1. Pháp hội thánh chúng
Chánh kinh:
Tôi nghe như thế này: Một thời, Phật tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ kheo chúng một vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy đại thánh đã đạt thần thông, tên các ngài là: tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Ðại Mục Kiện Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v... làm thượng thủ. Lại có Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội.
Giải:
‘Tôi nghe như thế này’ (như thị ngã văn): các kinh đều dùng bốn chữ này để đặt ở đầu kinh là do di giáo của đức Thế Tôn.
Khi Thế Tôn sắp bát Niết Bàn, A Nan buồn rầu chẳng kìm nổi, A Nê Lâu Ðà khuyên ngài rằng: ‘Ðau buồn ích chi, trước hết phải nên hướng về Phật thưa hỏi bốn việc: Việc thứ nhất, là đầu hết thảy các kinh nên đặt chữ nào?’ Phật liền đáp rằng: ‘Nên để như thị ngã văn, Phật tại chốn mỗ, thời mỗ...’. (tức là sáu thành tựu vừa nói ở trên).
Ở đây, chữ ‘Ngã’ chỉ A Nan.
‘Như thị ngã văn’ ngụ ý pháp môn như thế ấy chính do A Nan tôi được nghe từ đấng Thích Tôn. Câu này phá được nỗi nghi ngờ của người đương thời vì lúc A Nan kết tập kinh điển, đại chúng khởi lên ba điều nghi: một là nghi Phật sống lại, hai là nghi A Nan thành Phật, ba là nghi Phật ở phương khác đến. Vì vậy, khi A Nan nói: ‘Như thị ngã văn’ các mối nghi được giải quyết hết.
Nếu nghi rằng: Phật thành đạo đã hai mươi năm A Nan mới xuất gia, lại đến mười năm sau đó, A Nan mới vâng mạng làm thị giả; như vậy, với những kinh Phật dạy trong ba mươi năm trước đó sao A Nan lại đều bảo là ‘tôi nghe’? Có ba cách giải thích: triển chuyển văn, Phật trùng thuyết, A Nan tự thông.
- Triển chuyển văn: Kinh Báo Ân nói những kinh nào A Nan không được nghe trước đó thì nghe từ các tỳ kheo khác hoặc nghe chư thiên nói.
- Phật trùng thuyết: Kinh Báo Ân nói A Nan tuân lệnh Phật làm thị giả bèn xin ba điều, điều thứ ba là những kinh chưa được nghe xin Phật giảng lại. Phật chấp nhận.
- A Nan tự thông: Kinh Kim Cang Hoa nói A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam muội nên với những kinh chưa nghe, ngài tự có thể ức trì.
a. ‘Như thị’ là Tín Thành Tựu là điều đầu tiên trong sáu thứ thành tựu.
Trí Ðộ Luận nói: ‘Biển cả Phật pháp, tin thì vào được’. Kinh Hoa Nghiêm lại dạy:‘Tín làm tay như người có tay đến chốn trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Người nếu không tay không được thứ gì’. Rõ ràng, tín là cửa đầu tiên để nhập pháp, bỏ tín thì không cách nào nhập được. Tín là điều quan trọng nhất để lãnh hội được nên có câu: ‘Vừa vào cửa Tín liền lên địa vị Tổ’.
Chữ ‘Như thị’ còn chỉ cái thể của điều được nghe, tức là Lý Thể của Thật Tướng. Xưa nay chẳng biến đổi nên nói là ‘Như’. Ðúng như lý mà nói nên bảo là Thị.
Với bản kinh này, Ngẫu Ích đại sư bảo: ‘Nương theo lý Thật Tướng niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ quyết định chẳng sai nên bảo là Thị’ .
Do diệu lý Thật Tướng chỉ là tự tánh của một niệm tâm hiện tiền: chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đi, chẳng đến, trạm nhiên, thường trụ nên nói là Như. Nương tâm tánh ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì: năng niệm là tâm Thật Tướng, sở niệm (điều được niệm) là vị Phật của Thật Tướng, cái được sanh là cõi Thật Tướng, đều do Thật Tướng Chánh Ấn in vào. Vì vậy, đại sư nói: ‘Quyết định chẳng sai là Thị’.
b. ‘Ngã văn’ là văn thành tựu. Lúc A Nan kết tập pháp tạng tự nói: ‘Như thị pháp môn, ngã tùng Phật văn’ (Pháp môn như thế tôi nghe từ đức Phật). Ngã là tự ngã, Văn là đích thân nghe, đem điều ấy bảo với đại chúng thì thật đủ để chứng tín.
Thánh nhân vô ngã sao A Nan lại tự xưng là Ngã? Vì chẳng hoại giả danh vậy!
Thật Tướng vô tướng nên chẳng giống như phàm phu có Ngã. Thật Tướng chẳng phải là bất tướng nên chẳng giống Vô Ngã của Tiểu Thừa. A Nan thuận theo thế gian giả gọi là Ngã chẳng trái nghịch Ðệ Nhất Nghĩa Ðế.
Lại nữa, như Quán Kinh Sớ nói: ‘Không Ngã thì không ai nghe, không ai nghe thì sự giáo hóa tuyệt. Vì để truyền dạy, hóa độ chẳng tuyệt, giả danh nói Ngã’.
‘Văn’ (nghe) là căn tai phát sanh nhĩ thức. Ở đây chẳng bảo là tai nghe mà lại nói là ‘ngã văn’ là do chữ Ngã bao trùm các căn. Dùng cái tổng thể thay thế cho cái riêng biệt, dùng Ngã thế cho tai nên nói Ngã Văn.
‘Như Thị’ biểu thị tín nguyện, ‘ngã văn’ biểu thị sư thừa: điều tôi được nghe đều từ kim khẩu đức Thế Tôn nói ra, truyền thừa có đầu mối, quyết định chẳng phải do người khác nói, hoặc tôi tự bịa ra, dùng đây để chứng tín.
c. ‘Nhất thời’ (một thời) là Thời Thành Tựu. Thời chẳng phải là thật pháp, dài, ngắn tùy tâm, kéo dài hay thu gọn cùng một lúc, ba a tăng kỳ trong một niệm như Sớ Sao giảng:
‘Hoặc kẻ nói đắc đà-ra-ni: trong một sát na, trong một chữ, nói hết thảy pháp môn. Hoặc kẻ nghe do đắc nhĩ căn thanh tịnh: trong một sát na, lúc nghe một chữ, với hết thảy những thứ khác đều không chướng ngại. Hoặc kẻ nói trong chốc lát, người nghe lâu dài. Hoặc kẻ nói lâu lắc, người nghe thành chốc lát. Hoặc kẻ nói dùng thần lực kéo dài hay thâu ngắn tùy nghi, căn khí của kẻ nghe lợi, độn chẳng phải chỉ một loại.
Cổ đức bảo thánh, phàm trong tam thừa thấy báo thân, hóa thân của Phật, tuổi thọ dài ngắn, thành Phật lâu, mau đều chẳng giống nhau. Nay chỉ lấy khoảng thời gian Phật cùng đệ tử, thầy trò cơ cảm tương ngộ, nói, nghe xong xuôi thì gọi là Một Thời’.
Hơn nữa, kinh Phật Ðịa Luận dạy: ‘Nói nghe xong xuôi gọi chung là Một Thời’.
Bởi vậy, trong kinh chẳng nói là năm đó, tháng đó, chỉ căn cứ lúc thầy, trò căn cơ tương ứng hòa hợp, nói, nghe hoàn tất thì gọi là ‘một thời’. Hơn nữa, trong kinh chẳng nêu năm tháng vì lịch pháp mỗi nơi chẳng giống nhau.
Thêm nữa, cách phân chia thời gian trên thế giới chẳng giống nhau: Một ngày đêm trên trời Tứ Thiên bằng với năm mươi năm dưới trần.
Vả lại, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng thời gian mặt trời đi trọn một vòng quanh trung tâm hệ Ngân Hà (tức là một năm thái dương) tương đương với thời gian hai vạn vạn năm trên địa cầu. Tốc độ chuyển động của vật thể càng gần với vận tốc ánh sáng thì thời gian cũng tùy theo vận tốc chuyển động của vật thể mà biến đổi chẳng có số lượng nhất định. Vì thế, trong kinh chỉ nói ‘một thời’ là hết sức thực tế vậy.
d. ‘Phật’ là Chủ Thành Tựu. Phật là tông chủ của hết thảy chúng sanh nên gọi là Chủ. Hơn nữa, trong sáu thành tựu, Chủ Thành Tựu đóng vai trò trọng yếu nhất.
Phật, tiếng Phạn là Phật Ðà, nay chỉ nói Phật là nói gọn. Phật Ðà dịch sang tiếng Hán là Giác Giả. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên dung.
Tự giác là khác với phàm phu bất giác.
Giác tha là khác với Nhị Thừa chỉ giác ngộ riêng mình.
Giác mãn là khác với Bồ Tát còn đang tu nhân. Ba giác cùng viên mãn, là bậc tôn quý nhất trong thánh chúng nên xưng là Phật.
Lại còn dịch là Trí giả, trí chính là nghĩa của chữ Giác. Trí không gì chẳng biết nên nói: đắc nhất thiết chủng trí, đó là nghĩa của chữ ‘giác mãn’. Trong kinh này, chữ Phật ở đây chỉ cho đấng đại ân từ phụ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
e. ‘Tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật’ là Xứ Thành Tựu.
Về thành Vương Xá, từ xưa cho rằng có hai thành: một là Thượng Mao Thành (hoặc là Thượng Ðệ thành, cựu thành), hai là Hàn Lâm Thành (tân thành), hai thuyết bất nhất. Theo Trí Ðộ Luận:
‘Sau khi Phật niết-bàn, vua A Xà Thế do thấy nhân dân ít đi bèn bỏ đại thành Vương Xá, dựng tiểu thành ở gần đó’.
Sách Bình Giải giảng: ‘Thành Vương Xá vốn là thành cũ Thượng Ðệ. Lại dựng thành nhỏ là thành Hàn Lâm. Ðấy là thành vua A Xà Thế đắp sau khi Phật diệt độ, Phật nào có trụ nơi thành mới? Rõ ràng chỗ Phật từng ở là Thượng Ðệ thành’.
Lời này chứng minh được rằng Phật nói kinh này tại cựu thành. Sách Từ Ân Truyện chép:
‘Vương Xá cựu thành ở nước Ma Yết Ðà, xưa kia nhiều vị quân vương sống trong ấy. Nơi thành ấy lại có mọc nhiều cỏ tranh thơm (hương mao) đẹp đẽ nên gọi tên như vậy’.
Lại nữa, sách Vọng Tây Sớ của Nhật viết: ‘Nếu theo ý tông gia, ta nên gọi [thành Vương Xá] là Thượng Mao’ (tông gia: chỉ ngài Thiện Ðạo đại sư), ý nói: thành Vương Xá nói trong kinh đó chính là cựu thành Thượng Mao. Thuyết này đáng tin nên chẳng nêu các thuyết khác.
Pháp Hoa Luận viết: ‘Như thành Vương Xá vượt xa hết thảy các thành khác, ngụ ý pháp môn này là tối thắng’:
Xứ Ngũ Thiên Trúc có mười sáu thành lớn, thành Vương Xá lớn nhất, cho nên Phật trụ ở thành này nói kinh là để hiển thị sự tối thắng của kinh này.
Lại nữa, sách Ðại Bảo Tích Kinh Luận ghi:
‘Hỏi: Vì sao pháp này chỉ nói ở thành Vương Xá mà không nói ở các thành quách khác?
Ðáp: Do bởi pháp môn này là trụ xứ của pháp vương. Ví như thành Vương Xá là chỗ cư ngụ của vua nên gọi là Vương Xá. Pháp môn này cũng giống thế, là chỗ cư ngụ của pháp vương. Ðể biểu thị nghĩa này nên nói là trụ thành Vương Xá’.
Núi Kỳ Xà Quật là một trong năm hòn núi ngoài thành Vương Xá. Tịnh Ảnh Sớ viết:
‘Núi Kỳ Xà, Tàu dịch là núi Linh Thứu. Núi này có nhiều bậc linh tiên cư trụ nên gọi là Linh. Cũng do có chim Thứu sống trong núi này nên gọi là Thứu’ và: ‘Ðảnh núi này hình giống đầu chim Thứu nên cũng gọi là Thứu Ðầu sơn’.
Sách Tây Vực Ký nói về núi này như sau: ‘Mặt Nam của phía Bắc núi đột nhiên cao vót lên như chim Thứu đậu, cũng giống như cái đài cao. Sắc núi biếc in lên không trung đậm nhạt rõ nét. Như Lai ngự trong đời năm mươi năm thường ở núi này thuyết nhiều diệu pháp’.
Trí Ðộ Luận giảng:
‘Núi Kỳ Xà Quật hơn hết trong năm ngọn núi vì:
* Tinh xá trong núi này gần thành nhưng khó lên được. Vì gần thành nên đi khất thực không vất vả, khó lên nên hạng người tạp nhạp chẳng tới. Vì vậy, ngự ở núi này chẳng trụ nơi chỗ khác.
* Núi Kỳ Xà Quật này là chốn phước đức xa xưa, là chỗ thánh nhân thích ở. Phật là chúa các thánh nên hay ngự ở đây.
* Núi Kỳ Xà là trụ xứ của tam thế chư Phật.
* Trong núi này thanh tịnh, là nơi có phước đức, vắng vẻ, thanh tịnh, là hành xứ của hết thảy chư Phật, là nơi được thập phương Bồ Tát cung kính, khen ngợi, tám bộ đại lực chúng thần thủ hộ cung kính, cúng dường. Các kinh Ðại thừa phần nhiều được nói tại núi này.
* Trong núi, mười phương vô lượng đại lực Bồ Tát vô lượng trí huệ, phước đức thường đến gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, lễ bái, cung kính nghe pháp. Các kinh Ðại thừa phần nhiều giảng tại núi này’.
Sách Pháp Hoa Luận viết: ‘Núi Kỳ Xà Quật trỗi hơn các núi khác, Phật thường ngự ở đây thuyết pháp nhằm hiển thị pháp này là tối thắng’. Vì lẽ đó, kinh này được nói tại núi này.
f. ‘Với các đại tỳ kheo chúng một vạn hai người câu hội’: Phẩm này chỉ nêu tỳ kheo chúng và Bồ Tát chúng. Cuối phẩm thứ ba sẽ nêu đủ các ba chúng đệ tử và các thiên chúng:
‘Lại có tỳ kheo ni năm trăm người, thanh tín sĩ bảy ngàn người, thanh tín nữ năm trăm người. Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên Phạm chúng cùng nhóm trong đại hội’.
Cuối kinh cũng chép: ‘Chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, hết thảy đại chúng, nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ lớn, tin nhận, vâng làm’ cho thấy lúc Phật thuyết kinh, trong hội có các đại Bồ Tát, Thanh Văn, tỳ kheo, tỳ kheo ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, cho đến chư thiên Phạm chúng, thiên long bát bộ đều đến nghe pháp. Ðây chính là Chúng Thành Tựu trong sáu thành tựu.
Trong hội có Bồ Tát, Thanh Văn, các hạng trời, nguời và tứ chúng đệ tử cõi này: một vạn hai ngàn người cùng nghe, chẳng phải chỉ mình A Nan được nghe, điều ấy đủ để chứng tín vậy.
Câu ‘Với các đại tỳ kheo’ biểu thị Phật cùng đại chúng cùng ở trong hội.
‘Tỳ kheo’ là tiếng Phạn, danh từ này có đến ba nghĩa nên chẳng phiên dịch. Ba nghĩa là:
- Khất sĩ: tức là khất thực, khất pháp. Khất thực là đã xuất gia rồi thì xin ăn để nuôi thân, chẳng làm ăn, không tích chứa, bỏ hết vạn duyên, một dạ thanh tu, nên nói: Xin ăn để nuôi thân. Khất pháp là tìm thầy hỏi đạo, nằm sương dãi gió, tìm cầu Phật pháp mong thành thánh quả, nên bảo: khất pháp để dưỡng tâm.
- Phá ác: chánh huệ quán sát phá phiền não ác, hết kiến tư hoặc, siêu xuất tam giới.
- Bố ma (làm ma sợ hãi): Như kinh Niết Bàn nói: ‘Tánh ma cấu tệ (theo Trung Hoa Ðại Tự Ðiển, chữ Cấu có tám nghĩa, một nghĩa trong ấy là Ác), kỵ người hơn mình. Thấy ai hơn mình lòng sanh kinh hãi. Lại sợ người ấy giáo hóa nhiều chúng sanh cùng thoát khỏi sanh tử khiến cảnh giới ma trống rỗng nên sanh lòng sợ hãi’.
Nếu người xuất gia thọ giới, Yết Ma thành tựu thì được không hành dạ xoa và thiên hành dạ xoa lan truyền nhau khen ngợi. Tiếng đồn lên đến tầng trời thứ sáu của Dục giới, ma nghe thấy sanh tâm hoảng sợ.
‘Ðại’ tiếng Phạn là Ma ha, có ba nghĩa là đại, đa, thắng.
* Ðại là như A Di Ðà Sớ Sao giảng: ‘Thiên vương, đại nhân cùng kính ngưỡng, do đức chẳng nhỏ nên gọi là Ðại’. Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Ðức cao quý mênh mông hơn hẳn kẻ cận học khác nên gọi là Ðại’.
* Ða là nội điển, ngoại tịch không sách vở nào chẳng thông suốt rộng rãi, chẳng phải là kẻ hiểu biết ít ỏi, nên gọi là Ða.
* Thắng là vượt hơn những kẻ học khác, vượt lên trên cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo.
Ngoài ra, Phật Ðịa Luận còn nêu ba nghĩa khác: Một là lợi căn tột bực, là chủng tánh ba la mật. Hai là đắc quả vị vô học. Ba là đắc tiểu quả rồi, tiến lên đại Bồ Ðề. Do ba nghĩa trên đây nên gọi là Ðại.
Ngài Gia Tường lại bảo: Ðại có ba nghĩa, một là sanh sự hiểu biết lớn lao, hai là phá ác lớn, ba là chứng đại quả.
Do những điều trên, ta thấy đại tỳ kheo là bậc tỳ kheo đức cao trọng vọng, từ Tiểu thừa hướng đến Ðại thừa, là bậc tôn túc trong các tỳ kheo.
‘Một vạn hai ngàn người câu hội’ là nói về số lượng các vị tỳ kheo. Bộ Hội Sớ của Nhật viết:
‘Các kinh thường nêu một ngàn hai trăm năm mươi người. Kinh này và kinh Pháp Hoa lại nói một vạn hai ngàn người. Ðó là do bổn hoài xuất thế, là pháp hội thù thắng cả một đời nên thập phương đại đức đều như mây nhóm đến’.
Thuyết trên rất đúng, hội chúng đông đảo biểu thị Thế Tôn thuyết pháp thù thắng. Chữ ‘câu’ lại có nghĩa là cùng nhóm đến.
Câu ‘Hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’ khen ngợi đức của các đại tỳ kheo. ‘Hết thảy’ là tiếng để bao gồm tất cả sự vật, ‘hết thảy’ còn có nghĩa là khắp cả. ‘Hết thảy đại thánh’ là lời khen ngợi. Gia Tường sớ giảng: ‘Tâm dạo nơi không lý; ẩn, hiển khó lường nên gọi là thánh nhân’.
Hội Sớ viết: ‘Từ Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh. Ðã cùng tột quả Ðại A La Hán thì gọi là Ðại Thánh. Cũng có thể hiểu là ngoài hiện làm Thanh Văn, trong ẩn giấu hạnh Bồ Tát nên gọi là Ðại Thánh’.
Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Ðại có hai nghĩa: một là địa vị cao lớn, hai là đức thù thắng, nên gọi là Ðại. Hiểu biết đúng đắn gọi là Thánh’.
Từ những điều trên, ta thấy: nếu từ đức mà nói thì khế hợp Không lý, hiểu đúng chánh đạo gọi là Thánh. Hoặc từ địa vị mà nói: từ Sơ Quả trở lên gọi là Thánh, nhưng phải hồi Tiểu hướng Ðại, hành Bồ Tát đạo, hướng thẳng đến Phật quả (mới gọi là tột cùng quả Ðại A La Hán), hoặc là bậc đại quyền thị hiện mới gọi là Thánh.
Ngài Tịnh Ảnh lại nói: ‘Thần thông’ đã đạt: khen ngợi đức của họ thù thắng. Việc làm thần dị nên gọi là Thần. Không bị úng trệ là Thông, tức là thân thông (thần túc thông), thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm và lậu tận. Vì vậy, Thần nghĩa là chẳng lường được, Thông nghĩa là vô ngại’.
Về chữ ‘đạt’, ngài Gia Tường giảng: ‘Ðạt là chứng, chính là chứng sáu thông, tam minh.’
Ðương thời, ngài A Nan tuy chưa đắc Lậu Tận, nhưng do là đương cơ nên cũng kể trong số các vị này. Ngài Tịnh Ảnh lại giải thích rằng:
‘A Nan lợi căn tăng thượng tuy còn ở địa vị Hữu Học (chưa được quả vị vô học) mà thành được vô thượng công đức thắng diệu nên gọi là Ðại Thánh. Ðã hiểu biết trọn vẹn thần thông nên cũng gọi là đã đạt’. Do vậy, ngài A Nan cũng được nêu tên trong ‘hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’.
‘Tên các ngài là: tôn giả Kiều Trần Như’: Tôn Giả, tiếng Phạn là A Lê Gia (Arya), dịch là thánh giả, tôn giả, tức là bậc trí đức đầy đủ đáng tôn trọng, cũng là tiếng tôn xưng A La Hán. Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Có đức đáng tôn trọng nên gọi là Tôn Giả’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Tôn là tôn quý, có đức đáng quý nên gọi là Tôn Giả’.
Kiều Trần Như: tên gọi đủ trong tiếng Phạn là A Nhã Kiều Trần Như. A Nhã là tên, Kiều Trần Như là họ, dịch sang tiếng Hán là Liễu Bổn Tế, Tri Bổn Tế hoặc là Dĩ Tri (đã biết), Vô Tri (Vô Tri không có nghĩa là không biết gì mà có nghĩa là biết được cái không).
Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘A là không, Nhã là trí. Chứng Vô Thành Trí nên gọi là Vô Trí. Vô là bổn tánh của hết thảy các pháp nên gọi là Bổn Tế. Hiểu biết rõ ràng bổn tế ấy nên gọi là Liễu Bổn Tế’.
Lúc đức Thế Tôn chuyển pháp luân lần thứ nhất độ năm tỳ kheo, ngài Kiều Trần Như ngộ đạo đầu tiên.
Sách Pháp Hoa Văn Cú chép: ‘Ngài là đệ tử thứ nhất trong giáo pháp của Phật Thích Ca’.
Trong phẩm Ðệ Tử kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật gọi ngài là ‘Tỳ kheo bậc nhất trong hàng Thanh Văn của ta: khoan dung, nhân từ, hiểu rộng, có khả năng khuyến hóa khéo léo, dạy dỗ thánh chúng, chẳng mất oai nghi’.
Kinh này trước hết nêu tôn danh của ngài nhằm biểu thị: người có thể nghe nhận kinh pháp này đều là đệ tử bậc nhất. Phẩm ‘Chẳng phải là Tiểu thừa’ của kinh này chép:
‘Ðược nghe danh hiệu A Di Ðà Phật rồi có thể trong một niệm sanh lòng hoan hỷ, quy y chiêm lễ, đúng lời dạy tu hành… nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu thừa, đáng gọi là đệ tử bậc nhất trong pháp của ta’.
‘Tôn giả Xá Lợi Phất’: chữ Xá Lợi trong tiếng Phạn là chim Thu Lộ, Phất là con. Do vậy, tên ngài dịch là Thu Tử. Tên ngài đặt theo mẹ, mẹ ngài thân hình đoan chánh, mắt trong như mắt chim Thu Lộ nên đặt tên ngài là Thu Tử, nghĩa là con của bà Thu Lộ. Ngài còn có tên là Châu Tử, cũng là do mắt mẹ ngài trong như ngọc. Ngài còn được gọi là Thân Tử vì mẹ ngài thân hình đoan chánh.
Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất trong các Thanh Văn đệ tử Phật. Lúc còn trong thai, ngài đã khiến cho mẹ nói năng hùng hồn hơn cả ông cậu Câu Hy La (ông này sau cũng chứng A La Hán). Tám tuổi đã lên tòa giảng, mười sáu tuổi đi các nước nghị luận vô song, trong vòng bảy ngày hiểu trọn Phật pháp.
Kinh này nói đến pháp hết thảy thế gian khó tin được, chỉ có bậc đại trí mới có thể tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ. Vì vậy, tên ngài được kể ở đầu kinh ngay sau ngài Kiều Trần Như.
‘Tôn giả Mục Kiện Liên’ chính là ngài Ma Ha Mục Kiện Liên trong kinh A Di Ðà. Ma Ha nghĩa là lớn, Mục Kiện Liên là họ, dịch là Tán Tụng hay Thái Thúc hoặc Lai Phục Căn. Dòng họ này nhiều người xuất gia nên trước tên của tôn giả thêm chữ Ðại thành Ðại Thái Thúc (Ðại Mục Kiện Liên) để phân biệt. Tên ngài là Câu Luật Ðà. Cha tên Tướng Quốc, cầu con từ thần cây Câu Luật Ðà sanh được ngài nên đặt tên như thế. Trong các đệ tử Phật, ngài thần thông đệ nhất.
Trí Ðộ Luận viết: ‘Như Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất, Mục Kiện Liên thần túc đệ nhất’, ‘Xá Lợi Phất là đệ tử bên phải Phật, Mục Kiện Liên là đệ tử bên trái’.
Tôn giả thần thông rất rộng, chẳng hạn như: đem toàn bộ người họ Thích trong một thành bay lên trời Phạm thiên. Ngoại đạo dời núi, ngài chế ngự khiến núi chẳng lay động, hàng phục rồng độc v.v... những sự như vậy khó lòng thuật đủ.
‘Tôn giả Ca Diếp’: Ca Diếp là họ, Tàu dịch là Quy hoặc Ẩm Quang. Ngài tên Tất Ba La, cũng là tên một loài cây. Do cha mẹ cầu đảo nơi thần cây ấy sanh ra ngài nên lấy tên cây đặt tên. Tôn giả là con nhà trưởng giả đại phú, bỏ cả gia tài lớn lao, tu đại hạnh đầu đà, được mọi người biết đến nên gọi là Ðại Ca Diếp để phân biệt với ba vị Ca Diếp đồng thời: Thập Lực Ca Diếp, Ðồng Tử Ca Diếp, Ðồng Nữ Ca Diếp.
Ca Diếp còn dịch là Quy. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: ‘Ðời xưa học đạo, rùa thiêng đội bản đồ tiên ứng hiện. Tên dòng họ được đặt theo đức nên gọi là họ Quy’.
Ca Diếp còn dịch là Ẩm Quang vì thời Phật Tỳ Bà Thi, ngài làm thợ luyện kim cùng một cô gái nghèo dùng vàng ròng trang hoàng tượng Phật. Từ đấy trở đi, trong chín mươi mốt kiếp, thân như vàng ròng, quang sắc chói lòa che lấp các sắc khác nên gọi là Ẩm Quang (Ẩm nghĩa là nuốt mất, ánh sáng của ngài “nuốt” mất các sắc khác).
Tôn giả hành đầu đà bậc nhất. Ðầu Ðà là tiếng Phạn, Tàu phiên âm là Ðẩu Thấu hoặc Ðào Thải vì mười hai hạnh ấy đào thải trần lao phiền não.
Mười hai hạnh là: Ở chốn a lan nhã (chốn vắng lặng), thường hành khất thực; khất thực theo thứ tự; ngày chỉ ăn một bữa; ăn có chừng mực; sau giờ ngọ chẳng uống các thứ tương (11); mặc y phấn tảo; chỉ có ba y; ngồi nơi mồ mả; ngủ dưới gốc cây; ngồi nơi đất trống; chỉ ngồi không nằm. Dùng các khổ hạnh ấy tảo trừ thân tâm.
Ca Diếp tuổi già chẳng bỏ hạnh đầu đà. Phật thương ngài suy yếu khuyên hãy thôi nghỉ, Ca Diếp vẫn giữ hạnh đầu đà như cũ, Phật khen ngợi nồng nhiệt rằng: ‘Có hạnh đầu đà, pháp của ta trường tồn lâu dài’. Do vậy bảo ngài hành đầu đà bậc nhất.
Nói sơ lược, Ðại Ca Diếp là sơ tổ truyền tâm ấn Phật của Thiền tông. Quyển thứ ba kinh Ðại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi chép:
‘Ðại Phạm đến Linh sơn đem hoa kim sắc ưu bát la cúng Phật, trải thân làm tòa, thỉnh Phật vì chúng sanh thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa, giơ cành hoa cho chúng xem. Trăm vạn trời người thảy đều ngơ ngẩn, chỉ có Kim Sắc đầu đà hé miệng mỉm cười, Thế Tôn nói:
- Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca Diếp”.
Ðây chính là công án ‘Thế Tôn niêm hoa’.
Thế Tôn truyền tâm ấn cho Ca Diếp làm sơ tổ Thiền tông. Ca Diếp lại truyền cho A Nan làm nhị tổ. Nay nêu tên ngài Ðại Ca Diếp ở đầu kinh chính là để biểu thị thâm ý Thiền, Tịnh bất nhị.
‘Tôn giả A Nan v.v...’: Bản Ðường, Tống dịch là A Nan Ðà, gọi tắt là A Nan, Hán dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ, còn dịch là Vô Nhiễm. Ngài là con của Bạch Phạn Vương, em họ của Phật, sanh trong ngày Phật thành đạo. Tịnh Phạn Vương nghe tin thái tử thành Phật, lại nghe trong cung sanh con trai càng thêm hoan hỷ, bèn phán: ‘Hôm nay đại cát, là ngày hoan hỷ’, bảo với sứ giả: ‘Ðứa trẻ ấy nên đặt tên là A Nan’.
Hơn nữa, tôn giả đoan chánh thanh tịnh như tấm gương trong vắt. Trông thấy hình dạng ngài, nghe tiếng ngài, xem uy nghi của ngài, không ai chẳng hoan hỷ, nên đặt tên như vậy.
Ngoài ra, tôn giả theo Phật vào long cung, thiên cung, tâm không ham đắm. Phật đã năm mươi lăm tuổi, A Nan mới xuất gia, hầu Phật hai mươi lăm năm, pháp Phật tuyên thuyết ngài đều nhớ giữ, chẳng quên một chữ. Kinh Niết Bàn gọi A Nan là bậc đa văn. Ca Diếp cũng khen rằng: ‘Nước biển cả Phật pháp chảy vào tâm A Nan’ nên gọi ngài là đa văn bậc nhất.
Chữ ‘đẳng’ (vân vân...), bản Ngụy dịch kể tên ba mươi mốt vị, còn hội bản chỉ nêu trên năm vị thượng thủ nên viết là ‘A Nan v.v...’ để chỉ chung các vị còn lại.
‘Làm thượng thủ’: Hiện tại gọi thủ tọa là Thượng Thủ. Ðịa vị cao hơn hết trong đại chúng gọi là Thượng Thủ.
Số lượng các vị Thượng Thủ trong các kinh chẳng đồng, chẳng hạn như trong kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ, trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đại bí sô, nêu tên bốn vị Xá Lợi Phất, Mục Kiện Liên, Ðại Ca Diếp, A Nê Luật Ðà là Thượng Thủ. Kinh này thì năm vị như Kiều Trần Như v.v... làm Thượng Thủ. Họ là Thượng Thủ trong các đại tôn giả ‘hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’.
Xét ra, câu ‘hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’ vốn là câu khen ngợi đức hạnh của Bồ Tát như kinh Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ chép: ‘Cùng chúng: bốn vạn hai ngàn đại tỳ kheo, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’.
Kinh đây dùng lời khen ngợi Bồ Tát để ca tụng Thanh Văn là ngụ ý các vị thánh chúng thường theo hầu Phật vốn là Pháp Thân Ðại Sĩ, ẩn bổn thùy tích, hoặc là thánh chúng phương khác giúp Phật hoằng hóa: đóng vai trò những người gây ảnh hưởng.
Câu ‘Hết thảy đại thánh’ chỉ bổn địa của họ: vốn là bậc Bồ Ðề rốt ráo. ‘Thần thông đã đạt’ là quyền tích: dùng du hý thần thông đến cõi này. Do vậy, biết được rằng các hàng Thanh Văn vừa được nêu trên đều là bậc đại quyền thị hiện hỗ trợ đức Thế Tôn ta khai hiển pháp môn Tịnh Ðộ.
Xét chung, năm vị thánh nói trên:
Liễu Bổn Tế biết rõ bổn tế lâu xa nên được nêu tên đầu tiên.
Thân Tử trí huệ bậc nhất biểu thị Phật trí, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể nói, trí Ðại thừa rộng lớn, trí không gì bằng, không chi sánh, tối thượng thắng trí, sâu rộng không bờ bến của Phật Di Ðà.
Mục Kiện Liên thần thông đệ nhất, hiển thị thệ nguyện du hý thần thông.
Ðại Ẩm Quang hiển thị quang minh thù thắng của Phật Di Ðà không gì chẳng chiếu tỏ, là tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các đức Phật.
Khánh Hỷ biểu thị: nghe tên hoan hỷ đều được độ thoát.
Hơn nữa, Ca Diếp là sơ tổ của Tông môn, A Nan là nhị tổ, A Nhã Kiều Trần Như biểu thị bổn tế của đương nhân, Xá Lợi Phất biểu thị trí huệ vốn sẵn có của chúng sanh; Mục Kiện Liên chính là thần thông chúng sanh sẵn có; Ẩm Quang là linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần; Hoan Hỷ biểu thị sự vui sướng bình sinh, tâm tâm tiếp nối.
Vì vậy, một bộ Ðại kinh đúng là phó pháp truyền tâm; một câu danh hiệu phơi bày trực tiếp Như Lai diện mục. Lãnh hội được điều này mới đáng xưng là “hổ mọc thêm sừng”. Chỉ cần hăm hở mà niệm thời là vô thượng thâm thiền. Chẳng nệ định trì, tán niệm, quyết định chẳng phí uổng công lao.
Kinh này trước nêu Thanh Văn, sau kể Bồ Tát, thật đúng như cuốn mười hai của Phật Ðịa Luận viết:
‘Trước nói Thanh Văn, sau nêu Bồ Tát. Chúng Thanh Văn gần gũi Thế Tôn vì được Phật đích thân giáo hóa. Hơn nữa, các Thanh Văn thường theo đức Phật nên hình tướng giống với đức Phật’.
Vì vậy, phần nhiều các kinh thường nêu Thanh Văn rồi mới nói đến Bồ Tát.
‘Lại có Phổ Hiền Bồ Tát’: Bồ Tát là chữ Phạn nói tắt, nói đủ là ‘Ma-ha Bồ-Ðề Chất-đế-tát-đỏa’. Ma ha dịch là Ðại, ‘Bồ Ðề’ là Ðạo, ‘chất-đế’ là Tâm, ‘tát đỏa’ dịch là chúng sanh hoặc hữu tình. Gộp lại là ‘đại đạo tâm chúng sanh’, nói gọn là Bồ Ðề Tát Ðỏa, nghĩa là Giác Hữu Tình.
Chứng ngộ giống như Phật là Giác. Chưa hết vô minh nên gọi là Hữu Tình. Giác lại có nghĩa là Phật đạo mình đang mong cầu, hữu tình là chúng sanh mình đang hóa độ. Việc lợi sanh gấp rút, rộng độ chúng sanh cùng chứng Ðại Giác nên gọi là Giác Hữu Tình. Hai chữ Bồ Tát là cách nói giản lược nhất.
Vì sao là Ðại Ðạo Tâm Chúng Sanh? Vì đủ cả bốn điều lớn lao. Tịnh Ảnh Sớ giảng bốn điều lớn lao là:
‘Một là nguyện đại: vì cầu đại Bồ Ðề. Hai là hạnh đại: vì thành tựu hai lợi (lợi mình, lợi người). Ba là thời đại: vì trải qua ba vô số kiếp. Bốn là đức đại: vì đầy đủ các công đức Nhất Thừa’.
Bồ Tát cũng bao gồm lục đại của kinh Pháp Hoa: tín đại pháp, giải đại nghĩa, phát đại tâm, hướng đến đại quả, tu đại hạnh, chứng đại đạo. Do đầy đủ các thứ ‘đại’ nói trên nên gọi là Ðại Ðạo Tâm Chúng Sanh.
Phổ Hiền còn gọi là Biến Cát. Thanh Lương Sớ nói Phổ Hiền có ba loại: một là Vị Tiền (chỉ phát tâm Phổ Hiền), hai là Vị Trung (Ðẳng Giác Bồ Tát), ba là vị hậu Phổ Hiền (đắc quả nhưng chẳng xả nhân hạnh, tức là đã thành Phật nhưng chẳng bỏ hạnh khi còn tu nhân).
Thanh Lương Sớ giải thích chữ Phổ Hiền như sau: ‘Quả không gì chẳng cùng tận là Phổ, chẳng xả nhân địa là Hiền’. Ðấy chính là vị hậu Phổ Hiền do Như Lai hóa hiện.
Còn như sách Hội Sớ giảng: ‘Thể trọn khắp pháp giới là Phổ, địa vị gần với bậc cực thánh là Hiền’ thì đấy là vị trung Phổ Hiền, là Ðẳng Giác Bồ Tát.
Sách Hội Sớ lại nói: ‘Có thể dẫn dắt, chế ngự hết thảy chúng, phát mười đại nguyện vương, nguyện vãng sanh Tây phương, đặc biệt khen ngợi Di Ðà nên trong kinh này, ngài là thượng thủ’.
Lại như sách Thám Huyền Ký viết: ‘Ðức bao trùm pháp giới là Phổ, thánh thiện, nhu hòa đến cùng cực là Hiền’.
Quyển một của Ðại Nhật Kinh Sớ ghi: ‘Phổ Hiền Bồ Tát: Phổ là khắp hết thảy các chỗ, Hiền nghĩa là sự lành mầu nhiệm nhất; tức là nguyện hạnh do tâm Bồ Ðề khởi lên và thân, miệng, ý thảy đều bình đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ đều thuần nhất diệu thiện, đầy đủ các đức. Vì vậy, lấy đó làm tên’.
Phổ Hiền, Văn Thù là hai vị hiếp sĩ (12), hầu hai bên Phật Thích Ca, là Thượng Thủ trong hội của đức Thích Ca. Trong hội Hoa Nghiêm, họ cũng là Thượng Thủ.
Phổ Hiền Bồ Tát còn là trưởng tử của hết thảy chư Phật. Tứ Thập Hoa Nghiêm Tứ Thập Tụng ghi: ‘Hết thảy Như Lai có trưởng tử, danh hiệu của ngài là Phổ Hiền’ cho thấy Phổ Hiền chính là từ Pháp Thân của Như Lai xuất hiện, hóa thành vị Ðẳng Giác Ðại Sĩ khen ngợi Thích Tôn, xướng diễn thánh giáo.
Trong Mật giáo, Phổ Hiền chính là Kim Cang Tát Ðỏa, sơ tổ của Mật giáo. Kim Cang Tát Ðỏa chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Kinh Thánh Vô Ðộng Tôn Ðại Oai Nộ Vương Bí Mật Ðà Ra Ni chép: ‘Ông Kim Cang Thủ đây là Pháp Thân Ðại Sĩ, vì vậy, tên là Phổ Hiền’.
Sách Ngũ Bí Tát Quyết của ngài Kim Cang Trí cũng ghi: ‘Kim Cang Tát Ðỏa chính là tên khác của Phổ Hiền Ðại Bồ Tát, ngài cũng được gọi là con trưởng của hết thảy Như Lai, cũng gọi là Ðại A Xà Lê’.
Phẩm thứ hai Ðức Tuân Phổ Hiền của kinh này cũng có câu ‘vì dạy Bồ Tát, làm a xà lê’.
Nay trong kinh này, Phổ Hiền Ðại Sĩ được kể tên là bậc thượng thủ cao nhất, chính là để hiển thị: Mật, Tịnh bất nhị. Vì vậy, tiên sư là Hạ lão cư sĩ nói:
‘Tịnh Ðộ chính là hiển thuyết của Mật giáo (Tổ sư Liên Hoa Sanh Ðại Sĩ của Hồng giáo Mật tông Tây Tạng chính là hóa thân của Phật A Di Ðà. Vì vậy, Hồng giáo tôn sùng A Di Ðà, sốt sắng khuyên sanh Cực Lạc hơn các tông phái khác. Trong bản giải thích kinh này, tạm chẳng bàn luận về chi tiết yếu chỉ Mật, Tịnh bất nhị).
‘Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát’ cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi, Tàu dịch là Diệu Thủ, cũng dịch là Diệu Cát Tường, còn dịch là Diệu Ðức, là thầy của chư Phật. Kinh Phóng Bát nói:
‘Nay tôi được thành Phật đều do ơn của Văn Thù Sư Lợi. Quá khứ vô ương số chư Phật đều là đệ tử của Văn Thù Sư Lợi. Các vị tương lai cũng cậy sức oai thần của ngài. Ví như trẻ nít trong đời có cha mẹ, Văn Thù là cha mẹ trong Phật đạo vậy’.
Kinh Tâm Ðịa Quán nói: ‘Mẹ giác ngộ của ba đời là Diệu Cát Tường’.
Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng chữ Diệu Ðức như sau: ‘Văn Thù, Tàu dịch là Diệu Ðức, do thấy rõ ràng Phật tánh, đức không gì chẳng viên mãn, quả không gì chẳng cùng tột, nên xưng là Diệu Ðức’.
Hội Sớ chép: ‘Chứng ba đức vi diệu như Phật nên cũng gọi là Diệu Cát Tường. Ba thứ hoặc, nghiệp, khổ nếu còn có chút phần chẳng gọi là Cát Tường. Ðịa vị đạt đến rốt ráo, ba đức hiển lộ trọn vẹn, nên lại hiệu là Diệu Cát Tường’.
Trong chúng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là bậc trí huệ bậc nhất. Ngài vốn là Long Chủng Tôn Vương Như Lai, hiện tại ở cõi Thường Hỉ phương Bắc thành Phật hiệu là Bảo Tích Như Lai. Ðời vị lai, ngài thành Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai. Như vậy, Ðại Sĩ Văn Thù thành Phật trong ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nay ngài thị hiện trong hội này làm bậc đại trí độc tôn, biểu thị pháp môn này chỉ có người đại trí mới tín nhập nổi.
Hơn nữa, Diệu Ðức là thấy rành rẽ Phật tánh nên kinh văn đặt ngài làm thượng thủ tiếp ngay theo Phổ Hiền chính là nhằm để biểu thị ý chỉ Thiền, Tịnh bất nhị.
‘Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội’: Di Lặc, Tàu dịch là Từ Thị, là họ của Bồ Tát, tên ngài là A Dật Ða, Tàu dịch Vô Năng Thắng. Nói đầy đủ là Từ Vô Năng Thắng. Sách Di Ðà Sớ Sao viết:
‘Do khi ngài còn trong thai, mẹ liền có tâm từ, nên lấy đó làm họ. Lại trong đời quá khứ, gặp Ðại Từ Như Lai, nguyện cùng mang hiệu này liền được từ tâm tam muội. Lại nữa, xưa kia ngài làm bà la môn, hiệu là Nhất Thiết Trí, trong tám mươi năm tu tập hạnh từ. Trong thời đức Phật Phất Sa, lại cùng với Thích Ca Như Lai phát tâm Bồ Ðề thường tu tập từ định.
Kinh Tư Ích lại chép: ‘‘Chúng sanh trông thấy ngài liền đắc từ tâm tam muội’’. Kinh Bi Hoa lại chép: ‘‘Phát nguyện trong kiếp đao binh, ủng hộ chúng sanh’’ nên ngài từ bi giáng sanh trong đời, thương xót đến muôn kiếp sau, lòng từ đến cùng tột, vượt xa phàm tiểu nên không ai hơn được ngài (Vô Năng Thắng)’.
Ðại sĩ ở địa vị bổ xứ, hiện đang ở Ðâu Suất nội viện, bốn ngàn năm sau (bốn ngàn năm của trời Ðâu Suất, tương đương với năm mươi bảy ức sáu trăm vạn năm ở địa cầu) hạ sanh trong cõi này thành Phật, phước đức thù thắng, ba hội Long Hoa độ sanh vô lượng.
Kinh này lấy ba vị Ðại Sĩ trên làm thượng thủ của chúng Bồ Tát là vì ba vị Ðại Sĩ có duyên sâu xa với Tịnh Ðộ, thật khéo ảnh hưởng hải hội đại chúng cùng quy hướng Tịnh Ðộ. Trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát ở trong rừng Thệ Ða phát mười đại nguyện vương, rồi nói:
‘Kẻ ấy lúc mạng chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn đều tán hoại, hết thảy thân thuộc đều xa lìa, hết thảy oai thế đều thối thất. Phụ tướng, đại thần, cung điện, trong, ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng quý báu, hết thảy các thứ như vậy đều chẳng theo mình nữa, chỉ có nguyện vương này chẳng rời bỏ, trong hết thảy thời nó dẫn đường trước mặt, trong một sát na liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới. Ðến nơi rồi, liền thấy A Di Ðà Phật’.
Lại nói kệ rằng: ‘Nguyện tôi vào lúc mạng sắp dứt, trừ sạch hết thảy các chướng ngại. Tận mặt thấy Phật A Di Ðà, liền được vãng sanh cõi An Lạc. Tôi đã vãng sanh cõi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này, viên mãn hết thảy chẳng còn sót, lợi lạc hết thảy chúng sanh giới’.
Lại nữa, trong kinh Văn Thù Phát Nguyện có câu: ‘Nguyện tôi lúc mạng chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp mặt A Di Ðà, vãng sanh cõi An Lạc. Sanh cõi Phật ấy rồi, thành mãn các đại nguyện, A Di Ðà Như Lai hiện tiền thọ ký cho’.
Hai vị Ðại Sĩ phát nguyện cầu sanh Cực Lạc thù thắng như thế ấy nhằm khuyên nhủ hết thảy Bồ Tát đều tin kính đại trí của Văn Thù, nhập đại hạnh của Phổ Hiền, dẫn dắt khắp các chúng sanh cùng quy Cực Lạc. Vì vậy, kinh này nêu các ngài làm thượng thủ. Tiếp đó, nêu tên Bồ Tát Di Lặc.
Kinh Ðại Bảo Tích, pháp hội Phát Thắng Chí Lạc Hội, có chép:
‘Nếu có chúng sanh phát mười tâm, với mỗi mỗi tâm chuyên niệm hướng về A Di Ðà Phật, người ấy mạng chung sẽ được vãng sanh thế giới của đức Phật ấy. Bạch Thế Tôn! Những gì là mười thứ tâm, do những tâm ấy sẽ được vãng sanh thế giới của đức Phật ấy?’ đủ thấy Di Lặc Ðại Sĩ phụ trợ đức Thích Ca hoằng truyền diệu pháp Tịnh Ðộ.
Hơn nữa, trong phẩm thứ ba mươi hai ở phần sau kinh này, ngài Di Lặc là đương cơ. Trong phẩm bốn mươi sáu, Phật phó chúc Ðại Sĩ Di Lặc như sau:
‘Ta nay theo đúng lý tuyên thuyết pháp môn rộng lớn vi diệu được hết thảy chư Phật khen ngợi như thế, giao phó các ông thực hiện sự thủ hộ rộng lớn để pháp này được tồn tại lâu dài chẳng diệt’.
Di Lặc tuân lãnh lời Phật phó chúc, hoằng trì kinh này. Vì vậy Ðại Sĩ chẳng chỉ trong hội Long Hoa đời tương lai quyết nói kinh này mà còn suốt tột cùng đời vị lai cũng sẽ thường nói kinh này chẳng dứt.
‘Hiền kiếp’: Trụ kiếp hiện tại tên là Hiền Kiếp. Trong đại kiếp này có ngàn đức Phật xuất thế, vì vậy tên là Hiền kiếp. Quyển năm kinh Bi Hoa chép: ‘Thế giới Phật này sẽ có tên là Sa Bà… Khi ấy có đại kiếp tên là Hiền Thiện, trong đại kiếp ấy, có ngàn vị Thế Tôn thành tựu đại bi, xuất hiện trong đời’.
Theo Phật Tổ Thống Ký, trong kiếp này, đức Phật thứ nhất tên Câu Lưu Tôn Phật, kế đến là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, vị thứ ba là Ca Diếp Phật, vị thứ tư là đức Thích Ca Mâu Ni Phật hiện tại. Sau đấy có Di Lặc Phật v.v… chín trăm chín mươi sáu vị Phật nối tiếp nhau xuất thế. Nay trong hội này, Di Lặc Bồ Tát và chín trăm chín mươi lăm vị Ðại Sĩ khác sẽ thành Phật trong Hiền Kiếp đều đến nhóm hội, nghe Phật thuyết pháp.
Vì vậy, ta biết rằng hết thảy các đức Phật vị lai trong Hiền kiếp đều sẽ tuyên thuyết kinh này (nói thêm: trong Hiền kiếp có tất cả một ngàn lẻ năm vị Phật, một ngàn lẻ một vị từ Di Lặc trở đi đều chưa thành Phật, chẳng thường thấy đề cập đến nên chẳng chép chi tiết).
Trong phẩm thứ nhất, dùng tín, văn, thời, chủ, xứ, chúng, sáu thứ thành tựu để chứng tín kinh này. Giống như kinh Pháp Hoa, chúng đại tỳ kheo trong kinh này là một vạn hai ngàn vị trỗi vượt hẳn các kinh khác. Hơn nữa, giống như kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát là vị thượng thủ đầu tiên của kinh này. Rõ ràng, kinh này tương đồng hai kinh Viên Giáo vừa nói trên