Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát đem vui thắng ý muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thường nên gần gũi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen bạn lành chơn tịnh.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Hạng nào gọi là bạn lành Bồ tát?
Phật bảo: Thiện Hiện! Chư Phật đều gọi bạn lành Bồ tát. Nếu những kẻ năng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, dạy răn dạy trao chúng các Bồ tát, khiến đối pháp môn sâu thẳm Bát nhã Ba la mật đa năng ngộ vào được, cũng được gọi là bạn lành Bồ tát. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa phải biết cũng gọi bạn lành Bồ tát. Như vậy sáu thứ Ba la mật đa cùng các Bồ tát làm thầy làm dẫn, làm tỏ làm đuốc, làm sáng làm soi, làm nhà làm hộ, làm về làm tới, làm cồn làm bãi, làm cha làm mẹ. Chư Phật quá khứ vị lai hiện tại đều nương sáu thứ Ba la mật đa mà được thành xong sự nghiệp công đức. Sở dĩ vì sao? Vì sáu thứ Ba la mật đa như thế năng khắp nhiếp thọ tất cả Phật pháp.
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề nên học sáu thứ Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát muốn học sáu thứ Ba la mật đa nên đối kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, quan sát nghĩa thú, thỉnh quyết chỗ nghi. Sở dĩ vì sao? Vì kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế năng cùng sáu thứ Ba la mật đa làm tôn làm dẫn, làm mẹ sanh nuôi.
Thiện Hiện phải biết: Nếu các Bồ tát muốn được hành chẳng theo người dạy, muốn trụ bậc chẳng theo người dạy, muốn dứt nghi tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện tất cả hữu tình, nên học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lấy gì làm tướng? Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vô ngại làm tướng.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vả có nhân duyên Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tướng vô ngại, tất cả pháp khác cũng được có ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Có nhân duyên nên Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tướng vô ngại, tất cả pháp khác cũng có thể nói có. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp không chẳng thể đều như Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm là xa lìa không.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều xa lìa không làm sao hữu tình có nhiễm có tịnh? Sở dĩ vì sao? Vì chẳng phải pháp xa lìa không khá nói có nhiễm tịnh, chẳng phải xa lìa không năng chứng được Bồ đề, chẳng phải xa lìa không có pháp riêng khá được, thì làm sao cho tôi hiểu nghĩa như thế?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Hữu tình đêm dài có tâm ngã thảy chấp ngã thảy chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Hữu tình sở chấp ngã và ngã sở xa lìa không chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ðâu chẳng hữu tình bởi ngã ngã sở trôi lăn sanh tử? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy hữu tình trôi lăn sanh tử mới thi thiết tạp nhiễm và thanh tịnh đấy. Bởi các hữu tình hư vọng chấp trước ngã và ngã sở nói có tạp nhiễm, mà ở trong ấy không kẻ tạp nhiễm. Bởi các hữu tình chẳng vọng chấp trước ngã và ngã sở nói có thanh tịnh, mà ở trong ấy không kẻ thanh tịnh.
Vậy nên, Thiện Hiện! Mặc dù tất cả pháp pháp đều xa lìa không mà các hữu tình cũng có thể thi thiết có nhiễm có tịnh. Nếu các Bồ tát năng được như thế gọi hành Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn hiếm có! Dù tất cả pháp đều xa lìa không mà các hữu tình có nhiễm có tịnh. Nếu các Bồ tát năng hành như thế thời chẳng hành sắc thọ tưởng hành thức, thế gian trời, người, a tố lạc thảy đều chẳng dẹp được; khắp hơn tất cả Thanh văn, Ðộc giác hành sở hành đến chỗ không ai hơn. Các Bồ tát này do Bát nhã Ba la mật đa tác ý tương ưng đây, đêm ngày an trụ phương tiện khéo léo hướng tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm Bộ đây chẳng trước chẳng sau đều được thân người, phát tâm Bồ đề bố thí trọn đời, đem bố thí đây hồi hướng Bồ đề. Nhờ nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát thấp đến một ngày an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước vô lượng vô số. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát như thế an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như vậy, như vậy kham làm ruộng phước tất cả hữu tình. Bởi Bồ tát đây sở khởi lòng từ, các loại hữu tình không ai kịp được, duy trừ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Bồ tát như thế đủ huệ thắng diệu, do huệ thắng diệu thấy các hữu tình chịu khổ não lớn như bị đâm giết, khởi lòng đại bi. Lại đem thiên nhãn thấy các hữu tình thành nghiệp vô gián, đọa chỗ không rảnh chịu các khổ não, hoặc bị lưới tà kiến che khuất, chẳng thấy đường chánh. Thấy rồi thương xót sanh chán sợ lớn, duyên khắp tất cả thế gian hữu tình, khởi tác ý tương ưng Ðại từ bi: Ta phải khắp vì tất cả hữu tình làm vị Ðại đạo sư khiến thoát các khổ.
Mặc dù khởi nghĩ đây mà chẳng trụ tưởng này, cũng chẳng trụ tưởng khác. Ðấy gọi Ðại Huệ Quang Minh Bồ tát. Do trụ trụ đây năng làm ruộng phước tất cả thế gian, dù chưa chứng được Nhất thiết trí trí mà đối Bồ đề đã chẳng quay lui, kham nhận tất cả cúng dường của thí chủ. Bồ tát như thế khéo trụ Bát nhã Ba la mật đa, đã năng rốt ráo đền được ơn thí chủ, cũng năng gần gũi được Nhất thiết trí trí.
Vậy nên, Bồ tát muốn chẳng hư thọ thế gian tín thí, muốn chỉ đường nẻo chơn tịnh cho hữu tình, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, muốn vì thế gian làm soi sáng lớn, muốn thoát hữu tình sanh tử lao ngục, muốn cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh; thường nên an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Do tác ý đây, có những lời nói ra đều tương ưng lý thú Bát nhã Ba la mật đa, các tác ý khác không cho tạm khởi.
Sở dĩ vì sao? Bồ tát như thế tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tuôn chảy nối nhau. Ví như có người từ trước chưa có ngọc báu ma ni, lúc sau gặp được vui mừng hớn hở; gặp duyên mất lại sanh buồn khổ lớn, thường ôm lòng than tiếc chưa từng lìa nhớ, nghĩ phải kế nào được ngọc ấy lại. Người kia do tác ý tương ưng này duyên ngọc quí đấy không lúc tạm bỏ. Bồ tát cũng thế, nên thường an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Nếu chẳng an trụ tác ý như thế thời là rơi mất tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp và tác ý đều lìa tự tánh, Bồ tát làm sao chẳng lìa tác ý tương ưng Bát nhã Nhất thiết trí trí?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát biết tất cả pháp và các tác ý đều lìa tự tánh, là các Bồ tát này chẳng lìa Bát nhã Nhất thiết trí trí. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Nhất thiết trí trí và các tác ý sâu thẳm tự tánh đều không, không thêm không bớt.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tự tánh thường không, không thêm không bớt, Bồ tát làm sao thêm lớn Bát nhã Ba la mật đa gần được Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm biết tất cả pháp không thêm không bớt. Nếu các Bồ tát năng biết như thế, nghe tất cả pháp không thêm không bớt chẳng kinh chẳng sợ cũng chẳng chìm đắm, các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đã đến rốt ráo, an trụ bậc Bồ tát chẳng quay lui, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Vì tức Bát nhã Ba la mật đa năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa Bát nhã Ba la mật đa có pháp khá được năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức Bát nhã Ba la mật đa không, năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa Bát nhã Ba la mật đa, có pháp khá được năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức không, năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa không, có pháp khá được năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức không năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa không, có pháp khá được năng hành Bát nhã Ba la mật đa chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức không năng hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa không, có pháp khá được năng hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức Bát nhã Ba la mật đa năng hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa Bát nhã Ba la mật đa có pháp khá được năng hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức sắc thọ tưởng hành thức thảy năng hành Bát nhã Ba la mật đa và hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì lìa sắc thọ tưởng hành thức thảy có pháp khá được năng hành Bát nhã Ba la mật đa và hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức sắc thọ tưởng hành thức thảy không, năng hành Bát nhã Ba la mật đa và hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì tức sắc thọ tưởng hành thức thảy không, năng hành Bát nhã Ba la mật đa và hành không chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu vậy Bồ tát lấy những pháp nào năng hành Bát nhã Ba la mật đa và năng hành không?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi thấy có pháp năng hành Bát nhã Ba la mật đa và hành không chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy có.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi thấy có Bát nhã Ba la mật đa và thấy có cái không là chỗ sở hành các Bồ tát chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy có.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi đã chẳng thấy pháp, pháp ấy khá được chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp chẳng khá được, vả có sanh chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng sanh.
Phật bảo: Thiện Hiện ! Ngươi đã chẳng thấy, đã chẳng được pháp, sở hữu thật tướng tức là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát. Bồ tát kẻ trọn nên nhẫn như thế bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề kham được nhận ký, cũng gọi đường vô sở úy của Như Lai.
Nếu các Bồ tát siêng đi đường ấy mà chẳng được Vô thượng Chánh đẳng giác trí, Ðại trí, Diệu trí. Tự nhiên trí, Nhất thiết trí trí và Như Lai trí, không có lẽ ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bồ tát vì bởi các pháp không sanh, đối Phật Bồ đề được nhận ký chăng? Thiện Hiện Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Nếu vậy Bồ tát làm sao nhận ký Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi thấy có pháp đối Phật Bồ đề được nhận ký chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng có thấy. Tôi chẳng thấy có pháp đối Phật Bồ đề kham được nhận ký, cũng chẳng thấy pháp đối Phật Bồ đề có kẻ năng chứng, thời chứng, chỗ chứng và do đây chứng, nếu pháp sở chứng đều cũng chẳng thấy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Vì tất cả pháp bất khả đắc, vậy chẳng nên nghĩ rằng đối Phật Bồ đề, đây là năng chứng, kia là sở chứng.
Khi ấy, Thiên Ðế Thích bèn thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là sâu thẳm khó thấy khó giác, vì rốt ráo lìa vậy, nên các loài hữu tình chẳng ít căn lành năng đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế biên chép lóng nghe thọ trì đọc tụng.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Ðế Thích rằng: Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm Bộ đây thảy đều trọn nên mười thiện nghiệp đạo, nhóm phước như thế đối năng biên chép lóng nghe, thọ trì đọc tụng kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chỗ được công đức trăm phần chẳng kịp một, ngàn phần chẳng kịp một, cho đến cực số phần cũng chẳng kịp một.
Khi đó có Bí sô bảo Thiên Ðế Thích rằng: Có kẻ đối Bát nhã Ba la mật đa biên chép lóng nghe thọ trì đọc tụng, chỗ được công đức hơn nơi nhân giả?
Thiên Ðế Thích nói: Loại hữu tình kia khi sơ phát tâm hãy hơn nơi tôi, huống đối Bát nhã Ba la mật đa biên chép lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý. Bí sô phải biết, loại hữu tình kia tức là Bồ tát. Bồ tát như thế chỗ được nhóm phước hơn khắp tất cả thế gian trời, người, a tố lạc thảy. Bồ tát như thế chỗ được nhóm phước cũng hơn Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, Ứng quả, Ðộc giác. Cũng hơn Bồ tát xa lìa Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật đa và các công đức khác.
Bí sô phải biết: Nếu các Bồ tát như nói tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, các Bồ tát này hơn khắp tất cả thế gian trời, người, a tố lạc thảy. Thế gian trời, người, a tố lạc thảy đều nên cúng dường. Sở dĩ vì sao?
Vì các Bồ tát này đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng hành như nói, chuyển theo rốt ráo. Các Bồ tát này năng nối nắm giống tánh Nhất thiết trí trí khiến chẳng đoạn tuyệt, thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, thường chẳng xa lìa tòa diệu Bồ đề, thường năng cứu vớt các loại hữu tình đắm ngầm bùn sanh tử. Các Bồ tát này khi học như thế thường học pháp Bồ tát sở nên học, chẳng học pháp Nhị thừa sở nên học. Các trời thần thảy thường theo ủng hộ, bốn Ðại thiên vương đi đến chỗ kia cúng dường cung kính tôn trọng, đều nói lời này: "Hay thay, Ðại sĩ! Nếu siêng tinh tiến học pháp chúng Bồ tát sở nên học, chóng sẽ ngồi yên tòa diệu Bồ đề, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như Thiên vương xưa đã dâng bốn bát, chúng tôi cũng sẽ phụng dâng".
Bí sô phải biết: Các Bồ tát này Thiên Ðế chúng tôi còn phải qua đến chỗ kia cúng dường cung kính, huống là các thiên thần khác.
Bí sô phải biết: Các Bồ tát này khi học như thế, tất cả Như Lai và các Bồ tát, chư thiên long thảy thường theo giữ hộ. Nhờ nhân duyên đây, thế nguy ách thân tâm buồn khổ đều chẳng xâm hại, bấy nhiêu tật bệnh cũng lại chẳng sanh.
Bí sô phải biết: Các Bồ tát này được thắng lợi hiện pháp như thế thảy, công đức đời sau vô lượng vô biên.
Khi ấy A Nan Ðà trộm khởi nghĩ này: Ðế Thích Thiên chủ vì tự biện tài khen nói công đức Bồ tát như thế, hay là oai thần Như Lai gia bị?
Khi ấy Thiên Ðế Thích nhờ oai thần Phật biết điều A Nan Ðà đã nghĩ nơi tâm, thưa rằng: Bạch Ðại đức! Chẳng phải biện tài tôi, đều là oai thần Như Lai gia bị.
Bấy giờ, Phật bảo A Nan Ðà rằng: Như vậy, như vậy. Nay Thiên Ðế Thích nhờ oai thần Phật nói được như thế.
Khánh Hỷ phải biết: Nếu khi Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật đa suy gẫm tu học, tất cả ác ma thế giới ba ngàn đều sanh nghi sợ, đồng nghĩ lên rằng: Các Bồ tát đây vì trung gian bèn chứng thật tế rơi bậc Nhị thừa, hay tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề quay xe diệu pháp làm trống cảnh giới ta!
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật đa ngày đêm tinh siêng thương chẳng bỏ lìa, khi ấy ma quyến thuộc như tên đâm tim sợ run lo hoảng đứng ngồi chẳng yên.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật đa ngày đêm tinh siêng sắp đến rốt ráo, khi ấy ma quyến thuộc đi đến chỗ kia hóa làm các thứ sự việc rất đáng sợ hãi, muốn khiến Bồ tát thân tâm kinh hoàng, đối Ðại Bồ đề tạm lui là đủ.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật đa đều bị ác ma làm rối loạn. Nếu các Bồ tát đời trước nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây không lòng tin hiểu, hủy chê phỉ báng, các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác mà làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nghi ngờ do dự là có hay không, các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát xa lìa bạn lành, bạn ác nắm lấy, chẳng nghe chỗ nghĩa sâu thẳm Bát nhã Ba la mật đa. Bởi chẳng nghe nên chẳng biết chẳng thấy, làm sao tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm? Các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát nhiếp thọ tà pháp, bấy giờ ác ma bèn khởi nghĩ này: Nay Bồ tát đây là bạn cùng ta, khiến vô lượng người nới bỏ Chánh pháp, mãn sở nguyện ta. Các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác mà làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát khi nghe thuyết kinh Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, bảo Bồ tát khác rằng: "Lý thú Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế khó tin khó hiểu, dùng biên chép thọ trì đọc tụng làm gì? Ta hãy chẳng thể đắc nơi nguồn đáy, huống gì những kẻ phước mỏng trí cạn thay!" Các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát khinh Bồ tát khác, bảo lời này rằng: "Ta năng an trụ được hạnh chơn xa lìa, các ngươi đều không có". Bấy giờ, ác ma vui mừng khoái trá. Các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát tự ỷ danh học và sở hành công đức Ðỗ đa Ðầu đà, khinh miệt các chúng Bồ tát kia khác tu thắng thiện pháp, thường khen ngợi mình, hủy chê người khác; không có các hành trạng tướng chẳng quay lui mà bảo tự có, khởi nghiệp phiền não. Bấy giờ, ác ma bèn vui mừng lớn, khởi nghĩ này rằng: "Nay Bồ tát đây khiến cung điện cảnh cõi ta chẳng trống, tăng thêm địa ngục, bàng sanh, quỉ giới". Khi đó ác ma yểm trợ thần lực cho kia khiến càng tăng thêm uy lực biện tài. Do đấy nhiều người tín thọ lời nói kia, nhân đây khuyên phát ác kiến đồng bọn. Ác kiến đồng rồi, theo kia học tà. Theo học tà rồi, phiền não lớn mạnh. Vì tâm điên đảo nên khởi ra ba nghiệp đều năng cảm được quả chẳng thể ưa. Bởi nhân duyên đây tăng trưởng ác thú, khiến cung điện ma lại càng đầy rẫy. Do đấy ác ma vui mừng nhảy nhót khôn xiết, ra làm các việc tùy ý tự tại. Các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ tát với kẻ cầu Thanh văn, Ðộc giác thừa cùng nhau khinh hủy đấu tranh phỉ báng, bấy giờ ác ma bèn khởi nghĩ này: "Nay Bồ tát đây tuy xa Bồ đề mà chẳng xa lắm, tuy gần ác thú mà chẳng gần lắm". Nếu khi Bồ tát với các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa cùng nhau khinh hủy đấu tranh phỉ báng, bấy giờ ác ma bèn khởi nghĩ này: "Hai Bồ tát đây cực xa Bồ đề, rất gần ác thú". Khởi nghĩ ấy rồi vui mừng nhảy nhót, tăng uy thế cho kia khiến hai bạn đảng đấu tranh chẳng dứt, khiến vô lượng vô biên các hữu tình đều đối Ðại thừa hết sức chán lìa. Các Bồ tát này tu học Bát nhã Ba la mật đa bèn bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát chưa được ký chẳng quay lui Bồ đề ở chỗ các Bồ tát đã được ký chẳng quay lui Bồ đề khởi tâm tổn hại đấu tranh khinh miệt mắng nhục phỉ báng. Các Bồ tát này tùy khởi bấy nhiêu tâm niệm chẳng nhiêu ích, lui lại bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, lâu bấy nhiêu thời xa lìa bạn lành, lại chịu bấy nhiêu sanh tử ràng buộc. Nếu chẳng nới bỏ tâm Ðại Bồ đề, hoàn lại bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp hoằng thệ siêng tu thắng hạnh không lúc gián đoạn, nhiên hậu mới bổ lại bấy nhiêu công đức.
Bấy giờ, Khánh Hỷ bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát này sở khởi ác tâm sanh tử tội khổ là cần trôi lăn bấy nhiêu thời nay ở trung gian cũng được ra khỏi? Các Bồ tát này đã lui thắng hạnh là cần tinh siêng lâu bấy nhiêu kiếp không lúc gián đoạn, nhiên hậu mới bổ lại, hay ở trung gian có nghĩa phục bổn?
Phật bảo: Khánh Hỷ! Ta vì Bồ tát, Ðộc giác, Thanh văn nói pháp có khỏi tội, bổ lại thiện.
Khánh Hỷ phải biết: Nếu các Bồ tát gây tội đây rồi tâm không xấu hổ, ôm ác chẳng bỏ, chẳng năng chịu đúng pháp tỏ bày hối lỗi. Ta nói loại kia ở nơi trung gian không nghĩa khỏi tội khổ bổ lại điều thiện.
Nếu các Bồ tát gây tội đây rồi rất sanh xấu hổ, tâm chẳng buộc ác, tức thì năng chịu đúng pháp tỏ bày hối lỗi, khởi nghĩ như vầy: "Ta nay đã được thân người khó được, đâu cho lại khởi tội ác như thế mất lợi lành lớn lao. Ta nên nhiêu ích tất cả hữu tình, tại sao với trong phản làm suy tổn. Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tớ thờ chủ, tại sao với trong phản sanh kiêu mạn hủy nhục lấn khinh. Ta nên nhẫn chịu tất cả hữu tình đánh đập quở mắng, đâu cho đối kia phản đem thân ngữ bạo ác gia báo. Ta nên hòa giải tất cả hữu tình khiến kính mến nhau, đâu cho lại khởi lời lẽ bội ác cùng kia tranh chống. Ta nên kham chịu đựng tất cả hữu tình dẫm đi lâu thời in như đường sá, cũng như rường cầu, đâu cho đối kia phản gia lấn nhục. Ta cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vì vớt hữu tình khổ lớn sanh tử, khiến được Niết bàn an vui rốt ráo, đâu cho lại muốn đem khổ gia thêm. Ta nên từ nay hết đời vị lai như ngu như câm như điếc như mù, đối các hữu tình không sở phân biệt. Giả sử chém cắt đầu chân cánh tay, móc mắt xẻo mũi hớt tai cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả thân phần chi thể, đối hữu tình kia quyết chẳng khởi ác. Nếu ta khởi ác tức là lui mất đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, chướng ngại sở cầu Nhất thiết trí trí chẳng năng lợi ích an vui cho tất cả hữu tình được".
Khánh Hỷ phải biết: Các Bồ tát này ta nói trung gian có nghĩa ra khỏi tội khổ, bổ lại điều thiện, chẳng cần lâu qua bấy nhiêu kiếp số. Ác ma đối kia chẳng năng làm rối được, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Chúng các Bồ tát cùng kẻ cầu Thanh văn, Ðộc giác thừa chẳng nên giao thiệp. Nếu cùng giao thiệp chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung, chẳng nên cùng kia luận nghĩa quyết chọn, chớ nhân cớ ấy khởi lòng giận dữ, hoặc lại khiến sanh lời lẽ thô ác, bèn trở ngại Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng hoại vô biên pháp hạnh Bồ tát.
Nếu các Bồ tát cùng các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa ở chung, xem nhau tôn trọng, kính thờ phải như Ðại sư. Lại khởi nghĩ này: "Kia là bạn lành chơn tịnh chúng ta, đồng chở một thuyền, đồng đi một đường, đồng tới một đích, đồng một sự nghiệp. Lúc học, chỗ học và pháp được học, như do học đây đều không có khác". Lại khởi nghĩ này: " Nếu Bồ tát kia trụ tác ý lẫn tạp, ta sẽ đối trong chẳng học đồng kia. Nếu Bồ tát kia lìa tác ý lẫn tạp, ta nên đối trong thường học đồng kia". Nếu các Bồ tát khi học như thế mau chứng sở cầu Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu các Bồ tát vì tận nên học hay vì chẳng sanh nên học, vì lìa nên học hay vì diệt nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát khi học như thế, chẳng học Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Duyên nào khi Bồ tát học như thế chẳng học Nhất thiết trí trí?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Phật chứng chơn như cực viên mãn, nên nói gọi Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Chơn như như thế có thể nói tận cho đến diệt chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thể nói. Vì cớ sao? Chơn như vô tướng chẳng thể nói tận cho đến diệt vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Vậy nên, Bồ tát khi học như thế chẳng phải học Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ tát chẳng vì tận nên học, cho đến chẳng vì diệt nên học, khi học như thế là học Nhất thiết trí trí, cũng học Bát nhã Ba la mật đa, cũng học Phật địa lực vô úy thảy vô biên Phật Pháp.
Thiện Hiện phải biết: Nếu các Bồ tát khi học như thế đến bờ kia tất cả học rốt ráo, thiên ma ngoại đạo đều chẳng thể đè được, diệt trừ các ác, các thiện viên mãn. Phần ít hữu tình năng học như thế, vậy nên Bồ tát muốn rơi số rất ít hữu tình ấy, phải siêng tu học phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát tu học phương tiện khéo léo Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế chẳng khởi tâm cùng hành gốc chồi, chẳng khởi tâm cùng hành keo lẫn, phạm giới, giận dữ, biếng lười, tản động, ác huệ do dự.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát tu học phương tiện khéo léo Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế năng nhiếp được tất cả Ba la mật đa. Ví như thân kiến năng nhiếp thọ đủ sáu mươi hai kiến, như vậy Bát nhã Ba la mật đa nhiếp thọ tất cả Ba la mật đa. Ví như mạng căn khắp năng nhiếp thọ bao nhiêu các căn, khi mạng căn diệt, các căn diệt theo, như vậy Bát nhã Ba la mật đa nhiếp thọ tất cả Ba la mật đa. Nếu mất Bát nhã Ba la mật đa, thời mất tất cả Ba la mật đa. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng nắm giữ được tất cả pháp lành thù thắng, năng diệt trừ được tất cả pháp ác bất thiện.
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát muốn nhiếp tất cả Ba la mật đa, nên học Bát nhã Ba la mật đa. Nếu các Bồ tát học được Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả hữu tình rất tôn rất thắng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Các loại hữu tình ở thế giới Tam thiên đại thiên đây chừng là nhiều chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Các loại hữu tình trong châu Thiệm Bộ số ấy hãy nhiều, huống cõi ba ngàn.
Phật bảo: Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên đều thành Bồ tát, mỗi mỗi đều đem đồ vui hạng tốt trọn đời cúng dường tất cả hữu tình. Nơi ý hiểu sao? Các Bồ tát này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều!
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu có Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật đa như trong gảy móng tay, phước ấy hơn kia vô lượng vô biên. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đủ nghĩa dụng lớn, năng nhiếp được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn làm thượng thủ cho tất cả hữu tình, muốn khắp nhiêu ích cho tất cả hữu tình, muốn làm chỗ cho tất cả hữu tình nương tựa, muốn chứng tất cả Phật Pháp viên mãn, muốn đi cảnh giới chư Phật thường đi, muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn làm chư Phật rống như sư tử lớn, muốn dùng một thứ tiếng vì tất cả hữu tình cõi ba ngàn tuyên nói Chánh pháp khắp khiến tất cả được lợi ích lớn, nên học Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết: Ta chẳng từng thấy có các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật đa mà chẳng năng được công đức thắng lợi thế gian xuất thế gian.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đâu cũng năng được công đức căn lành Thanh văn, Ðộc giác?
Phật bảo: Thiện Hiện! Công đức căn lành Thanh văn Ðộc giác, chúng Bồ tát đây cũng đều năng được nhưng đối trong ấy tâm chẳng muốn trụ, dùng thắng trí kiến xem xét không điên đảo, vượt khỏi Thanh văn và bậc Ðộc giác; vì kia khai chỉ khiến đều chứng được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát khi học như thế thời làm ruộng phước chơn tịnh cho tất cả thế gian trời, người, a tố lạc thảy, vượt trên ruộng phước các thế gian Thanh văn, Ðộc giác, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí, thường chẳng xa lìa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, Bồ tát nếu năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thế, phải biết đã đối Nhất thiết trí trí được chẳng quay lui, xa lìa Thanh văn Ðộc giác thảy, gần kề Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết: Nếu các Bồ tát khởi nghĩ như vầy: "Ðây là Bát nhã Ba la mật đa, ta do Bát nhã Ba la mật đa sẽ năng dẫn phát Nhất thiết trí trí". Các Bồ tát này chẳng hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng đối Bát nhã Ba la mật đa chẳng biết chẳng thấy. Nếu các Bồ tát chẳng khởi nghĩ ấy, đây là Bát nhã Ba la mật đa, ta do Bát nhã Ba la mật đa sẽ năng dẫn phát Nhất thiết trí trí, các Bồ tát này là hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng đối Bát nhã Ba la mật đa biết được thấy được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát chẳng thấy Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nghe chẳng giác chẳng biết Bát nhã Ba la mật đa; đối các pháp chẳng thấy nghe giác biết cũng chẳng phân biệt, là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, Thiên Ðế Thích khởi nghĩ này rằng: Nếu các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa hãy hơn tất cả loại hữu tình, huống được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình nghe nói danh tự Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu hãy là được lợi lành trong người và được sống lâu rất hơn thế gian, huống phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác; hoặc năng lóng nghe được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, các hữu tình này thế gian kính mến, sẽ năng điều ngự tất cả hữu tình.
Khởi nghĩ đây rồi, tức thì hóa làm hương hoa nhiệm mầu tung rải lên Như Lai và các Bồ tát. Ðã rải hoa rồi, khởi nguyện này rằng: Nếu các Bồ tát cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, tôi đem công đức căn lành đã sanh nguyện kia Phật Pháp mau được viên mãn, nguyện kia sở cầu pháp Nhất thiết trí và pháp vô lậu mau được viên mãn. Làm nguyện này rồi bèn thưa Phật rằng:
Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, tôi trọn chẳng sanh một ý nghĩ gì khác khiến kia quay lui tâm Ðại Bồ đề. Tôi trọn chẳng sanh một ý nghĩ gì khác khiến các Bồ tát chán Ðại Bồ đề lui trụ Thanh văn bậc Ðộc giác thảy. Tôi trọn chẳng sanh một tâm nghĩ gì khác khiến các Bồ tát lui mất tác ý tương ưng Ðại Bi. Nếu các Bồ tát đã phát đại tâm, tôi nguyện tâm kia càng bội tăng tiến, nguyện Bồ tát kia thấy các thứ khổ trong sanh tử rồi, vì muốn lợi vui thế gian trời, người, a tố lạc thảy phát khởi nhiều thứ đại nguyện vững chắc: "Ta đã tự độ, cũng phải tinh siêng độ kẻ chưa độ. Ta đã tự thoát, cũng phải tinh siêng thoát kẻ chưa thoát. Ta đã tự yên, cũng phải tinh siêng yên kẻ chưa yên. Ta đã tự chứng Niết bàn rốt ráo, cũng phải tinh siêng khiến kẻ chưa chứng đều đồng chứng được Niết bàn rốt ráo".
Bạch Thế Tôn! Nếu loại hữu tình đối công đức Bồ tát mới phát tâm hết lòng tùy hỷ được bao nhiêu phước? Ðối công đức Bồ tát lâu phát tâm tu các thắng hạnh, đối công đức Bồ tát bậc chẳng quay lui, đối công đức Bồ tát còn buộc một đời hết lòng tùy hỷ được bao nhiêu phước?
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Ðế Thích rằng: Núi chúa Diệu Cao cân số biết được, loại hữu tình đây tùy hỷ cùng tâm sanh ra phước đức chẳng thể lường biết được. Cho đến thế giới Tam thiên đại thiên cân số biết được, loại hữu tình tùy hỷ cùng tâm sanh ra phước chẳng thể lường biết được.
Khi ấy, Thiên Ðế Thích lại thưa Phật rằng: Nếu các hữu tình đối các Bồ tát từ mới phát tâm cho đến được căn lành Phật công đức chẳng sanh tùy hỷ, hoặc lại đối tùy hỷ công đức kia chẳng nghe chẳng biết, phải biết đều là bị ma nắm giữ, bị ma ám bắt, là bè lũ ma chết cõi trời ma đến sanh trong đây. Sở dĩ vì sao?
Nếu các Bồ tát phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ tát được chẳng quay lui đến ngôi rốt ráo. Có kẻ năng đối kia khởi tâm tùy hỷ, định năng phá hoại được các ma dòng họ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí. Nếu các hữu tình hết lòng kính mến Phật Pháp Tăng bảo, tùy sanh chỗ nào thường muốn thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, đối công đức căn lành các Bồ tát rất nên tùy hỷ hồi hướng Bồ đề chẳng sanh chấp trước. Nếu được như thế mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, lợi vui hữu tình, phá chúng ma quân.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Ðế Thích rằng: Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Nếu các hữu tình đối công đức căn lành các Bồ tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng Bồ đề, chóng năng viên mãn được các hạnh Bồ tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình đối công đức căn lành các Bồ tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng Bồ đề, các hữu tình này đủ thế lực lớn, thường hay dâng thờ chư Phật Thế Tôn. Ðối kinh điển thẳm sâu khéo biết nghĩa thú; tùy sanh chỗ nào, được tất cả thế gian cúng kính cúng dường; chẳng thấy sắc ác, chẳng nghe tiếng ác, chẳng ngửi mùi ác, chẳng nếm vị ác, chẳng giác xúc ác, chẳng nghĩ pháp ác, chẳng đọa thú ác; sanh trong người trời hưởng vui thắng diệu.
Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Các hữu tình này năng đối vô lượng công đức Bồ tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng Bồ đề, căn lành tăng tiến, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí, nhiêu ích vô lượng vô số hữu tình khiến trụ cõi Vô dư bát Niết bàn.
Vì vậy nên, Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử thảy trụ Bồ tát thừa, đối công đức căn lành các Bồ tát đều nên tùy hỷ hồi hướng Bồ đề, lợi vui vô biên các loài hữu tình.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Tâm đã như huyễn, Bồ tát làm sao chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi vì thấy có tâm như huyễn chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi thấy huyễn chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Nếu ngươi chẳng thấy huyễn, chẳng thấy tâm như huyễn; nếu chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, ngươi thấy có tâm này năng được Bồ đề chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Nếu chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, ngươi thấy có pháp này năng được Bồ đề chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Tôi đều chẳng thấy pháp tức lìa tâm nói những pháp nào hoặc có hoặc không. Vì tất cả pháp rốt ráo lìa vậy, nên chẳng thể thi thiết là có là không. Nếu pháp chẳng thể thi thiết có không, thời chẳng thể nói năng được Bồ đề, vì chẳng phải pháp vô sở hữu năng được Bồ đề vậy. Do đây Bát nhã Ba la mật đa cũng lìa rốt ráo, chẳng nên tu khiển, cũng lại chẳng nên có sở dẫn phát. Vô thượng Bồ đề cũng lìa rốt ráo, làm sao nói được chúng các Bồ tát nương Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chứng được Bồ đề? Vậy nên, Bát nhã Ba la mật đa lẽ chẳng thể nói năng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì pháp lìa chẳng đắc pháp lìa vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Như vậy, như vậy. Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đều lìa rốt ráo. Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lìa rốt ráo nên được lìa rốt ráo Vô thượng Bồ đề. Nếu Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng lìa rốt ráo, lẽ chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa.
Vậy nên, Thiện Hiện! Chẳng thể chẳng nương dựa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm được Ðại Bồ đề. Mặc dù chẳng phải pháp lìa năng được pháp lìa, mà được Bồ đề chẳng thể chẳng nương dựa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Vậy nên, Bồ tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.