thức xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá  được. Sắc không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát th��i trước sau giữa  chẳng khá được. Thọ tưởng hành thức không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha  tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì trong  sắc thọ tưởng hành thức vô sở hữu, không, xa lìa, không có tự tánh, nên  Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa đều chẳng khá được vậy. Xá Lợi Tử!  Chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức vô sở hữu mà có khác. Chẳng phải sắc  thọ tưởng hành thức không mà có khác. Chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức  xa lìa mà có khác. Chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức không có tự tánh  mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời trước mà có khác. Chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát thời sau mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát  thời giữa mà có khác. Xá Lợi Tử! Hoặc sắc thọ tưởng hành thức vô sở hữu,  hoặc sắc thọ tưởng hành thức không, hoặc sắc thọ tưởng hành thức xa  lìa, hoặc sắc thọ tưởng hành thức không có tự tánh, hoặc Bồ tát Ma ha  tát thời trước, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời sau, hoặc Bồ tát Ma ha tát  thời giữa; tất cả pháp như thế không có hai, vì không hai phần vậy. Xá  Lợi Tử! Do vì duyên cớ này nên tôi tác lên thuyết là: Bồ tát Ma ha tát  thời trước chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời sau chẳng khá được, Bồ  tát Ma ha tát thời giữa chẳng khá được.
Xá Lợi Tử! Nhãn xứ vô sở  hữu, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Nhĩ tỷ  thiệt thân ý xứ vô sở hữu, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa  chẳng khá được. Nhãn xứ không, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa  chẳng khá được. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không, nên Bồ tát Ma ha tát thời  trước sau giữa chẳng khá được. Nhãn xứ xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời  trước sau giữa chẳng khá được. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ xa lìa, nên Bồ  tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Nhãn xứ không có tự  tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Nhĩ tỷ  thiệt thân ý xứ không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau  giữa chẳng khá được. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì trong nhãn nhĩ tỷ thiệt  thân ý xứ vô sở hữu, không, xa lìa, không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha  tát thời trước sau giữa đều chẳng khá được vậy. Xá Lợi Tử! Chẳng phải  nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vô sở hữu mà có khác. Chẳng phải nhãn nhĩ tỷ  thiệt thân ý xứ không mà có khác. Chẳng phải nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ xa lìa mà có khác. Chẳng phải nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không có tự  tánh mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời trước mà có khác.  Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời sau mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát thời giữa mà có khác. Xá Lợi Tử! Hoặc nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ  vô sở hữu, hoặc nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không, hoặc nhãn nhĩ tỷ  thiệt thân ý xứ xa lìa, hoặc nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không có tự  tánh, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời trước, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời sau,  hoặc Bồ tát Ma ha tát thời giữa; tất cả pháp như thế không có hai, vì  không hai phần vậy. Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ này nên tôi tác lên thuyết  là: Bồ tát Ma ha tát thời trước chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời  sau chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời giữa chẳng khá được.
Xá  Lợi Tử! Sắc xứ vô sở hữu, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa  chẳng khá được. Thanh hương vị xúc pháp xứ vô sở hữu, nên Bồ tát Ma ha  tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Sắc xứ không, nên Bồ tát Ma ha  tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Thanh hương vị xúc pháp xứ  không, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Sắc xứ  xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Thanh  hương vị xúc pháp xứ xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa  chẳng khá được. Sắc xứ không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước  sau giữa chẳng khá được. Thanh hương vị xúc pháp xứ không có tự tánh,  nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được. Vì cớ sao? Xá  Lợi Tử! Vì trong sắc thanh hương vị xúc pháp xứ vô sở hữu, không, xa  lìa, không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa đều  chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp xứ vô  sở hữu mà có khác. Chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp xứ không mà có  khác. Chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp xứ xa lìa mà có khác.  Chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp xứ không có tự tánh mà có khác.  Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời trước mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma  ha tát thời sau mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời giữa mà có  khác. Xá Lợi Tử! Hoặc sắc thanh hương vị xúc pháp xứ vô sở hữu, hoặc sắc  thanh hương vị xúc pháp xứ không, hoặc sắc thanh hương vị xúc pháp xứ  xa lìa, hoặc sắc thanh hương vị xúc pháp xứ không có tự tánh, hoặc Bồ  tát Ma ha tát thời trước, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời sau, hoặc Bồ tát Ma  ha tát thời giữa; tất cả pháp như thế không có hai, vì không hai phần  vậy. Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ này, nên tôi tác lên thuyết là: Bồ tát Ma  ha tát thời trước chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời sau chẳng khá  được, Bồ tát Ma ha tát thời giữa chẳng khá được.
Xá Lợi Tử! Nhãn  giới vô sở hữu, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được.  Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các  thọ vô sở hữu, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được.  Nhãn giới không, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá  được. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra  các thọ không, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được.  Nhãn giới xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá  được. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra  các thọ xa lìa, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa chẳng khá được.  Nhãn giới không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau giữa  chẳng khá được. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên  sanh ra các thọ không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước sau  giữa chẳng khá được. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì trong nhãn giới, sắc giới,  nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở  hữu, không, xa lìa, không có tự tánh, nên Bồ tát Ma ha tát thời trước  sau giữa đều chẳng khá được vậy. Xá Lợi Tử! Chẳng phải nhãn giới cho đến  nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu mà có khác. Chẳng phải  nhãn giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không mà có khác.  Chẳng phải nhãn giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ xa lìa  mà có khác. Chẳng phải nhãn giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các  thọ không có tự tánh mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời trước  mà có khác. Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát thời sau mà có khác. Chẳng phải  Bồ tát Ma ha tát thời giữa mà có khác. Xá Lợi Tử! Hoặc nhãn giới cho đến  nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, hoặc nhãn giới cho đến  nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không, hoặc nhãn giới cho đến nhãn  xúc làm duyên sanh ra các thọ xa lìa, hoặc nhãn giới cho đến nhãn xúc  làm duyên sanh ra các thọ không có tự tánh, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời  trước, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời sau, hoặc Bồ tát Ma ha tát thời giữa;  tất cả pháp như thế không có hai, vì không hai phần vậy. Xá Lợi Tử! Do  vì duyên cớ này, nên tôi tác lên thuyết là: Bồ tát Ma ha tát thời trước  chẳng khá được, Bồ tát Ma ha tát thời sau chẳng khá được, Bồ tát Ma ha  tát thời giữa chẳng khá được.
