Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn, rất lạ! Ðối các Bồ tát khéo năng phó dặn, khéo năng hộ niệm.
Phật  nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Sở dĩ vì sao? Chúng các Bồ tát vì  muốn đêm dài sanh nhiều lợi vui, thương xót các chúng sanh thế gian, nên  muốn khiến trời người được việc nghĩa lợi an vui lớn, nên cầu chứng Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói pháp yếu.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Chúng các Bồ tát hành Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm làm sao tu tập Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm cho mau  viên mãn?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát nương Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm chẳng thấy sắc tăng, chẳng thấy sắc giảm mà hành Bát  nhã Ba la mật đa. Chẳng thấy thọ tưởng hành thức tăng, chẳng thấy thọ  tưởng hành thức giảm mà hành Bát nhã Ba la mật đa. Chẳng thấy là pháp,  chẳng thấy phi pháp mà hành Bát nhã Ba la mật đa. Các Bồ tát này tu tập  Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Như Lai đã nói chẳng thể nghĩ bàn!
Phật  bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn, thọ  tưởng hành thức cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm đối sắc chẳng khởi tưởng chẳng nghĩ bàn mà hành Bát  nhã Ba la mật đa, đối thọ tưởng hành thức cũng lại chẳng khởi tưởng  chẳng nghĩ bàn mà hành Bát nhã Ba la mật đa. Các Bồ tát này tu tập Bát  nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm như thế, ai tin hiểu được?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát lâu tu thắng hạnh đối Bát nhã Ba la mật đa năng sanh tin hiểu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Chúng các Bồ tát vì sao được gọi lâu tu thắng hạnh?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  chẳng phân biệt mười lực Như Lai, chẳng phân biệt bốn vô sở úy, chẳng  phân biệt mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng phân biệt Nhất thiết trí.  Sở dĩ vì sao? Mười lực Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, cho đến Nhất thiết  trí cũng chẳng thể nghĩ bàn. Sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn, thọ tưởng hành  thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nếu  các Bồ tát kẻ hành như thế trọn không chỗ hành là hành Bát nhã Ba la mật  đa. Các Bồ tát này mới được gọi lâu là tu thắng hạnh.
Cụ thọ  Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm là đống  ngọc quí, là đống thanh tịnh, như hư không thanh tịnh lìa các mây khói  thảy. Lạ thay! Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm nhiều các lưu nạn  mà nay rộng nói, nên lưu nạn chẳng sanh được.
Phật bảo: Thiện  Hiện! Như vậy, như vậy. Vì thần lực Phật vậy nên lưu nạn chẳng sanh. Các  thiện nam tử Bồ tát thừa đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nếu muốn  chép trì đọc tụng diễn nói cho đến một năm ắt cho trọn xong hết. Sở dĩ  vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm là ngọc thần báu lớn nhiều các  chướng ngại.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Lạ thay! Ác ma  thường đối ngọc thần báu lớn Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế muốn  làm lưu nạn!
Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả ác ma tuy đối Bát nhã  Ba la mật đa thường muốn lưu nạn khiến các Bồ tát sở tác chẳng thành mà  chẳng toại nguyện.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bèn thưa Phật rằng: Thần lực ai đây khiến ác ma kia đối thâm Bát nhã chẳng lưu nạn được?
Bấy  giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Là thần lực Phật, cũng là thần lực chư  Phật mười phương tất cả thế giới. Xá Lợi Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác đều chung hộ niệm chúng các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm, khiến các ác ma chẳng năng làm lưu nạn được. Vì cớ sao?
Xá  Lợi Tử! Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lẽ vậy đều  được nhờ tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác mười phương vô lượng vô biên  thế giới đồng chung hộ niệm. Nếu kẻ được nhờ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác sở hộ niệm, lẽ vậy ác ma chẳng làm lưu nạn được.
Lại, Xá Lợi  Tử! Nếu có thiện nam tử thảy tịnh tín đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm diễn nói không ngăn ngại  ấy, nên khởi nghĩ này: Ta nay biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy  gẫm diễn nói Bát nhã Ba la mật đa, đều thần lực chư Phật Thế Tôn mười  phương tất cả thế giới hộ niệm, khiến được thành xong.
Khi ấy, Xá  Lợi Tử bèn thưa Phật rằng: Nếu các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa đối  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy  gẫm diễn nói, đều là thần lực chư Phật mười phương từ bi hộ niệm khiến  kia sở tác nghiệp lành thù thắng, tất cả ác ma chẳng lưu nạn được?
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói.
Khi  ấy, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa đối Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm  diễn nói, được chư Phật Thế Tôn mười phương thế giới đều chung chứng  biết, vui mừng hộ niệm. Chư Phật Thế Tôn mười phương thế giới thường đem  Phật nhãn đều chung xem thấy từ bi hộ niệm, khiến kia sở tu không chẳng  thành xong.
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Như vậy, như vậy.  Như ngươi đã nói. Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa đối Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm diễn nói,  thường được chư Phật Thế Tôn mười phương tất cả thế giới Phật nhãn xem  thấy chứng biết hộ niệm, khiến các ác ma chẳng làm rối loạn được, sở tác  nghiệp lành đều mau thành xong.
Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa  năng đối Bát nhã Ba la mật đa biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy  gẫm diễn nói, phải biết đã gần Vô thượng Bồ đề. Ác ma bè lũ chẳng làm  lưu nạn được.
Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa năng chép Bát nhã  Ba la mật đa, trang nghiêm các báu, thọ trì đọc tụng, cúng dường cung  kính, thường được chư Phật hộ niệm. Do nhân duyên đây được nhiêu ích  lớn.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  như thế sau Phật Niết bàn truyền đến phương Nam sẽ hưng thịnh dần. Sau  từ phương Nam truyền đến phương Bắc sẽ hưng thịnh dần. Chẳng phải Phật  đã được Vô thượng Chánh pháp pháp Tỳ nại da có tướng diệt mất. Như Lai  đã được Vô thượng Chánh pháp pháp Tỳ nại da tức là kinh điển Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm. Kinh điển như thế, các thiện nam tử thảy trụ Bồ tát  thừa biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm diễn nói, cúng kính  cúng dường. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thường dùng Phật nhãn xem  thấy hộ niệm, xưng nêu khen ngợi khiến không buồn khổ.
Khi ấy,  Xá Lợi Tử bèn thưa Phật rằng: Kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  như thế, phần sau thời sau ở phương Ðông bắc rộng hành lưu khắp?
Bấy  giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Như vậy, như vậy. Xá Lợi Tử! Phần sau  thời sau phương Ðông bắc kia các thiện nam tử Bồ tát thừa nghe kinh điển  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, nếu năng tin muốn biên chép thọ trì,  đọc tụng tu tập, suy gẫm diễn nói, cung kính cúng dường. Phải biết  người kia lâu phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, lâu tu hạnh Bồ tát Ma  ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Phương Ðông bắc kia  phần sau thời sau sẽ có bao nhiêu các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa được  nghe kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh tin muốn, biên  chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm diễn nói, cung kính cúng dường?
Bấy  giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Phương Ðông bắc kia phần sau thời sau, dù  có vô lượng các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa mà ít được nghe Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm hết lòng tin muốn, biên chép thọ trì, đọc tụng cúng  dường. Mặc dù có vô lượng các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa nghe Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm hết lòng tin muốn, biên chép thọ trì, đọc tụng  cúng dường, mà có phần ít tu tập suy gẫm hoặc năng vì người tuyên nói  khai chỉ nghĩa thú thẳm sâu rất là khó được!
Xá Lợi Tử! Nếu các  thiện nam tử Bồ tát thừa nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa tâm chẳng chìm  đắm, chẳng kinh chẳng sợ, rất sanh tin muốn biên chép thọ trì, đọc tụng  tu tập, suy gẫm diễn nói. Phải biết người ấy đã từng gần gũi cúng dường  cung kính vô lượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các Bồ tát thỉnh hỏi  nghĩa thú sâu thẳm của Bát nhã Ba la mật đa. Các thiện nam tử Bồ tát  thừa này định sẽ viên mãn hạnh các Bồ tát, mau chứng Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn. Vì cớ sao?
Xá  Lợi Tử Ta thường vì các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa thuyết pháp tương  ưng Nhất thiết trí. Người này chuyển thân thường năng tu nhóm các hạnh  Bồ tát, mau tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình nói pháp vi  diệu khiến tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Các thiện nam tử Bồ tát thừa  này thân tâm yên tịnh, các ác ma vương và bè lũ kia hãy chẳng thể phá  hoại tâm cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, huống gì các kẻ muốn làm ác  hành.
Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa nghe Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm tâm được rộng lớn thanh tịnh vui mừng, cũng năng  an lập được vô lượng hữu tình thiện pháp tương ưng Vô thượng Bồ đề.
Xá  Lợi Tử! Các thiện nam tử Bồ tát thừa này nay ở chỗ Ta phát thệ nguyện  rộng, định sẽ an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình khiến phát tâm  Vô thượng Chánh đẳng giác, tu hạnh Bồ tát, thị hiện khuyên dẫn, khen  gắng vui mừng, khiến đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cho đến được nhận ký  chẳng quay lui. Ta đối loại kia rất sanh tùy hỷ. Vì cớ sao?
Xá  Lợi Tử! Ta xem người kia sở phát nguyện rộng, tâm ngữ tương xứng, kia ở  đời sau định năng an lập được vô lượng trăm ngàn hữu tình các loại khiến  phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, tu hạnh Bồ tát, chỉ hiện khuyên dẫn  khen gắng vui mừng, khiến đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cho đến được  nhận ký chẳng quay lui.
Các thiện nam tử Bồ tát thừa này cũng ở  quá khứ vô lượng chỗ Phật phát nguyện như thế. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác quá khứ cũng đối kia nguyện rất sanh tùy hỷ, xem kia tâm ngữ định  tương xứng vậy.
Các thiện nam tử Bồ tát thừa này tin hiểu rộng  lớn, tu hạnh rộng lớn, nguyện sanh cõi nước chư Phật phương khác hiện có  Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa pháp xứ sâu  thẳm. Kia nghe Bát nhã Ba la mật đa pháp sâu thẳm rồi lại hay an lập vô  lượng trăm ngàn các loại hữu tình trong cõi Phật kia khiến phát tâm Vô  thượng Chánh đẳng giác, tu hạnh Bồ tát, thị hiện khuyên dẫn khen gắng  vui mừng khiến đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui.
Khi  ấy, Xá Lợi Tử bèn thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn, rất lạ! Phật đối bấy  nhiêu các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại và các hữu tình tâm hành sai  khác, Phật Bồ tát thảy không chẳng chừng biết, không chẳng giác trọn.
Bạch  Thế Tôn! Nếu các Bồ tát năng đối Bát nhã Ba la mật đa chăm lòng lóng  nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy gẫm đúng lý, biên chép  giải nói, rộng cho lưu khắp, các Bồ tát này ở đời đương lai cầu thâm Bát  nhã Ba la mật đa tinh siêng chẳng nghỉ, kia đối Bát nhã Ba la mật đa vì  có lúc được, lúc chẳng được chăng?
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử  rằng: Các Bồ tát này đối thâm Bát nhã Ba la mật đa thường cầu chẳng  nghỉ, tất cả lúc được, không lúc chẳng được, hoặc có chẳng cầu tự nhiên  mà được, vì chư Phật Bồ tát thường hộ niệm vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử  lại thưa Phật rằng: Các Bồ tát này vì đối kinh điển tương ưng Bát nhã  Ba la mật đa tất cả thời được, không thời chẳng được, hay đối kinh điển  tương ưng sáu thứ Ba la mật đa cũng năng thường được?
Bấy giờ,  Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát thường đối kinh điển tương ưng  Bát nhã Ba la mật đa dũng mạnh tin cầu chẳng kể thân mạng, có thời chẳng  được các kinh điển khác, không có lẽ ấy. Vì cớ sao?
Xá Lợi Tử!  Các Bồ tát này vì tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thị hiện khuyên dẫn  khen gắng vui mừng các loại hữu tình khiến đối kinh điển tương ưng Bát  nhã Ba la mật đa và thọ trì đọc tụng kinh điển khác, cũng tự đối trong  ấy tinh siêng tu học. Nhờ phước lực ấy, tùy sanh chỗ nào, lẽ vậy thường  gặp kinh điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, và các kinh điển  tương ưng sáu thứ Ba la mật đa hằng chẳng lìa bỏ.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Thế Tôn đã nói các thiện nam  tử trụ Bồ tát thừa khi tu thiện pháp có các việc ma. Vì sao gọi là việc  ma Bồ tát?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát muốn nói pháp  yếu, biện lâu mới sanh, Bồ tát phải biết đấy là việc ma. Hoặc nói pháp  yếu, vừa biện vội sanh, Bồ tát phải biết đấy là việc ma. Hoặc nói pháp  yếu, biện sanh quá lượng, Bồ tát phải biết đấy là việc ma. Hoặc chỗ nói  muốn chưa hết bèn ngưng, Bồ tát phải biết đấy là việc ma. Hoặc nói pháp  yếu ngôn từ loạn tạp, Bồ tát phải biết đấy là việc ma. Hoặc nói pháp yếu  ngôn từ đứt khúc, Bồ tát phải biết đấy là việc ma. Hoặc khi nói pháp  khởi các việc ngang, khiến chỗ muốn nói chẳng đặng vừa lòng, Bồ tát phải  biết đấy là việc ma. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát đối kinh điển  tương ưng Bát nhã Ba la mật đa khi biên chép thảy hoặc uốn mình ợ ngáp,  hoặc cười giỡn lẫn nhau, hoặc khinh lấn lẫn nhau, hoặc thân tâm rốt rít,  hoặc mất nhớ tán loạn, hoặc trái ngược câu văn, hoặc mê lầm nghĩa lý,  hoặc chẳng được tư vị, tâm sanh chán bỏ, hoặc vội khởi việc ngang trái,  hoặc tranh chấp lẫn nhau. Bởi các việc đây sở tác chẳng thành, Bồ tát  phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát khi  nghe thuyết kinh tương ưng Bát nhã Ba la mật đa hoặc khởi nghĩ này: Ta  đối trong đây chẳng được nhận ký, dùng nghe làm gì. Hoặc khởi nghĩ này:  Trong đây chẳng nói danh tự chúng ta, dùng nghe làm chi. Hoặc khởi nghĩ  này: Trong đây chẳng nói thành ấp xóm làng chỗ sanh chúng ta, dùng nghe  làm chi. Bởi các duyên đây tâm chẳng thanh tịnh, tức từ tòa dậy chán bỏ  mà đi, không lòng đoái luyến. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Thiện  Hiện phải biết: Nếu các Bồ tát khi nghe kinh tương ưng Bát nhã Ba la  mật đa tâm chẳng thanh tịnh chán bỏ ra đi, tùy kia đã khởi tâm chẳng  thanh tịnh chán bỏ kinh này cất bước nhiều ít, bèn giảm kiếp số công đức  chừng nấy, bị tội chướng Bồ đề kiếp số chừng nấy. Chịu tội kia rồi,  phải lại thời chừng nấy phát siêng tinh tiến tu hạnh Bồ tát, mới thể  phục bổn. Vậy nên gọi là việc ma Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu  các Bồ tát nới bỏ kinh điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  năng dẫn Nhất thiết trí trí, học các thứ kinh điển tùy thuận Nhị thừa  chẳng thể năng dẫn Nhất thiết trí trí là nới bỏ cội gốc mà vin nhành lá.  Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Vì cớ sao? Vì kinh điển tương  ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh Bồ tát công đức thù thắng  thế gian xuất thế gian, do đây năng dẫn Nhất thiết trí trí. Nếu học kinh  điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa tức học Bồ tát công đức thù thắng  thế gian xuất thế gian, chóng năng dẫn phát Nhất thiết trí trí.
Thiện  Hiện phải biết: Như chó đói ngu nới bỏ chủ nuôi, lại theo kẻ tôi tớ mà  cầu kiếm ăn. Như vậy đời sau có các Bồ tát nới bỏ Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, loại ngu si này bỏ gốc  cầu ngọn, trọn chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Ví như có người muốn xem voi hương thân lượng lớn nhỏ, hình loại  hơn kém, được voi chẳng xem, lại tìm dầu chân. Phải biết loại kia rất là  ngu si. Như vậy đời sau có các Bồ tát bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,  cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa. Loại này ngu si bỏ gốc tìm ngọn,  chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như  có người vì tìm ngọc báu nên tìm tới biển cả. Ðã đến bờ biển chẳng vào  biển cả, lại xem dấu trâu, khởi nghĩ này rằng: Nước trong biển cả lượng  nó rộng sâu đâu bằng đây ư? Trong đây lẽ cũng có các ngọc báu. Phải biết  loại kia ngu si hết mức. Như vậy đời sau có các Bồ tát bỏ Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, loại ngu si này  bỏ gốc tìm ngọn, trọn chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Như có thợ mộc hoặc học trò kia muốn tạo điện lớn như  lượng điện thù thắng của Thiên Ðế Thích. Thấy điện kia rồi mà trái lại  họa sơ đồ cung điện nhật nguyệt. Phải biết loại kia rất là ngu si. Như  vậy đời sau có các Bồ tát bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, cầu học kinh  điển tương ưng Nhị thừa, loại ngu si này bỏ lớn tìm nhỏ, trọn chẳng  năng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có muốn  thấy vua Thánh chuyển luân, thấy rồi chẳng nhận biết, bỏ đi chỗ khác.  Thấy vua tiểu quốc, xem nơi hình tướng khởi nghĩ như vầy: Vua Thánh  chuyển luân hình tướng uy đức đâu hơn với đây! Phải biết loại kia ngu si  rất lắm. Như vậy đời sau có các Bồ tát bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, loại ngu si này bỏ hơn tìm  kém, trọn chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Như có người đói được bữa ăn ngon trăm vị, bỏ mà tìm nuốt cơm lúa  sáu mươi ngày. Phải biết loại kia ngu si hết nói. Như vậy đời sau có các  Bồ tát bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, cầu học kinh điển tương ưng  Nhị thừa, loại ngu si này bỏ hơn tìm kém, trọn chẳng năng được Nhất  thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người nghèo được ngọc  vô giá, bỏ mà lại lấy ngọc thường ca giá mạc ni. Phải biết loại kia ngu  si rất lắm. Như vậy đời sau có các Bồ tát bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, loại ngu si này bỏ hơn lấy  kém, trọn chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Có các Bồ tát nếu chính khi biên chép thọ trì, đọc tụng suy gẫm  kinh điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, nhiều biện vội sanh  muốn nói các thứ pháp môn sai khác, làm cho việc biên chép thảy chẳng  được rốt ráo, Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm biên chép được chăng?
Thế  Tôn bảo rằng: Thiện Hiện! Chẳng được. Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa  khi biên chép kinh tương ưng Bát nhã Ba la mật đa khởi nghĩ này rằng:  "Ta dùng văn tự biên chép Bát nhã Ba la mật đa". Văn tự như thế tức là  Bát nhã Ba la mật đa, hoặc nương văn tự chấp có Bát nhã Ba la mật đa. Bồ  tát phải biết đấy là việc ma.
Bấy giờ nên bảo Bồ tát kia rằng:  Ngươi nay chẳng nên chấp có văn tự năng biên chép Bát nhã Ba la mật đa,  hoặc khởi chấp này, đấy là việc ma. Nếu bỏ chấp đây là bỏ việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát khi biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập,  suy gẫm diễn nói kinh tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Hoặc  nghĩ cõi nước thành ấp, vương đô, nơi chốn, thầy bạn, hoặc nghĩ cha mẹ  vợ con quyến thuộc bè bạn vua tôi, hoặc nghĩ trộm cướp các ác cầm thú,  người ác quỉ ác, hoặc nghĩ chúng nhóm ca nhạc vui giỡn đền ơn trả oán,  hoặc nghĩ ăn uống áo mặc đồ nằm và các của cải, hoặc nghĩ chế tạo văn  tụng thư luận, hoặc nghĩ thời tiết mùa màng đắc thất, hoặc các việc voi  ngựa nước lửa thảy, hoặc nghĩ các sự nghiệp sở tác thảy. Bồ tát phải  biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát biên  chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm diễn nói kinh tương ưng Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm được danh lợi lớn, cung kính cúng dường. Kia do  duyên đây bỏ nghiệp sở tác. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát khi biên chép thọ trì đọc tụng, tu tập  suy gẫm, diễn nói kinh tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ác ma  phương tiện cầm đem sách luận các thứ thế tục, hoặc lại kinh điển tương  ưng Nhị thừa trao cho Bồ tát nói lời như vầy: "Kinh sách thế này nghĩa  vị sâu sắc mầu nhiệm, nên siêng tu học, bỏ thứ kinh đang tập học đó đi".  Nếu Bồ tát đây phương tiện khéo léo chẳng nên nhận lấy, vì kia chẳng  năng dẫn Nhất thiết trí trí. Nếu Bồ tát ấy nhận lấy kinh sách ác ma đã  trao, bỏ kinh đang học. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa,  Thiện Hiện! Kẻ năng nghe pháp muốn nghe Bát nhã Ba la mật đa. Kẻ năng  nói pháp mắc ưa lười biếng chẳng muốn vì nói. Hoặc trái nhau trên, hai  chẳng hòa hợp, chẳng được nói thọ. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nghe pháp đủ sức niệm huệ, muốn nghe Bát nhã  Ba la mật đa. Kẻ năng nói pháp muốn đi phương khác, chẳng vì nói được.  Hoặc trái nhau trên, hai chẳng hòa hợp, chẳng được nói thọ. Bồ tát phải  biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nói pháp ưa  chuộng danh lợi. Kẻ năng nghe pháp chẳng muốn ơn thí. Hoặc trái nhau  trên, hai chẳng hòa hợp, chẳng được nói thọ. Bồ tát phải biết đấy là  việc ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nghe pháp có lòng tin vui  muốn nghe Bát nhã Ba la mật đa; kẻ năng nói pháp tập tụng chẳng lanh,  chẳng năng vì nói. Hoặc kẻ năng nói tập tụng thông lanh, muốn vì người  nói; kẻ năng nghe pháp nghi là chẳng thông lanh, chẳng muốn nghe thọ.  Hai chẳng hòa hợp, chẳng được nói nghe. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nói pháp muốn vì người nói Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm. Kẻ năng nghe pháp chẳng muốn nghe thọ. Hoặc trái nhau trên,  hai chẳng hòa hợp, nói nghe chẳng được. Bồ tát phải biết đấy là việc  ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nghe pháp muốn nghe Bát nhã Ba  la mật đa. Kẻ năng nói pháp thân thể nặng nề mệt mỏi, buồn ngủ che  khuất, chẳng năng vì nói. Hoặc trái nhau trên, hai chẳng hòa hợp, nói  nghe chẳng được. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Nếu các Bồ tát khi biên chép thọ trì, đọc tụng tu tập, suy gẫm  diễn nói kinh tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, hoặc có người đến  nói nhiều các thứ việc khổ ba ác thú khuyến bỏ Bồ đề. Hoặc có người đến  nói các thứ việc vui thú trời người đều là vô thường, khổ không, vô ngã  khuyến vào viên tịch. Kia do lời đây việc biên chép thảy chẳng được rốt  ráo, lòng ôm sầu não. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa,  Thiện Hiện! Kẻ năng nói pháp ưa lãnh đồ chúng, muốn kinh doanh việc  người, chẳng lo nghiệp mình. Kẻ năng nghe pháp một thân không lụy,  chuyên tu việc mình, chẳng lo nghiệp người. Hoặc trái nhau trên, hai  chẳng hòa hợp, nói nghe chẳng được. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nói pháp ưa ở ồn tạp. Kẻ năng nghe pháp chẳng  thích ồn ào. Hoặc trái nhau trên, hai chẳng hòa hợp, nói nghe chẳng  được. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Kẻ  năng nói pháp muốn qua phương khác, chỗ nguy thân mạng. Kẻ năng nghe  pháp sợ mất thân mạng chẳng muốn đi theo. Hoặc trái nhau trên, hai chẳng  hòa hợp, nói nghe chẳng được. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nói pháp muốn qua phương khác cõi nước nhiều  giặc cướp bệnh tật ôn dịch đói khát. Kẻ năng nghe pháp lo gian khổ kia  chẳng cùng mạo hiểm đồng đi. Hoặc trái nhau trên, hai chẳng hòa hợp, nói  nghe chẳng được. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Kẻ năng nói pháp muốn qua phương khác, đi qua đường sá đồng nội  mênh mông hiểm trở, nhiều các giặc nạn và những kẻ hàng thịt, ác thú,  thợ săn, rắn độc thảy nên sợ. Kẻ năng nghe pháp muốn cùng đi theo, kẻ  năng nói pháp phương tiện hỏi thử: "Ngươi nay cớ gì vô sự theo ta muốn  qua các chỗ hiểm nạn như thế? Nên khéo nghĩ kỹ sau khỏi ăn năn lo khổ".  Ke năng nghe pháp nghe rồi nghĩ rằng: "Sư ý chẳng muốn cho ta đi theo,  nếu vẫn đi theo nào chắc gì được nghe pháp". Bởi nhân duyên đây chẳng đi  theo kia. Hai chẳng hòa hợp, nói nghe chẳng được. Bồ tát phải biết đấy  là việc ma.
Lại nữa, Thiện Hiện! Kẻ năng nói pháp có nhiều thí  chủ hằng đem theo nhau. Kẻ nghe pháp đến thỉnh thuyết Bát nhã Ba la mật  đa cho, hoặc xin biên chép thọ trì đọc tụng như thuyết tu hành. Kia vì  nhiều duyên trở ngại nên không rảnh dạy trao. Kẻ năng nghe pháp khởi tâm  hiềm hờn, về sau dù dạy trao mà chẳng nghe thọ. Hai chẳng hòa hợp,  chẳng được dạy trao nghe thọ chép trì đọc tụng tu tập Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Có các ác ma làm các thứ hình đến chỗ Bồ tát phương tiện phá hoại,  khiến đối kinh điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa chẳng được biên chép  thọ trì, đọc tụng tu tập suy gẫm, vì người diễn nói.
Vậy nên,  Thiện Hiện! Các thiện nam tử thảy trụ Bồ tát thừa đối Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm khi biên chép thảy có bao chướng ngại, Bồ tát phải biết đều  là việc ma.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Duyên nào ác ma  làm các hình tượng đến chỗ Bồ tát phương tiện phá hoại khiến đối kinh  điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa chẳng được biên chép cho đến diễn  nói?
Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng  sanh Nhất thiết trí trí Như Lai. Như Lai có bao Nhất thiết trí trí năng  sanh Phật giáo. Phật giáo năng sanh diệu huệ hữu tình. Hữu tình diệu huệ  năng chứng dứt vô biên các phiền não, tất cả ác ma chẳng làm gì được.  Vì chẳng làm gì được nên các ác ma kia sanh nhiều buồn khổ như tên đâm  tim: "Ta chớ bởi Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đấy làm trống khuyết cảnh  giới ta". Vậy nên ác ma làm các hình tượng đến chỗ Bồ tát phương tiện  phá hoại khiến đối kinh điển tương ưng Bát nhã Ba la mật đa chẳng được  biên chép cho đến diễn nói.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là ác ma làm các hình tượng đến chỗ Bồ tát phương tiện phá hoại?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Có các ác ma làm các thứ hình đến chỗ Bồ tát phương  tiện phá hoại khiến kia chê chán Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm là nói  lời này: "Ngươi đã tập tụng kinh điển vô tướng chẳng phải chơn Bát nhã  Ba la mật đa. Ta đây tập tụng kinh điển hiển tướng là chơn Bát nhã Ba la  mật đa". Khi nói lời ấy có các Bồ tát chưa được nhận ký bèn đối kinh  điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tâm sanh nghi ngờ. Vì bởi nghi ngờ  nên đối Bát nhã Ba la mật đa mà sanh chê chán. Vì bởi chê chán nên bèn  chẳng biên chép cho đến diễn nói. Bồ tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma làm các thứ hình đến chỗ Bồ tát bảo Bồ  tát rằng: "Là chúng Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chỉ chứng  thật tế được quả Thanh văn, hoặc năng chứng được Ðộc giác Bồ đề, quyết  định chẳng năng chứng được quả Phật, duyên nào luống bày nhọc nhằn!". Bồ  tát phải biết đấy là việc ma.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm khi biên chép thảy nhiều  các ác ma vì làm lưu nạn, Bồ tát phải giác. Giác rồi tinh siêng chính  nhớ chính biết phương tiện xa lìa.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa  Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy. Bạch Thiện Thệ! Như vậy. Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm khi biên chép thảy nhiều các lưu nạn. Ví như đại bảo  thần châu vô giá đầy đủ thần năng, khó khăn cầu được, nhiều các giặc  cướp. Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lý thú như thế đủ thắng công đức,  chúng các Bồ tát khi biên chép thảy có nhiều ác ma vì làm lưu nạn. Mặc  dù chúng có ý muốn xấu ác mà chẳng thành tựu.
Sở dĩ vì sao? Vì có  kẻ ngu si bị ma ám bắt. Các thiện nam tử thảy mới học Ðại thừa, đối Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm khi biên chép thảy bị làm lưu nạn.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Có kẻ ngu si phước huệ mỏng kém, đối  pháp rộng lớn tâm chẳng tin muốn. Các thiện nam tử thảy mới học Ðại  thừa đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm khi biên chép thảy bị làm lưu  nạn. Ở đời đương lai sau có kẻ ngu si phước huệ mỏng kém, tự đối Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm chẳng năng tin muốn, thấy người đối kia khi biên  chép thảy dùng uy lực mà vì làm chướng ngại. Phải biết loại kia mắc tội  vô biên nhiều kiếp lộn quanh chịu các khổ dữ dội.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Nếu các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm khi biên chép  thảy không bị ác ma, phải biết đều là sức uy thần Phật. Sở dĩ vì sao? Vì  ác ma dòng họ dù siêng phương tiện muốn chướng ngại Bát nhã Ba la mật  đa mà các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác cũng siêng phương tiện hộ niệm  nhiếp thọ khiến biên chép thảy không các lưu nạn.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Ví như người nữ có nhiều các con hoặc năm hoặc mười cho đến trăm  ngàn. Người mẹ bị bệnh, các con đều riêng siêng cầu thuốc chữa, đồng  khởi nghĩ này: Làm sao khiến bệnh mẹ ta trừ lành, mạng không chướng nạn,  thân danh chẳng diệt, sống lâu an vui, chẳng sanh khổ thọ, các đồ vui  đẹp dồn về mẹ ta.
Sở dĩ vì sao? Vì đẻ nuôi chúng ta, dạy việc thế  gian rất là khó nhọc lớn lao. Nghĩ thế ấy rồi tranh lập phương tiện cầu  việc yên ổn, che hộ thân mẹ chớ bị muỗi nhặng rắn rít gió mưa người phi  người thảy những điều phi ác xúc phạm, siêng gia sửa sang khiến lìa các  bệnh, sáu căn thanh tịnh không các ưu khổ. Lại đem các thứ đồ vui hạng  thượng cúng dường cung kính mà nói lời này: Mẹ ta từ bi đẻ nuôi chúng ta  dạy dỗ tất cả sự nghiệp thế gian, chúng ta đâu được chẳng đền ơn mẹ.
Như  vậy, Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thường dùng các thứ khéo léo phương  tiện hộ niệm Bát nhã Ba la mật đa. Nếu có kẻ thọ trì đọc tụng tu tập suy  nghĩ diễn nói hoặc biên chép. Như Lai cũng dùng các thứ phương tiện  siêng gia hộ niệm khiến không tổn hại.
Trong các thế giới mười  phương hiện tại tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thương xót làm lợi  vui các loại hữu tình cũng dùng các thứ khéo léo phương tiện hộ niệm Bát  nhã Ba la mật đa, khiến các ác ma chẳng thể hủy diệt, lâu trụ lợi vui  tất cả thế gian.
Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  năng sanh Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, năng chính hiển trọn Nhất thiết  trí trí, năng chỉ thật tướng các pháp thế gian. Nhất thiết trí trí cũng  từ kia sanh.
Thiện Hiện phải biết: Chư Phật ba đời đều nương Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế tinh siêng tu học, chứng được Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên, Bát nhã Ba la mật đa năng sanh Như Lai  Ứng Chánh Ðẳng Giác, năng chính hiển trọn Nhất thiết trí trí, năng chỉ  thật tướng các pháp thế gian.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật  rằng: Sao là Bát nhã Ba la mật đa năng chỉ thật tướng các pháp thế gian?  Phật nói pháp nào gọi là thế gian?
Phật bảo: Thiện Hiện! Ta nói  năm uẩn gọi là thế gian. Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng chỉ thế gian  sắc thảy năm uẩn không tướng biến hoại, nên nói Bát nhã Ba la mật đa  năng chỉ thật tướng các pháp thế gian.
Sở dĩ vì sao? Vì sắc thảy  năm uẩn không có tự tánh vậy, nên nói gọi là không, vô tướng, vô nguyện,  tức chơn pháp giới, chẳng phải không thảy khá có pháp biến hoại. Vậy  nên nói Bát nhã Ba la mật đa năng chỉ thật tướng các pháp thế gian.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương Bát nhã  Ba la mật đa khắp năng chứng biết vô lượng vô số vô biên hữu tình, thi  thiết tâm hành các thứ sai khác, nên nói Bát nhã Ba la mật đa năng chỉ  thật tướng các pháp thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai  Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương Bát nhã Ba la mật đa như thật chứng biết  vô lượng vô số vô biên hữu tình có bao tán tâm, do pháp tánh nên không  tánh tán tâm. Có bao lược tâm, vì hết vì lìa nên không tánh lược tâm.  Các tâm có tham, do tánh như thật chẳng có tâm tham. Các tâm có sân, do  tánh như thật chẳng có tâm sân. Các tâm có si, do tánh như thật chẳng có  tâm si. Các tâm lìa tham, trong lìa chẳng có. Các tâm lìa sân, trong  lìa chẳng có. Các tâm lìa si trong lìa chẳng có.
Có bao tâm rộng  không thêm không bớt, cũng chẳng xa lìa, vì đã xa lìa, không tánh tâm  rộng. Có bao tâm lớn không đến không đi, cũng không chỗ trụ, không tánh  tâm lớn. Các tâm vô lượng không sanh không diệt, không trụ không đi,  không chỗ nương tựa, như thái hư không.
Các tâm không thấy, vì  không tướng khá được, vì lìa các thứ cảnh giới, nên không tâm thấy. Tâm  chẳng thể thấy, vì chẳng phải cảnh ba nhãn, vì không tâm tánh nên chẳng  phải chẳng thể thấy tâm.
Do các nghĩa đây thảy nên nói Bát nhã Ba la mật đa năng chỉ thật tướng các pháp thế gian.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương Bát nhã  Ba la mật đa như thật chứng biết vô lượng vô số vô biên hữu tình hoặc  nổi hoặc chìm. Nghĩa là như thật biết pháp tâm, tâm sở loại hữu tình kia  hoặc nổi hoặc chìm đều nương sắc thọ tưởng hành thức mà sanh. Nghĩa là  pháp tâm tâm sở các hữu tình hoặc có nương sắc thọ tưởng hành thức, chấp  Như Lai chết rồi hoặc có hoặc chẳng có, hoặc cũng có cũng chẳng có,  hoặc chẳng có chẳng phải chẳng có, đấy là sắc thực, kia đều ngu dối.
Hoặc  có nương sắc thọ tưởng hành thức chấp ngã và thế gian hoặc thường hoặc  vô thường, hoặc cũng thường cũng vô thường, hoặc chẳng thường chẳng vô  thường, đây là chắc thực kia đều ngu dối.
Hoặc có nương sắc thọ  tưởng hành thức chấp ngã và thế gian hoặc có ngằn hoặc không ngằn, hoặc  cũng có ngằn cũng không ngằn, hoặc chẳng có ngằn chẳng không ngằn, đây  là chắc thực kia đều hư dối.
Hoặc có nương sắc thọ tưởng hành thức chấp mạng giả tức thân, hoặc lại khác thân, đây là chắc thực kia đều ngu dối.
Như  vậy, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương Bát nhã  Ba la mật đa như thật chứng biết vô lượng vô số vô biên hữu tình hoặc  nổi hoặc chìm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác đều nương Bát nhã Ba la mật đa như thật chứng biết vô lượng vô số  vô biên hữu tình hoặc nổi hoặc chìm. Nghĩa là như thật biết các bao  nhiêu sắc thọ tưởng hành thức đều như chơn như không hai không riêng.
Thiện  Hiện phải biết: Chơn như Như Lai tức chơn như năm uẩn. Chơn như năm uẩn  tức chơn như thế gian. Chơn như thế gian tức chơn như tất cả pháp. Chơn  như tất cả pháp tức chơn như quả Dự lưu. Chơn như quả Dự lưu tức chơn  như quả Nhất lai. Chơn như quả Nhất lai tức chơn như quả Bất hoàn. Chơn  như quả Bất hoàn tức chơn như quả A la hán. Chơn như quả A la hán tức  chơn như Ðộc giác Bồ đề. Chơn như Ðộc giác Bồ đề tức chơn như tất cả  hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chơn như tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát tức chơn  như chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chơn như chư Phật Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề tức chơn như tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Chơn  như tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác tức chơn như tất cả hữu tình.
Thiện  Hiện phải biết: Chơn như như thế đều chẳng rời nhau, chẳng nhất chẳng  dị, không tận không hai, cũng không hai phần, chẳng thể phân biệt.
Thiện  Hiện phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương Bát nhã Ba  la mật đa chứng nhơn tất cả pháp rốt ráo, mới được Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề. Do đây nên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh Như Lai  Ứng Chánh Ðẳng Giác, là mẹ Như Lai năng chỉ thật tướng các pháp thế gian  cho Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.
Thiện Hiện phải biết: Tất cả  Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương Bát nhã Ba la mật đa năng như thật  giác các pháp chơn như tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác. Do như  thật giác tướng chơn như nên nói gọi Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.
Cụ  thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm sở  chứng chơn như tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, rất là thẳm sâu,  khó thấy khó giác. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều dùng tánh  chẳng hư dối tánh chẳng biến khác các pháp như thế, tuyên nói khai chỉ  phân biệt hiển rõ tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề. Chơn như tánh chẳng hư dối tánh chẳng biến khác như thế, ai  năng tin hiểu được? Duy có Bồ tát Ma ha tát bậc chẳng quay lui và Ðại A  la hán mãn các nguyện, cùng các thiện nam tử đủ chánh kiến nghe Phật  nói chơn như tánh chẳng hư dối tánh chẳng biến khác sâu thẳm đây năng  sanh tin hiểu. Như Lai vì kia nương tự sở chứng tướng chơn như phân biệt  chỉ rõ.
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Sở dĩ vì sao?  Chơn như vô tận vậy nên sâu thẳm, duy có Như Lai hiện Ðẳng chánh giác vô  tận tướng chơn như sâu thẳm, vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói  khai chỉ khiến sanh tin hiểu.
Thiện Hiện phải biết: Sắc vô tận  nên chơn như vô tận, sắc sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì sắc cùng  chơn như không sai khác vậy. Thọ tưởng hành thức vô tận nên chơn như vô  tận, thọ tưởng hành thức sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì thọ tưởng  hành thức cùng chơn như không sai khác vậy.
Thiện Hiện phải biết:  Nhãn xứ vô tận nên chơn như vô tận, nhãn xứ sâu thẳm, nên chơn như sâu  thẳm, vì nhãn xứ cùng chơn như không sai khác vậy. Nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ vô tận nên chơn như vô tận, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ sâu thẳm nên chơn  như sâu thẳm, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cùng chơn như không sai khác  vậy.
Thiện Hiện phải biết: Sắc xứ vô tận nên chơn như vô tận, sắc  xứ sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì sắc xứ cùng chơn như không sai  khác vậy. Thanh hương vị xúc pháp xứ vô tận nên chơn như vô tận, thanh  hương vị xúc pháp sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì thanh hương vị xúc  pháp xứ cùng chơn như không sai khác vậy.
Thiện Hiện phải biết:  Nhãn giới vô tận nên chơn như vô tận, nhãn giới sâu thẳm nên chơn như  sâu thẳm, vì nhãn giới cùng chơn như không sai khác vậy. Nhĩ tỷ thiệt  thân ý giới vô tận nên chơn như vô tận, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới sâu  thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cùng chơn như  không sai khác vậy.
Thiện Hiện phải biết: Sắc giới vô tận nên  chơn như vô tận, sắc giới sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì sắc giới  cùng chơn như không sai khác vậy. Thanh hương vị xúc pháp giới vô tận  nên chơn như vô tận, thanh hương vị xúc pháp giới sâu thẳm nên chơn như  sâu thẳm, vì thanh hương vị xúc pháp giới cùng chơn như không sai khác  vậy.
Thiện Hiện phải biết: Nhãn thức giới vô tận nên chơn như vô  tận, nhãn thức giới sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì nhãn thức giới  cùng chơn như không sai khác vậy. Nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới vô tận  nên chơn như vô tận, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới sâu thẳm nên chơn như  sâu thẳm, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cùng chơn như không sai khác  vậy.
Thiện Hiện phải biết: Tất cả pháp vô tận nên chơn như vô  tận, tất cả pháp sâu thẳm nên chơn như sâu thẳm, vì tất cả pháp cùng  chơn như không sai khác vậy. Vậy nên chơn như rất khó tin hiểu.