39. Ngài Từ Thị thuật lại những điều mình thấy
Tông chỉ của phẩm này là chứng tín, trừ nghi. Ngài Từ Thị thuật lại những điều mình thấy nhằm xác chứng lời Phật dạy vô cùng chơn thật. Ấy là bởi đại chúng chỉ biết được những điều trang nghiêm của y báo cõi Cực Lạc qua lời Phật giảng nên ở đây ngài Di Lặc bèn tường thuật những điều chính mắt mình thấy cho thánh chúng hiện diện trong pháp hội được biết.
Ngài còn nêu lên việc mình thấy những chúng sanh bị rớt vào hàng thai sanh trong nghi thành để chỉ rõ cái tai hại của lòng nghi hoặc.
Chánh kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài A Nan và Từ Thị Bồ Tát:
- Ông có thấy cung điện, lầu gác, suối, ao, rừng cây trong cõi Cực Lạc đầy đủ vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm chăng? Ông có thấy chư thiên từ Dục giới lên đến Sắc Cứu Cánh thiên mưa các hoa, hương đầy khắp cõi Phật chăng?
A Nan thưa rằng: ‘Vâng ạ, con đã thấy’.
- Ông có nghe âm thanh lớn lao của Phật Di Ðà vang vọng hết thảy thế giới giáo hóa chúng sanh chăng?
Ngài A Nan thưa: ‘Vâng ạ, con có nghe’.
Phật dạy: - Ông có thấy chúng thanh tịnh trong cõi ấy ngao du trên hư không, cung điện tùy thân không bị chướng ngại, đến khắp mười phương cúng dường chư Phật chăng? Và thấy họ niệm Phật liên tục chăng? Lại có các thứ chim bay lượn trên hư không hót lên các thứ tiếng; chúng đều được biến hóa ra, ông có thấy hết hay không?’
Ngài Từ Thị thưa: ‘Con đều thấy mỗi mỗi thứ đúng như lời Phật nói’.
Giải: A Nan kết tập Kinh tạng, Từ Thị đương lai hạ sanh; vì thế, Phật đem pháp môn vi diệu này phó chúc cho hai vị.
Trước hết, Phật nói đến những điều trang nghiêm mầu nhiệm trong cõi Cực Lạc như cảnh chư thiên mưa hoa, bảo hai vị nhìn làm chứng.
‘Sắc Cứu Cánh thiên’ chính là một cõi trời thuộc các tầng trời Tịnh Cư, là cõi trời thù thắng nhất trong Sắc giới, là chỗ ở của bậc thánh đã chứng quả Bất Hoàn. Bất Hoàn tiếng Phạm là A Na Hàm. Bậc này đã đoạn sạch chín phẩm tư hoặc của Dục giới, chẳng tái sanh trong Dục giới nữa, nên sanh vào Sắc giới hoặc Vô Sắc giới. Bởi đó, gọi là Bất Hoàn quả.
Cõi trời Tịnh Cư gồm có năm tầng trời: một là Vô Phiền thiên, hai là Vô Nhiệt thiên, ba là Thiện Hiện thiên, bốn là Thiện Kiến thiên, năm là Sắc Cứu Cánh thiên. Sách Câu Xá Tụng chép: ‘Năm cõi trời này gọi là Tịnh Cư Thiên, chỉ có thánh nhân sống, không có các loài khác sống lẫn vào nên gọi là Tịnh Cư’.
Ở đây, Từ Thị Bồ Tát trông thấy chư thiên rải hoa, quả đã chứng thực điều kinh đã nói trong phần trước: ‘Hết thảy chư thiên đều cầm trăm ngàn hương hoa, muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật ấy’. Những thứ trang nghiêm y báo mà ngài đã thấy lại chứng thực nguyện thứ băm chín: ‘Muôn vật trong nước đều đặc biệt, lạ lùng, cùng vi cực diệu, nghiêm tịnh sáng đẹp chẳng thể tính kể nổi’.
Tiếp đó, ngài trực tiếp được nghe Phật Di Ðà thuyết pháp. Pháp âm vang dội phổ độ mười phương. Ðiều ấy chứng thực lời kinh dạy: ‘Tiếng Phật như phạm lôi chấn, âm thanh diễn xướng vi diệu gồm đủ cả tám giọng’ và ‘Bồ Ðề thọ vương diễn xuất vô lượng âm thanh diệu pháp. Âm thanh ấy vang vọng khắp các cõi nước Phật’. Tiếng thuyết pháp của thọ vương lại chính là tiếng Phạm âm của Phật Di Ðà vậy.
Ðiểm thứ ba là thánh chúng trong cõi ấy du hành thập phương, cúng dường chư Phật. Ðiều này chứng thực sự thành tựu của lời nguyện thứ mười một: ‘Nguyện cúng khắp chư Phật’.
Thứ tư là ngài thấy thánh chúng niệm Phật liên tục, đây chính là cốt lõi của các lời nguyện của Phật Di Ðà: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh độ khắp ba căn, gồm thâu vạn loại. Phàm phu mười niệm chứng ngay lên bất thối; đại sĩ tu tập nhanh chóng, hàng Thập Ðịa cũng chẳng rời niệm Phật. Vì thế, phàm phu niệm Phật liền được vãng sanh. Ðã vãng sanh rồi vẫn niệm Phật, niệm niệm tiếp nối cho đến tột đời vị lai. Bởi lẽ đó, Phật bảo đại sĩ Di Lặc đích thân nhìn sự việc này để làm chứng.
Năm là Phật bảo ngài Di Lặc nhìn xem các loài chim thuyết pháp để chứng thực điều đã được dạy trong kinh Tiểu Bổn: ‘Các loài chim ấy đều là do A Di Ðà Phật muốn cho pháp âm được truyền bá rộng khắp mà biến hóa ra’.
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc: ‘Nhân dân cõi ấy có kẻ thai sanh, ông lại có thấy hay chăng?’
Ngài Di Lặc thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con thấy kẻ ở trong thai nơi thế giới Cực Lạc như đang ở trong cung điện trên trời Dạ Ma. Lại thấy chúng sanh ngồi xếp bằng trên hoa sen, tự nhiên hóa sanh. Vì nhân duyên nào mà nhân dân cõi ấy lại có kẻ thai sanh, kẻ thì hóa sanh?
Giải: ‘Có kẻ thai sanh, kẻ thì hóa sanh’ nghĩa là Cực Lạc có hai loại: hóa sanh và thai sanh.
‘Ở trong hoa sen, tự nhiên hóa sanh’ là hóa sanh.
‘Thai sanh’ là vì dùng cái tâm ngờ vực tu các công đức, nguyện sanh Cực Lạc, ngờ vực chẳng tin ngũ trí của Phật, nhưng vẫn tin vào tội phước, tu tập cội lành. Họ vẫn được sanh về Cực Lạc nhưng trong năm trăm năm, hoa sen chẳng nở, ở mãi trong hoa thai, chẳng được gặp Phật, nghe pháp nên gọi là ‘thai sanh’, hay còn gọi là ‘biên địa’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Thai sanh là ví như người sanh trong bào thai lúc sơ sanh nhân pháp chưa thành (ý nói chưa thành hình người). Thai là ý nói chốn tăm tốn, dùng hình ảnh này để ví cho kẻ [ở mãi trong hoa sen] nơi Cực Lạc chứ chẳng phải là kiểu thai sanh trong thai bào. Vì sao biết thế? Trong cõi An Lạc thuần là hóa sanh nên chẳng thật có thai sanh’. Ý nói: Gọi là ‘thai sanh’ vì kẻ đó nghi hoặc chưa hết, ám chướng vẫn còn nên chưa thể thấy Phật, nghe pháp. Vì vậy, dùng chữ ‘thai’ để sánh ví.
Nếu luận theo sự thực, tất cả những người được vãng sanh đều là hóa sanh, không hề có thai sanh. Vả lại, người sanh vào biên địa cõi Cực Lạc tuy bảo là ở trong thai nhưng chẳng hề chịu cái khổ ở trong thai, chỉ hưởng khoái lạc như các vị trời cõi Dạ Ma ngự trong cung điện. Dạ Ma thiên là tầng trời thứ ba trong Dục giới, nằm trên hai tầng trời Tứ Thiên Vương và Ðao Lợi. Người trong cõi trời Dạ Ma luôn thốt lên: ‘Sướng quá! Sướng quá!’ đủ thấy chư thiên trong cõi trời ấy khoái lạc tột bực!
Ngài Từ Thị thấy xong lại hỏi: ‘Vì nhân duyên nào?’ mà có hai loại sanh như thế. Ðây chính là thấy quả muốn biết về nhân. Sách Hội Sớ nói về hai chữ ‘nhân duyên’ như sau: ‘Yếu tố chính để phát sanh [ra quả] là Nhân, yếu tố trợ giúp là Duyên. Thai sanh hay hóa sanh đều nhờ vào nhân duyên. Bởi thế, đối theo cái quả mà hỏi đến nguyên do’.
Bản sớ giải kinh Lăng Nghiêm của ngài Trường Thủy có câu: ‘Phật dạy nhân duyên là tông vì thánh giáo của Phật từ cạn tới sâu, nói ra hết thảy pháp không ngoài hai chữ nhân duyên’.