Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng  quán bố thí ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ,  hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng  vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tịnh giới, an  nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa hoặc thường, hoặc vui  hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng  hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện!  Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán nội  không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô  ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc  xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán ngoại không, nội ngoại không,  không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không,  tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh  không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả  đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc  thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô nag4, hoặc  tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa  hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường,  hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc  vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng  chẳng quán pháp giới, phát tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,  bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không  giới, bất tư nghì giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ,  hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng  vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma  ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán khổ thánh đế  hoặc thường hoặc vô thường. Hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,  hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa  lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tập diệt đạo thánh đế hoặc thường  hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc  bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng  xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật  đa thẳm sâu, chẳng quán bốn tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui  hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng  hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán  bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc  khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc  chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ  tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán tám  giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc  vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng,  hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc  ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng  lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha  tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán bốn niệm trụ hoặc  thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoao85c  tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa  hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm  căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô  thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bát  tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa  lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa  thẳm sâu, chẳng quán không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường,  hoặc vui hoao85c khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh,  hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng  chẳng quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô  thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất  tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa  lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa  thẳm sâu, chẳng quán năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc  khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc  chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán sáu thần  thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô  ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc  xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành  bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán phật mười lực hoặc thường hoặc  vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngẵ hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất  tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa  lìa. Cũng chẳng quán bốn ô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại  hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc  vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng  lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng  quán pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ,  hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng  vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tánh hằng trụ  xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,  hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa  lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát  nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô  thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất  tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa  lìa. Cũng chẳng quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường  hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc  bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa  lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát kh hành bát nhã ba la mật đa  thẳm sâu, chẳng quán tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường,  hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc  vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng  chẳng quán tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui  hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng  hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện!  Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán quả  dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô  ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc  xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán quả nhất lai, bất hoàn, a la  hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,  hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa  lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát  nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán độc giác bồ đề hoặc thường hoặc vô  thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất  tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa  lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa  thẳm sâu, chẳng quán tất cả hạnh bồ tát ma ha tát hoặc vô ngã, hoặc tịnh  hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc  chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát kh hành bát nhã ba la  mật đa thẳm sâu, chẳng quán chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề hoặc  thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc  tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa  hoặc chẳng xa lìa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả  pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát bát nhã ba la mật đa.  Cũng năng dẫn phát tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí ba la  mật đa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế  chẳng quan sát nên mới năng an trụ nội không. Cũng năng an trụ ngoại  không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu  vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến  dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết  pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự  tánh không.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như  thế chẳng quan sát nên mới năng an trụ chơn như. Cũng năng an trụ pháp  giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, bất  hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ. Thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên  mới năng an trụ hổ thánh đế. Cũng năng an trụ tập diệt đạo thánh đế.
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên  mới năng dẫn phát bốn tĩnh lự. cũng năng dẫn phát bốn vô lượng, bốn vô  sắc định.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như  thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát tám giải thoát. Cũng năng dẫn  phát tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Thiện hiện! Bồ  tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng  dẫn phát bốn niệm trụ. Cũng năng dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc,  năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên  mới năng dẫn phát không giải thoát môn. Cũng năng dẫn phát vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất  cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát năm nhãn, cũng năng  dẫn phát sáu thần thông.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối  tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát phật mười lực.  cũng năng dẫn bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,  đại xả, mười tám pháp phật bất cộng.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát  này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát pháp  vô vong thất, cũng năng dẫn phát tánh hằng trụ xả.
Thiện hiện! Bồ  tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng  dẫn phát tất cả đà la ni môn, cũng năng dẫn phát tất cả tam ma địa môn.
Thiện  hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên  mới năng dẫn phát nhất thiết trí. Cũng năng dẫn phát đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí.
Vì cớ sao? Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát khi  hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, đối trong các pháp có sở quan sát  hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,  hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa  lìa hoặc chẳng xa lìa, thời chẳng năng tùy ý dẫn phát an trụ công đức  thù thắng.
Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành tĩnh lự ba la mật đa. Cũng là hành  tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí ba la mật đa.
Thiện hiện!  Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành  nội không. Cũng là hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại  không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô  tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,  cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh  không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Thiện hiện! Nếu bồ  tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành chơn như.  Cũng là hành pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,  bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không  giới, bất tư nghì giới. 
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành  bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành khổ thánh đế, cũng là hành  tập diệt đạo thánh đế.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát  nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành bốn tĩnh lự. cũng là hành bốn vô  lượng, bốn vô sắc định.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành  bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thớI là hành tám giải thoát. Cũng là hành  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mườI biến xứ.
Thiện hiện! Nếu bồ  tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành bốn niệm  trụ. Cũng là hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy  đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha  tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành không giải thoát  môn. Cũng là hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành năm nhãn. Cũng là hành sáu thần thông.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa th83m sâu, thời là  hành phật mười lực. cũng là hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại  từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là  hành pháp vô vong thất. Cũng là hành tánh hằng trụ xả.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là  hành tất cả đà la ni môn. Cũng là hành tất cả tam ma địa môn.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sas6u, thời  là hành nhất thiết trí. Cũng là hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng  trí.
Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tùy hành  chỗ nào có tất cả bao nhiêu ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác  thảy, điều tùy tong theo bát nhã ba la mật đa thẳm sâu. Tùy đến chỗ nào  có tất cả bao nhiêu ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác thảy  điều theo đến.
Thiện hiện! Như chuyển luân thánh vương có bốn  binh chủng dung quân, tùy luân vương kia muốn đi chỗ nào là bốn dung  quân này thảy đều tùy tong. Tùy luân vương kia đi đến chỗ nào là bốn  dung quân này thảy đều theo đến. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu cũng lại  như thế vậy, tùy có chỗ đi và có chỗ đến, có tất cả bao nhiêu ba la mật  đa và tất cả phần pháp bồ đề khác thảy đều theo dõi rốt ráo đến nơi nhất  thiết trí trí.
Thiện hiện! Như kẻ cầm cương giỏi ngồi xe tứ mã  khiến tránh đường hiểm, đi nơi chánh đạo, tùy theo ý muốn tới được chỗ  đến. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu cũng lại như vậy, giỏi cầm cương tất  cả ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác, khiến tránh đường hiểm  sanh tử niết bàn, đi nơi chánh đạo tự lợi lợi tha, đến sở cầu nhất thiết  trí trí.
Khi ấy, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! sao là đạo, sao là phi đạo của bồ tát ma ha tát?
Phật  nói thiện hiện! đạo các dị sanh chẳng phải đạo các bồ tát ma ha tát,  đạo các thanh văn chẳng phải đạo các bồ tát ma ha tát, đạo các độc giác  chẳng phải đạo các bồ tát ma ha tát. đạo tự lợi lợi tha mới là đạo các  bồ tát ma ha tát đạo nhất thiết trí trí là đạo các bồ tát ma ha tát, đạo  chẳng trụ sanh tử và niết bàn là đạo các bồ tát ma ha tát. Thiện hiện!  đây là đạo và phi đạo bồ tát ma ha tát.
Cụ thọ thiện hiện lại  thưa phật rằng: bạch thế tôn! bát nhã ba la mật đa thẳm sâu xuất hiện ra  đời năng làm đại sự, chỗ gọi chỉ hiện tướng đạo phi đạo cho các bồ tát  ma ha tát, khiến các bồ tát ma ha tát biết đây đạo, đây phi đạo, mau  năng chứng được nhất thiết trí trí?
Phật nói: thiện hiện! Như  vậy, như vậy. Như người vừa nói. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu xuất hiện  ra đời năng làm đại sự, chỗ gọi chỉ hiện tướng đạo phi đạo cho các bồ  tát ma ha tát, khiến các bồ tát ma ha tát biết đây đạo, đây phi đạo, mau  năng chứng được nhất thiết trí trí.
Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu xuất hiện ra đời năng làm đại sự, chỗ gọi độ  thoát vô lượng vô số vô biên hữu tình đều khiến đặng được lợi ích an  vui. Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy làm việc khác lợi vui  vô biên mà đối việc này không đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la  mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện sắc, mà đối việc này  không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thọ tưởng hành thức, mà  đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa  thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn xứ, mà đối việc này không có  đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, mà đối  việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện sắc xứ, mà đối việc này không có đắm  lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thanh hương vị xúc pháp xứ, mà đối  việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn giới, mà đối việc này không có  đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, mà đối  việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện sắc giới, mà đối việc này không có đắm  lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thanh hương vị xúc pháp giới, mà đối  việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn thức giới, mà đối việc này không  có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý thức  giới, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la  mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn xúc, mà đối việc này  không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý  xúc, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la  mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn xúc làm duyên sanh ra  các thọ, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ  hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, mà đối việc này  không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy  đã năng làm việc chỉ hiện địa giới, mà đối việc này không có đắm lấy.  Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thủy hỏa phong không thức giới, mà đối  việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện vô minh, mà đối việc này không có đắm  lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc,  thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, mà đối việc này  không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy  đã năng làm việc chỉ hiện bố thí ba la mật đa, mà đối việc này không có  đắm lấy. Tuy đã năng lal2m việc chỉ hiện tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,  tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nội  không, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện  ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không,  hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô  biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, công tướng không, nhất  thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô  tánh tự tánh không, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện!  Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện chơn như,  mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện pháp  giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly  sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì  giới, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la  mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện khổ thánh đế, mà đối việc  này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện tập diệt đạo thánh  đế, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la  mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn tĩnh lự, mà đối việc  này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn vô lượng, bốn vô  sắc định, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện tám giải thoát, mà  đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện tám thắng  xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn  niệm trụ, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ  hiện bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,  tám thánh đạo chi, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện hiện!  Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện không giải  thoát môn, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ  hiện vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, mà đaốei việc này không có đắm  lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm  việc chỉ hiện năm nhãn, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng  làm việc chỉ hiện sáu thần thông, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện phật  mười lực, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ  hiện bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,  mười tám pháp phật bất cộng, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện pháp  vô vong thất, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ  hiện tánh hằng trụ xả, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhất  thiết trí, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ  hiện đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, mà đối việc này không có đắm  lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm  việc chỉ hiện tất cả đà la ni môn, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy  đã năng làm việc chỉ hiện tất cả tam ma địa môn, mà đối việc này không  có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng  làm việc chỉ hiện quả dự lưu, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã  năng làm việc chỉ hiện quả nhất lai, bất hoàn, a la hán, mà đối việc này  không có đắm lấy.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện độc giác bồ đề, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện tất  cả hạnh bồ tát ma ha tát, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện chư  vô thượng chánh đẳng bồ đề, mà đối việc này không có đắm lấy.
Thiện  hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, dẫn đường bồ tát ma ha tát khiến  tới vô thượng chánh đẳng bồ đề, ở thời gian giữa quyết định chẳng quay  lui.
Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy khiến bồ tát  ma ha tát xa lìa bậc thanh văn, độc giác thảy, gần gũi vô thượng chánh  đẳng bồ đề, mà với các pháp không khởi không diệt, lấy tánh pháp trụ làm  định lượng vậy.
Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch  thế tôn! nếu bát nhã ba la mật đa thẳm sâu đối tất cả pháp không khởi  không diệt, bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu nên tu bố thí ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát  nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu tịnh giới ba la mật đa? Bồ tát ma ha  tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu an nhẫn ba la  mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu  nên tu tinh tiến ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu nên tu tĩnh lự ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm  sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu bát nhã ba la mật đa?
Phật  nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm  sâu. Nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu bố thí ba la  mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên  duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu tịnh giới ba la mật đa.  Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất  thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu an nhẫn ba la mật đa. Bồ tát ma ha  tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí  trí, vì các hữu tình mà tu tinh tiến ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi  hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các  hữu tình mà tu tĩnh lự ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã  ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà  tu bát nhã ba la mật đa.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đem căn  lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng vô thượng  chánh đẳng bồ đề. Với khi hồi hướng xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, dung  hồi hướng chi, hồi hướng chỗ nào.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát  này đem căn lành đây như vậy hồi hướng sở câu vô thượng chánh đẳng bồ  đề, thờI là tu sáu món ba la mật đa mau được ciên mãn; cũng tu bồ tát từ  bi hỷ xả mau được viên mãn. Do đây chóng được nhất thiết trí trí, cho  đến ngồi yên tòa diệu bồ đề thường chẳng xa lìa sáu món ba la mật đa như  thế.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát chẳng lìa sáu món ba la  mật đa thờI chẳng xa lìa nhất thiết trí trí. Vậy nên, thiện hiện! Nếu bồ  tát ma ha tát muốn mau chứng được sở cầu vô thượng chánh đẳng bồ đề.  Phải siêng tinh tiến tu học sáu món ba la mật đa, phải siêng tinh tiến  tu hành sáu món ba la mật đa.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát  thường siêng tinh tiến tu học, tu hành sáu món ba la mật đa như thế, tất  cả căn lành mau được viên mãn, mau chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề.  Vậy nên, thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát nên cùng sáu món ba la mật đa  thường chung tương ưng chẳng bỏ rờI nhau.
Bấy giờ, cụ thọ thiện  hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! bồ tát ma ha tát làm sao năng cùng  sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau?
Phật  nói: thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán sắc chẳng tương  ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thọ tưởng hành thức chẳng  tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng  sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng, chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn xứ chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng tương  ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món  ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán sắc xứ chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng; như thật quán thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng  tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng  sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn giới chẳng tương ứng,  chẳng phải chẳng tương ưng; như thật phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha  tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ  rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán sắc giới  chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thanh hương  vị xúc pháp giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma  ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng  bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn  thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ  tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.  Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương  ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật  quán nhãn xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán  nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ  tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng  chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật  quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tương ưng, chẳng phải  chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra  các thọ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát  năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán địa giới chẳng tương ứng.  Chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thủy hỏa phong không thức giới  chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng  cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán vô minh chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng; như thật quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc,  thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la  mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu  bồ tát ma ha tát như thật quán bố thí ba la mật đa chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,  tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương  ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung  tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như  thật quán nội không chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như  thật quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng  nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán  không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng  không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không chẳng tương ưng. Chẳng  tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường  chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha  tát như thật quán chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng;  như thật quán pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,  bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không  giới, bất tư nghì giớI chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ  tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng  chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán  khổ thánh đế chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán  tập diệt đạo thánh đế chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ  tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng  chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán  bốn tĩnh lự chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán  bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương  ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung  tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như  thật quán tám giải thoát chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng;  như thật quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng tương  ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món  ba la mật đa thường tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu  bồ tát ma ha tát như thật quán bốn niệm trụ chẳng tương ưng, chẳng phải  chẳng tương ưng; như thật quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,  năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật  đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ  tát ma ha tát như thật quán không giải thoát môn chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng; như thật quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn  chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng  cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán năm nhãn chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán sáu thần thông chẳng tương  ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món  ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán phật mười lực chẳng tương ưng  chẳng phải tương ưng; như thật quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại  từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba  la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện!  Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán pháp vô vong thất chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát  này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời  nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhất thiết  trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán đạo tướng  trí, nhất thiết tướng trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.  Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương  ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật  quán tất cả đà la ni môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng;  như thật quán tất cả tam ma địa môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng  tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường  chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha  tát như thật quán quả dự lưu chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương  ưng; như thật quán quả nhất lai, bất hoàn, a la hán chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la  mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu  bồ tát ma ha tát như thật quán độc giác bồ đề chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật  đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ  tát ma ha tát như thật quán tất cả hạnh bồ tát ma ha tát chẳng tương  ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món  ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện  hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán chư phật vô thượng chánh đẳng  bồ đề chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này  năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Lại  nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hằng khởi nghĩ này: ta chẳng nên  trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Vì cớ sao? Vì sắc phi  năng trụ, phi sở trụ; thọ tưởng hành thức cũng phi năng trụ, phi sở trụ.  Vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa  thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát  ma ha tát hằng khởi nghĩ này: ta chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên  trụ nhĩ thiệt thân ý xứ. Vì cớ sao? Vì nhãn xứ phi năng trụ, phi sở trụ;  nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng phi năng trụ, phi sở trụ. Vậy, thiện hiện!  Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương  ưng chẳng bỏ rời nhau.
Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hằng khởi  nghĩ này: ta chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh hương vị  xúc pháp xứ. Vì cớ sao? Vì sắc xứ phi năng trụ, phi sở trụ; thanh hương  vị xúc pháp xứ cũng phi năng trụ, phi sở trụ. Vậy, thiện hiện! Bồ tát ma  ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng  bỏ rời nhau.
