Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
Cụ  thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Vì trụ thắng nghĩa  chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề ư ? chẳng phải, thiện hiện. Bạch  tế t ôn! Vì trụ điên đảo chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề ư? Chẳng  phải, thiện hiện.
Bạch thế tôn! Nếu chẳg trụ thắng nghĩa chứng  được vô thượng chánh đẳng bồ đề, cũng chẳng trụ điên đảo chứng được vô  thượng chánh đẳng bồ đề ấy, lẽ không có thế tôn chẳng chứng vô thượng  chánh đẳng bồ đề ư? Chẳng phải, thiện hiện! Ta dù chứng được vô thượng  chánh đẳng bồ đề, nhưng chẳng trụ hữu vigiới, cũng chẳng trụ vô vi giới.
Thiện  hiện! Nhu kẻ được các như lai biến hóa dù chẳng trụ hữu vi giới, cũng  chẳng trụ vô vi giới, nhưng vẫn co đi lại ngồi đứng các việc.
Thiện  hiện! Kẻ sở hóa này, hoặc hành bố thí ba la mật đa; cũng hành tịnh  giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa.
Kẻ sở  hóanày hoặc trụ nọâi không; cũng trụ ngoại không, nội ngoại không, không  không, đại không, thắng nghĩa không, hũu vi không, vô vi không, tất  cánh không, vô tế không, tán không, vô bìến dị không, bổn tánh không, tự  tưóng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đác  không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Kẻ sở  hóa nàyhoặc trụ chơn như; cũng trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng  tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp đinh, pháp  trụ, thật tế, hư không giới, bấ tư nghì giới.
Kẻ sở hóa này hoặc  tu bốn niệm trụ; cũng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,  bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Kẻ sở hóa này hoặc trụ khổ thánh  đế, cũng trụ tập diệt đạo thánh đế. Kẻ sở hóa này hoặc tu bốn tĩnh lự;  cũng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Kẻ sở hóa này hoặc tu tám  giải thoát; cũng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Kẻ sở  hóa này hoặc tu tất cả tam ma địa môn, cũng tu tất cả đà la ni môn. Kẻ  sở hóa này hoặc tu không giải thoát môn; cũng tu vô tướng, vô nguyện  giải thoát môn. Ke sở hóa này hoặc tu năm nhãn, cũng tu sáu thần thông.
Kẻ  sở hóa này hoặc tu phật mười lực; cũng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại  giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Kẻ sở  hóa này hoặc tu pháp vô vong thất, cũng tu tánh hằng trụ xả. Kẻ sở hóa  này hoặc tu nhất thiết trí; cũng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.  Kẻ sở hóa này hoặc chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề, quay xe diệu pháp  làm các phật sự. Kẻ sỏ hóa này lại chuyển hóa làm vô lượng hữu tình, với  trong ấy kiến lập ba nhóm chánh tánh định thảy sai khác.
Thiện  hiện! Nơi ý người hiểu sao? Kẻ được các như lai biến hóa này là thật có  đi lại, cho đến hằng trụ tu chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề quay xe  diệu pháp, làm các phật sự, an lập ba nhóm có sai khác chăng? Thiện hiện  thưa rằng: bạch thế tôn! Chẳng thật có. Bạch thiện thệ!chẳng thật có.  Phật nói: thiện hiện! Như lai cũng vậy, biết tất cả pháp đều như biến  hóa, thuyết tất cả pháp đều như biến hóa; dù có sở tác mà không chơn  thật, dù độ hữu tình mà không sở độ, như kẻ sở hóa độ hữu tình. Như vậy,  thiện hiện! Bồ tát ma ha tát tu hành bát nhã ba la mật đa, nên biết là  kẻ sở biến hóa của chư phật, tuy có sở vi mà không chấp đắm.
Cụ  thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu tất cả pháp đều như  biến hóa, nhưlai cũng vậy. Phật cùng hóa nhân có sai khác chi? Phật nói:  thiện hiện! Phật cùng hóa nhân và tất cả pháp ngang không sai khác. Vì  cớ sao? Thiện hiện! Phật sở tác sự nghiệp người do phật hóa cũng năng  tác được vậy. Thiện hiện thưa rằng: nếu không có phật, người do phật hóa  năng tác được sự chăng? Phật nói: năng tác được.
Thiện hiện thưa  rằng: việc ấy thế nào? Phật nói: thiện hiện! Như đời quá khứ có một như  lai ứng chánh đẳng giác quý danh thiện tịch huệ, kẻ tự đáng độ đều đã  độ xong. Bấy giờ không có bồ tát kham nhận phật ký, bèn hóa làm một  phật, khiến trụ thế gian, tự vào cõi vô dư y đại niết bàn. Khi hóa phật ở  trong nửa kiếp làm các phật sự. Qua nửa kiếp rồi trao ký cho một bồ tát  ma ha tát, hiện vào niết bàn. Bấy giờ trời, người, a tố lạc thảy, đều  bảo phật kia nay vào niết bàn, nhưng thân hóa phật thật không khởi diệt.  Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát tu hành bát nhã ba la mật đa nên  tin các pháp đều như biến hóa.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng:  bạch thế tôn! Nếu thân như lai cùng hóa không khác, làm sao năng tác  chơn tịnh phước điền. Nếu các hữu tình vì giải thoát ở chỗ như lai cung  kính cúng dường, phước ấy vô tận. Cho đến rốt sao vào cõi vô dư y niết  bàn. Như vậy, nếu có vì giải thoát nên cúng dường hóa phật, chỗ được  nhóm phước cũng sẽ vô tận. Cho đến rốt sau vào cõi vô dư y niết bàn.
Phật  nói: thiện hiện! Như thân như lai do pháp tánh nên năng làm tịnh phước  điền cho trời, người, a tố lạc thảy; hóa phật cũng vậy, do pháp tánh nên  năng làm tịnh như lai thọ người cúng dường, khiến thí chủ kia hết ng82n  sanh tử, phước ấy vô tận. Như vậy, hóa phật thọ người cúng dường cũng  khiến thí chủ hết ngằn sanh tử, phước ấy vô tận.
Thiện hiện! Vả  thôi cúng dường như lai và cùng hóa phật, chỗ được nhóm phước. Nếu các  thiện nam tử, thiện nữ nhân ở chỗ như lai khởi lòng từ kính, suy nghĩ  nhớ niệm. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này căn lành vô tận, cho đến  rốt sau làm ngằn mé khổ.
Thiện hiện! Lại thôi đem lòng từ kính  nhớ nghĩ như lai chỗ được nhóm phước. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ  nhân vì cúng dường phật, tối thiểu một hoa dùng rải hư không. Các thiện  nam tử, thiện nữ nhân này căn lành vô tận cho đến rốt sau làm ngằn mé  khổ.
Thiện hiện! Lại thôi cúng dường phật tối thiểu một hoa dùng  rải hư không, chỗ được nhóm phước. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân  tối thiểu một xxưng nam vô phật đà. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này  căn lành vô tận, cho đến rốt sau làm ngằn mé khổ. Như vậy, thiện hiện!  Ơû chỗ như lai cung kính cúng dường được đại công đức lợi như thế thảy,  lượng ấy khó lường.
Vậy nên, thiện hiện! Phải biết thân như lai  cùng hóa phật ngang không sai khác, pháp tánh các pháp làm đinh lượng  vậy. Vậy nên, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát nên đemm pháp tánh các pháp  mà làm định lượng, tu hành bát nhã ba la mật đa, phưongtiện khéoléo vào  pháp tánh các pháp rồi, mà đối các pháp chẳng hoại pháp tánh. Nghĩa là  chẳng phân biệt đây là bát nhã ba la mật đa, đây là pháp tánh bat nhã ba  la mật đa. đây là tĩnh lự,tinhtiến, an nhẫn, tịnh giói, bố thí ba la  mật đa; đây là pháp tánh tĩnh lự cho đến bố thí ba lam ật đa.
Dây  là nôi không, đây là pháp tánh nội không. Ðây là nngoại không, nội  ngoại không, không không, đai không, thắng nghĩa không,  hũuvikhông,vôvikhông, tấtcánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị  không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp  không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh  không; đây là pháp tánh ngoại không cho đến vô tánh tu tánh không.
Ðây  là chơn nhu, đây là pháp tánh chơn như. Ðây là pháp giới, pháp tánh,  bất hư vọng tánh,bất biến dị tánh, bình đảng tánh, lysanh ánh,pháp định,  pháptrụ, thật tế,hư khônggiới, bất tư nghì giới; đây là pháp tánh pháp  giới cho đến bất tư nghì giới.
Ðây là bốn niệm trụ, đậy là pháp  tánh bốn niệm trụ. Ðây là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, nam can, năm  lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; đây là pháp tánh bốn chánh  đoạn cho đến tám thánh đao chi.
Ðây là khổ thánh đế, đây là pháp tánh khổ thánh đế. Ðây là tập diệt đạo thánh đế, đây là pháp tánh tập diệt đạo thánh đế.
Ðây  là bốn tĩnh lự, đây là pháp tánh bốn tĩnh lự. Ðây làbốnvôlượng, bốn vô  sắc định; đây là pháp tánh bốn vô lượng, bbốn vô sắc định.
Ðây là  támm giải thoát, đây là pháp tánh tám giải thoát. Ðây là tám thắng xứ,  chín thư ùđe âđịnh, muời biến xứ; đây là pháp tánh thắng xứ, chín thứ đệ  định, mmười iến xứ.
Ðây là tất cả tam ma địa môn, đây là pháp  tánh tất cả tam ma địa môn. Ðây là tất cả đà la ni môn, đây là pháp tánh  tấtcảđà la ni môn.
Ðâylàkhông giải thoát môn đây là pháp tánh  không giải thoát môn. Ðây là vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; đây  làpháp tánhvô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Ðây là năm nhãn, đây là pháp tánh năm nhãn. Ðây là sáu thần thông, đây là pháp tánh sáu thần thông.
Ðây  là phật mười lực, đây là pháp tánh phật mười lực. Ðây là bốn vô sở úy,  bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất  cộng; đây là pháp tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp phậg bất  cộng.
Ðây là pháp vô vong thất, đây là pháp tánh pháp vô vong thất. Ðây là tánh hằng trụ xả, đây là pháp tánh tánh hằng trụ xả.
Ðây  là nhất thiết trí, đây là pháp tánh nhất thiết trí. Ðây là đạo tướng  trí, nhất thiết tướng trí; đây là pháp tánh đạo tướng trí, nhất thiết  tướng trí.
Ðây là quả dự lưu, đây là pháp tánh quả dự lưu. Ðây là  quả nhất lai, bất hoàn, a la hán; đây là độc giác bồ đề, đây là pháp  tánh độc giác bồ đề.
Ðây là tất cả hạnh bồ tát ma ha tát, đây là  pháp tánh tất cả hạnh bồ tát. Ðây là chư phật vô thượng chánh đẳng bồ  đề, đây là pháp tánh chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề.
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát tu hành bát nhã ba la mật đa chẳng nên phân biệt  pháp tánh các pháp sai biệt như thế mà hoại phát tánh.
Cụ thọ  thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu bồ tát ma ha tát chẳng nênn  hoại pháp tánh các pháp, vì sao như lai tự hoại pháp tánh các pháp?  Nghĩa là phật thường thuyết đây là sắc, đây là thọ tưởng hành thức. Ðây  là nhãn xứ, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Ðây là sắc xứ, đây là thanh  hương vị xúc pháp xứ. Ðây là nhãn giới, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý giới.  Ðây là sắc giới, đây là thanh hương vị xúc pháp giới. Ðây là nhãn thức  giới, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Ðây là nhãn xúc, đây là nhĩ  tỷ thiệt thân ý xúc. Ðây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, đây là  nhĩ tỷ tiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Ðây là địa giới, đây  là thủy hỏa phong không thức giới. Ðây là vô minh; đây là hành, thức,  danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu  não, đây là nội pháp, đây là ngoại pháp. Ðây là pháp thiện, đây là pháp  phi thiện. Ðây là pháp hữu lậư, đây là pháp vô lậu. Ðây là pháp thế  gian, đây là pháp xuất thế gian. Ðây là pháp cộng, đây là pháp bất cộng.  Ðây là pháp hữu tránh, đây là pháp vô tránh. Ðây là pháp hữu vi, đây là  pháp vô vi. Phật đã từng thuyết các pháp như thế thảy, đây không tự  hoại pháp tánh các pháp?
Phật nói: thiện hiện! Ta chẳng tự hoại  pháp tánh các pháp. Chỉ đem danh tướng phương tiện mượn thuyết pháp tánh  các pháp, khiến các hữu tình nhờ được ngộ vào pháp tánh các pháp lý  không sai khác. Vậy nên, thiện hiện! Ta từng chằng hoại pháp tánh các  pháp.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu phật  chỉ đem danh tướng tuyên nói pháp tánh các pháp khiếnn các hữu tình nhờ  được ngộ vào. Vì sao phật đối pháp vô danh vô tướng, đem danh tướng mà  thuyết khiến người ngộ vào ư?
Phật nói: thiện hiện! Ta tùy thế  tục giả lập danh tướng phương tiện tuyên nói pháp tánh các pháp mà không  chấp trước. Thiện hiện! Như các ngu phu nghe thuyết khổ thảy chấp trước  danh tướng, chẳng biết giả nói. Chó chẳng phải các như lai và đệ tử  phật nghe thuyết khổ thảy chấp trước danh tướng. Nhưng như thật biết tùy  thế tục mà nói, khhông có chơn thật các pháp danh tướng. Thiện hiện!  Nếu các thánh giả đối danh trước danh, đối tướng trước tướng. Như vậy,  cũng nên đối không trước không, đối vô tướng trước vô tướng, đối vô  nguyện trước vô nguyện. Ðối chơn như trước chơn như, đốì thật tế trước  thật tế, đối pháp giới trước pháp giới, đối vô vi trước vô vi. Thiện  hiện! Tất cả pháp này chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng mà không chơn  thật. Thánh giả đối trong ấy cũng chẳng trụ trước, chỉ có giả tướng. Như  vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát trụ tất cả pháp chỉ giả danh tướng,  nên hành bát nhã ba la mật đa, mà đối trong ấy chẳng nên trụ trước.
Cụ  thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu tất cả pháp chỉ có  danh tướng. Bồ tát ma ha tát vì việc nào nên phát tâm bồ đề. Ðã pháp tâm  rồi, chịu các siêng khổ hành hạnhh bồ tát: tu hành bố thí ba la mật đa;  tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa.  an trụ nội không; an trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại  không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô  tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,  cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh  không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, an trụ chon như; an trụ  pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng  tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư  nghì giới. Tu hành bốn niệm trụ; tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc,  năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. An trụ khổ thánh  đế, an trụ tập diệt đạo thánh đế. Tu hành bốn tĩnh lự; tu hành bốn vô  lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát; tu hành tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ. Tu hành tất cả tam ma địa môn; tu hành  tất cả đà la ni môn. Tu hành không hiải thoát môn; tu hành vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn. Tu hành năm nhãnn, tu hành sáu thần thông. Tu  hành phật mười lực; tu hành bốn vô sỏ úy, bốn vô nngại giải, đại từ, đại  bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong  thất, tu hành tánh hằng trụ xả. Tu hành nhất thiết trí; tu hành đạo  tướng trí, nhất thiết tướng trí đều khiến viên mãn?
Phật nói:  thiện hiện! Như người đã thuyết. Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng, bồ  tát ma ha tát vì việc nào nên phát tâmm bồ đề, hành hạnh bồ tát ấy.
Thiện  hiện! Vì tất cả pháp chỉ có danh tướng. Danh tướng như thế chỉ giả thi  tiết, tánh danh tướng không. Các loại hữu tình điên đảo chấp trước, trôi  lăn sanh tử chẳng được giải thoát. Vậy nên, bồ tát ma ha tát pháp tâm  bồ đề, hành hạnh bồ tát, lầnn lữa chứng được nhất thiết tướng trí, quay  xe chánh pháp, đem pháp tam thừa độ thoát hữu tình khiến ra sanh tử, vào  cõi vô dư y niết bàn, mà các danh tướng không sanh không diệt, cũng  không trụ khác thi thiết khá được.
Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện  thưa phật rằng: bạch thế tôn! Phật thuyết nhất thiết tướng trí vì nhất  thiết tướng trí ư? Phật nói: thiện hiện! Ta thuyết nhất thiết tướng trí  nhất thiết tướng trí.
Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch  thế tôn! Như lai thường thuyết nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết  tướng trí. Ba trí như thế, tướng ấy thế nào, có sai khác gì không? Phật  nói: thiện hiện! Nhất thiết trí ấy là cộng trí thánh văn và độc giác.  Ðạo tướng trí ấy là cộng trí bồ tát ma ha tát. Nhất thiết tướng trí ấy  là diệu trí bất cộng của các như lai ứng chánh đẳng giác.
Cụ ghọ  thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Duênn nào nhất thiết trí là  cộng trí thanh vân và độc giác? Phật nói: thiện hiện! Nhất thiết trí ấy  nghĩa là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới thảy; thanh văn, độc giác  cũng năng rõ biết, mà chẳng năng biết tất cả đạo tướng vvà tất cả pháp,  tất cả chủng tướng.
Cụ thọ thiện hiệnn lại thưa phật rằng: bạch  thế tôn! Duyên nào đạo tướng trí là cộng trí bồ tát ma ha tát? Phật nói:  thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát nên học biết khắp tất cả đạo tướng.  Nghĩa là đạo tướng thanh văn, đạo tướng độc giác, đạo tướng bồ tát, đạo  tướng như lai. Bồ tát ma ha tát đối các đạo tướng này thường nên tu học  khiến mau viên mãn. Tuy khiến đạo này làm việc đáng làm, mà chẳng cho  kia chứng nơi thật tế.
Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch  thế tôn! Bồ tát ma ha tát tu đạo như lai, được viên mãn rồi, đâu đối  thật tế chẳng tác chứng ư? Phật nói: thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát,  nếu chưa viên mãn nghìêm tịnh cõi phật, thành thục hữu tình, tu các đại  nguyện, vẫn đối thật tế chưa nên tác chứng. Nếu đã viên mãn nghiêm tịnh  cõi phật, thành thục hữu tình, tu các đại nguyện, đối thật tế kia mới  nên tác chứng.
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ nơi đạo chứng thật tế ư? Chẳng trụ, thiện hiện!
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ phi đạo chứng thật tế ư?/ chẳng trụ, thiện hiện!
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ đạo phi đạo chứng thật tế ư? Chẳng trụ, thiện hiện!
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ phi đạo phi phi đạo chứng thật tế ư? Chẳng trụ, thiện hiện!
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu vậy, bồ tát ma ha tát phải trụ chỗ nào mà chứng thật tế?
Phật bảo: thiện hiện! Nơi ý hiểu sao? Người vì trụ đạo được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế tôn! Chẳng phải vậy.
Thiện hiện! Người vì trụ phi đạo, được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế tôn! Chẳng phảì vậy.
Thiện hiện! Người vì trụ đạo phi đạo, được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế tôn! Chẳng phải vậy.
Thiện  hiện! Người vì trụ phi đạo phi phi đạo, được hết các lậu, tâm giải  thoát ư? Bạch thế thôn! Chẳng phải vậy. Chẳng phải tôi có trụ, được hết  các lậu, tâm giải thoát hẳn. Nhưng tôi hết lậu, tâm được giải thoát đều  vô sỏ trụ.
Phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát cũng lại như vậy, tu hành bát nhã ba la mật đa đều vô sỏ trụ mà chứng thật tế.
Cụ  thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Duyên nào nhất thiết  tướng trí tên nhất thiết tướng trí ư? Phật nói: thiện hiện! Biết tất cả  pháp đều đồng một tướng nhĩa là tướng tịch diệt. Vậy nên, tên là nhất  thiết tướng trí. Lại nữa, thiện hiện! Các hành trạnh tướng năng làm tiêu  biểu các pháp. Như lai như năng khắp giác biết, vậy nên gọi tên nhất  thiết tướng trí.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn!  Hoặc nhất thiết trí, hoặc đạo tướng trí, hoặc nhất thiết tướng trí. Ba  trí như thế dứt các phiền não có sai khác chăng? Có dứt có thừa dư, dứt  không thừa dư chăng?
Phật nói: thiện hiện! Chẳng phải dứt các  phiền não có sai khác. Nhưng các như lai ứng chánh đẳng giác, tất cả tập  khí nối nhau phiền não đều đã dứt hẳn. Thanh văn, độc giác tập khí nối  nhau hãy chưa dứt hẳn.
Bạch thế tôn! Dứt các phiền nnão được vô  vi chăng? Như vậy, thiện hiện! Bạch thế tôn! Thanh vân, độc giác chẳng  được vô vi phiền não dứt chăng? Chẳng dứt, thiện hiện.
Bạch thế  tôn! Trong pháp vô vi có sai khác ch8ng? Chẳng khác, thiện hiện. Bạch  thế tôn!nếu pháp vô vi không sai khác ấy. Cớ sao phật nói tất cả như lai  ứng ch1nh đẳng giác tập khí nối nhau đều đã dứt hẳn; thanh văn, độc  giác hãy chưa dứt hẳn? Thiện hiện! Tập khí nối nhau thật chẳng phải  phiền não. Nhưng các thanh vân và độc giác phiền não đã dứt, mà còn có  chút phần giống như tham sân si, thân ngữ ý chuyển, túc nói đấy là tập  khí nối nhau. Nối nhau đây ở tại ngu phu dị sanh năng dẫn vô nghĩa, chớ  chẳng phải nối nhau tại thanh văn, độc giác năng dẫn vô nghĩa. Như vậy,  tất cả tập khí nối nhau chư phật hẳn không có.
Bấy giờ, cụ thọ  thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Ðạo cùng niết bàn đều vô tự  tánh, cớ sao phật nói: đây là dự lưu, đây là nhất lai, đây là bất hoàn,  đây là l la hán, đây là độc giác, đây là bồ tát ma ha tát, đây là như  lai ứng chánh đẳng giác? Phật nói: thiện hiện! Hoặc dự lưu, hoặc nhất  lai, hoặc bất hoàn, hoặc a la hán, hoặc độc giác, hoặc bồ tát ma ha tát,  hoặc các như lai ứng chánh đẳng giác. Tất cả như thế do vô vi hiển ra.  Bạch thế tôn! Trong pháp vô vi thật có nghĩa sai khác dự lưu cho đến như  lai ứng chánh đẳng giác chăng? Chẳng có, thiện hiện. Bạch thế tôn! Nếu  vậy, cớ sao phậ nói dự lưu cho đến như lai ứng chánh đẳng giác tất cả  đều là vô vi hiển ra? Thiện hiện! Ta y thế tục nói lời hiền ra, chẳng y  thắng nghĩa. Chẳng phải trong thắng nghĩa có được hiển ra. Vì cớ sao?  Thiện hiện! Chẳng phải trong thắng nghĩa có đường ngôn ngữ, hoẵc huệ  phân biệt, hoặc lại hai thứ. Nhưng dứt ngằn kia kia, lập mé sau kia kia.
Cụ  thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Tất cả pháp tự tướng đã  đều không, ngằn trước hãy không huống có mé sau, làm sao lập được có mé  sau ư? Phật nói: thiện hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Các  pháp sỏ hữu tự tướng đều không, ngằn trước hãy không huống có mé sau,  lập có mé sau quyết định không có lẽ ấy. Nhưng các hữu tình chẳng năng  hiểu rõ các pháp sở hữu tự tướng đều không. Vì nhiêu ích kia, phương  tiện vì nói: đây là ngằn trước, đây là mé sau. Nhưng trong tất cả pháp  tự tướng không, ngằn trước mé sau đều chẳng khá được. Như vậy, thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát đạt được tất cả pháp tự tướng không rồi, nên hành  bát nhã ba la mật đa. thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát đạt tất cả pháp  tự tướng đều không, tu hành bát nhã ba la mật đa, đối trong các pháp  không sỏ chấp trước. Nghĩa là chẳng chấp trước gội pháp ngoại pháp,  thiện pháp phi thiện pháp, thế gian pháp xuất thế gian pháp, hữu lậu  pháp vô lậu pháp, hữu vi pháp vô vi pháp, hoặc thanh văn pháp, hoặc độc  giác pháp, hoặc bồ tát pháp, hoặc như lai pháp. Tất cả như thế đều chẳng  chấp trước.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Như  lai thường nói bát nhã ba la mật đa. bát nhã ba la mật đa lấy nghĩa nào  nên tên là bát nhã ba la mật đa?
Phật nói: thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế đến tất cả pháp bờ kia rốt ráo, nên tên bát nhã ba la mậ đa.
Lại  nữa, thiện hiện! Do bát nhã ba la mật đa đây, tất cả thanh văn, độc  giác, bồ tát và các như lai ứng chánh đẳng giác năng đến được bờ kia,  nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lai nữa, thiện hiện! Tất cả như lai  ứng chánh đẳng giác và các chúng bồ tát ma ha tát, dùng bát nhã ba la  mật đa này y theo lý thắng nghĩa, chia chẻ các pháp, như chẻ các sắc đến  lượng cực vi, hãy chẳng thấy có chút thật khá được, nên tên bát nhã ba  la mật đa.
Lại nữa, thiện hiện! Ơû bát nhã ba la mật đa này, bao trùm chơn như, thật tế, pháp giới, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lại  nữa, thiện hiện! Chẳng phải bát nhã ba la mật đa đây có pháp chút phần  hoặc hợp hoặc tan, hoặc hữu sắc hoặc vô sắc, hoặc hữu kiến hoặc vô kiến,  hoặc hữu đối hoặc vô đối, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô  vi. Sỏ vì sao? Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế vô sắc, vô  kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng, nên tên bát nhã ba la mật  đa.
Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế năng sanh  tất cả pháp lành thù thắng, năng pháp tất cả trí huệ biện tài, năng dẫn  tất cả vui thế gian, xuất thế gian, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lại  nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế, thẳm sâu bền chắc chẳng  động hoại được. Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa này, tất  cả ác ma và quyến thuộc chúng, thanh văn, độc giác, ngoại đạo phạm chí,  bạn ác, oán tù đều chẳng năng hoạì được. Vì cớ sao? Thiện hiện! Do bát  nhã ba la mật đa đây làm cho tất cả pháp tự tướng đều không, các ác ma  thảy đều chẳng khá được, nên tên bát nhã ba la mật đa. thiện hiện! Các  bồ tát ma ha tát nên như hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu  như thế.
Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát muốn hành bát  nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳng sâu nên hành nghĩa vô thường, nghĩa  khổ, nghĩa không, nghĩa vô ngã. Nên hành nghĩa khổ trí, nghĩa tập trí,  nghĩa diệt trí, nghĩa đạo trí. Nên hành nghĩa pháp trí, nghĩa lại trí,  nghĩa thế tục trí, nghĩa tha tâm trí. Nên hành nghĩa tận trí, nghĩa vô  sanh tí, nghĩa hư thuyết trí. Thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát vì hành  bát hã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu, nênn mới hành bát nhã ba la mật  đa.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Trong bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu đ6y nghĩa cùng phi nghĩa đều chẳng khá được. Bồ  tát ma ha tát làm sao vì hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu  nên hành bát nhã ba la mật đa?
Phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha  tát vì hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu nên khởi nghĩ này:  ta chẳng nên hành tham dục nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành giận dữ  nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành ngu si nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên  hành tà kiến nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành các ác kiến thú nghĩa  phi nghĩa. Sở dĩ vì sao? Thiện hiện! Tham dục, giận dữ, ngu si, tà kiến,  tà định, kiến thú, chơn như, thật tế chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi  nghĩa.
Lại nữa, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì hành bát nhã ba  la mật đa nghĩa thú thẳm sâu, nên khởi nghĩ này: ta chẳng nênn hành hắc  nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành thọ tưởng hành thức nghĩa phi nghĩa.  Ta chẳng nên hành nhãnn xứ nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ  thệt thân ý xứ nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nênn hành sắc xứ nghĩa phi  nghĩa, ta chẳng nênn hành thanh hương vị xúc pháp xứ nghĩa phi nghĩa.
Ta  chẳng nên hành nhãn giới nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ 6ỷ  thiệt thân ý giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nênn hành sắc giói nghĩa phi  ghĩa, ta chẳng nên hành thanh hương vị xúc pháp giới nghĩa phi nghĩa.  Ta chẳng nên hành nhãn thức giới nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ  tỷ thiệt thân ý thức giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãn xúc  nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc nnghĩa phi  nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ nghĩa phi  nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các  thọ nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành địa giới nghịa phi nghĩa,  ta chẳng nên hành thủy hỏa phong không thức giới nghĩa phi nghĩa. Ta  chẳng nên hành vô minh nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành hành, thức,  danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh. Lão tử sầu thán khồ ưu  não nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành bố thí ba la mật đa nghĩa  phi nghĩa; ta chẳng nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát  nhã ba la mật đa nghịa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành nội không  nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành ngoại không, nội ngoại không, không  không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh  không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự  tướng không, cộng tướng không, nhất thiết ph1p không, bất khả đắc không,  vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không nghĩa phi nghĩa.
Ta  chẳng nên hành chon như nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành pháp giới,  pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh  tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới  nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành bốn niệm trụ nghĩa phi nghĩa;  ta chẳng nên hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy  đẳng giác chi, tám thánh đạo chi nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành khổ  thánh đế nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành tập diệt đạo thánh đế nghĩa  phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành bốn tĩnh lự nghĩa phi nghĩa; ta  chẳng nên hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng  nên hành tám giải thoát nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên  hành tất cả tam ma địa môn nghịa phi nghĩa; ta chẳng nên hành không giãi  thoát môn nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành vô tướng, vô nguyện giải  thoát môn nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành năm nhãn nghĩa phi nghĩa;  ta chẳng nên hành sáu thần thông nghĩa ph nghĩa.
Ta chẳng nên  hành phật mười lực ghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành bốn vô sở úy, bốn  vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất  cộng nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành pháp vô vong thất nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí nghĩa phi nghĩa.
Ta  chẳng nên hành quả dự lưu nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành quả nhất  lai, bất hoàn, a la hán nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành độc giác bồ  đề nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành tất cả hãnh bồ tát ma ha  tát nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành chư phật vô thượng chánh đẳng bồ  đề nghĩa phi nghĩa.
Sở dĩ vì sao? Thiện hiện! Khi như lai được vô  thượng chánh đẳng bồ đề chẳng thấy có pháp năng cùng chút pháp làm  nghĩa phi nghĩa. Thiện hiện! Như lai ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp  pháp tánh, pháp trụ, pháp định, lẽ vậy thường trú, không có pháp đối  với pháp làm nghĩa phi nghĩa. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát nên  lìa nghĩa phi nghĩa, thường hành nghĩa thú bát nhã ba la mật đa thẳn  sâu.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Cớ sao bát nhã ba la mật đa chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa?
Phật  nói: thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu đối pháp hữu vi và pháp  vô vi đều vô sở tác, chẳng ơn chẳng oán, không ích không tổn. Vậy nên,  bát nhã ba la mật đa chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa.
Cụ  thọ thiện hiện lai thưa phật rằng: bạch thế tôn! Các đức phật và đệ tử  phật, tất cả thánh hiền, đâu chẳng đều đem vô vi làm đệ nhất nghĩa? phật  nói: thiện hiện! Như vậy. Như người vừa nói. Phật và đệ tử, tất cả  thánh hiền đều đem pháp vô vi làm đệ nhất nghĩa. Nhưng pháp vô vi chẳng  cùng các pháp làm ích làm tổn. Thiện hiện! Ví như hư không chơn như  chẳng cùng các pháp làm ích làm tồn. Bồ tát ma ha tát, bát nhã ba la mật  đa thẳm sâu cũng lại như vậy, chẳng cùng các pháp làm ích làm tổn. Vậy  nên, bát nhã ba la mật đa chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa.
Cụ  thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát đâu chẳng  cần học bát nhã ba la mật đa thẳm sâu vô vi, mới năng chứng được nhất  thiết trí trí? Phật nói: thiện hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi vừa  nói. Bồ tát ma ha tát cần học bát nhã ba la mật đa thẳm sâu vô vi, mới  năng chứng được nhất thiết trí trí. Chẳng đem hai pháp mà làm phương  tiện. Bạch thế tôn! Vì đem chẳng hai pháp, được chẳng hai pháp ư? Chẳng  được. Thiện hiện! Bạch thế tôn! Vì đem hai pháp được chẳng hai pháp ư?  Chẳng được. Thiện hiện! Bạch thế tôn! Nếu không hai pháp, chẳng đem hai  pháp, chẳng hai pháp được, bồ tát ma ha tát làm sao sẽ được nhất thiết  trí trí? Phật nói: thiện hiện! Hai chẳng hai pháp đều chẳng khá được.  Vậy nên, sở đắc nhất thiết trí trí. Chứ chẳng phải hữu sở đắc nên đắc,  cũng chẳng phải vô sở đắc nên đắc. Vì pháp hữu sở đắc, pháp vô sở đắc,  chẳng khá được vậy. Nếu biết như thế mới năng chứng được nhất thiết trí  trí.
