Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

16. Nhà, viện, lầu, quán

 Phẩm này gồm hai điểm chính: một là chỗ cư ngụ của Phật và Bồ Tát; hai là Bồ Tát tùy ý tu tập, từ nhân đắc quả, tự do hành đạo, đều đại hoan hỷ

 Chánh kinh: Lại nữa, giảng đường, tinh xá, lầu, quán, lan can của Vô Lượng Thọ Phật cũng đều bằng bảy báu tự nhiên hóa thành. Lại có bạch châu, ma ni dùng để giăng xen, sáng đẹp khôn sánh. Cung điện của các chúng Bồ Tát ở cũng giống như vậy.

 Giải: ‘Giảng đường’ là tòa nhà dùng để thuyết pháp giảng kinh. ‘Tinh xá’ là tên gọi khác của chùa viện. Sách Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Âm Nghĩa nói: ‘Tinh xá không có nghĩa là nhà cửa đẹp đẽ tinh xảo mà là chỗ ở của bậc hành giả tu luyện siêng năng, ròng rặt thì gọi là tinh xá’. ‘Lầu, quán’ tức là lầu, đài; quán là cái đài, cái đình, nhà mát.

Các điện, gác trong cõi Cực Lạc đều từ tâm thanh tịnh của Phật Di Ðà biến hiện nên đều do các báu hợp thành, chẳng xây cất từ gỗ, đá, chẳng cần thợ thuyền, ứng hiện theo căn cơ nên bảo là ‘cũng đều do bảy báu tự nhiên hóa thành’.

‘Bạch châu’ tức là một thứ ngọc trai. Ngọc trai trắng sạch là quý nên bạch châu là thứ thượng phẩm trong các loại châu. Về ‘ma ni’ xin xem lời giải ở phần trước. ‘Giăng xen’ là treo vắt chéo qua nhau như mành lưới. Bản Hán dịch ghi: ‘Lại dùng bạch châu, minh nguyệt châu, ma ni châu giăng xen, che phủ phía trên’. Mành lưới kết bằng ma ni, diệu châu ấy che phủ trên các lầu, quán, lan can bằng bảy báu thật là sáng đẹp.

Vãng Sanh Luận lại bảo: ‘Nơi cung, điện, lầu, quán, thấy mười phương vô ngại. Các loại cây có ánh sáng, màu sắc khác nhau, lan can báu vây kín khắp chung quanh’. Hơn nữa, Phật đã phát ra lời nguyện thứ mười bốn ‘chiếu tột cùng mười phương’ như sau: ‘Cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, soi tỏ mười phương’. Những lời kinh như vậy cùng miêu tả cung điện, lầu, quán cõi Cực Lạc đều như gương sáng soi bóng mười phương. Vì vậy, ngài Ðàm Loan bảo: ‘Cung điện lầu gác như gương soi bóng mười phương; cây báu, lan can báu phản chiếu lẫn nhau’. Rõ ràng, diệu dụng cõi Cực Lạc chẳng có gì sánh nổi nên kinh mới bảo: ‘Sáng đẹp khôn sánh’. Ngay cả cung điện của Bồ Tát ở cũng có diệu dụng như thế; điều này hiển thị sâu xa Chơn Như bình đẳng, như như nhất vị vậy.

          Chánh kinh: Trong ấy, có kẻ ở trên mặt đất tụng kinh, giảng kinh; có kẻ ở trên mặt đất lãnh nhận kinh, nghe kinh; có kẻ đi kinh hành, suy nghĩ đạo lý và tọa thiền trên mặt đất; có người ở trên hư không giảng, tụng, thọ lãnh, nghe kinh, đi kinh hành, suy nghĩ đạo lý và tọa thiền.

Giải: Ðoạn kinh ở phần trên tả cảnh, đoạn này tường thuật người sống trong những cảnh ấy. Những người vãng sanh tùy theo phẩm vị, tùy theo ý thích mà tu tập tự tại: hoặc ở trên hư không hoặc ngự trên mặt đất, ai nấy tùy ý giảng tụng, nghe nhận, tọa thiền, kinh hành.

          Xưa dịch chữ ‘kinh hành’ ‘hành đạo’, nghĩa là đi vòng quanh hay chỉ đi qua, đi lại theo đường thẳng trong một khu vực nào đó. Dùng cách này để đối trị chứng buồn ngủ hoặc để dưỡng thân, trị bịnh. Sách Huyền Tán nói: ‘Ði qua, đi lại để tiêu cơm hay tụng kinh giống như đi qua, đi lại trên một tấm vải trải thẳng ra nên bảo là kinh hành’. Phẩm Tự kinh Pháp Hoa có câu: ‘Chưa từng ngủ nghỉ, kinh hành trong rừng’.

‘Suy nghĩ đạo lý’ là suy nghĩ về đạo, suy lường cảnh mình đang tiếp xúc cho đến khi hiểu thấu suốt thì gọi là ‘tư duy’. Trong Quán kinh, Vy Ðề Hy phu nhân thỉnh rằng: ‘Con nay thích sanh về Cực Lạc thế giới là chỗ của đức Phật A Di Ðà, kính xin đức Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con chánh thọ’. Thiện Ðạo đại sư giảng: ‘Nói “dạy con tư duy” là nói đến phương tiện trước khi nhập định: suy tưởng, nghĩ nhớ y báo, chánh báo, bốn thứ trang nghiêm của đức Phật ấy’.

‘Tọa thiền’ tức là tịnh tọa để tu Thiền. Thiền là tiếng Phạn, nói đủ là Thiền Na, dịch là Tĩnh Lự, Tư Duy Tu v.v... Bảo là ‘tĩnh lự’ vì thể tánh của Thiền Na là tịch tĩnh, mà cũng do vì dụng công suy nghĩ kỹ càng nên bảo là ‘tĩnh lự’. Tĩnh là Ðịnh, Lự là Huệ. Diệu thể của Ðịnh lẫn Huệ đều bình đẳng nên bảo là Thiền Na như Câu Xá Luận, quyển hăm tám có nói: ‘Do nghĩa nào mà gọi là Tĩnh Lự? Do tịch tĩnh nên có thể nghĩ tưởng cặn kẽ. Nghĩ tưởng cặn kẽ nghĩa là hiểu biết thật sự như hay nói: tâm tại định thì có thể biết rõ một cách đúng như thật’.

Tư Duy Tu là nói về nhân. Nhất tâm tư duy, suy xét, tu tập; đấy là nhân. Do đấy đắc định nên bảo là ‘Tư Duy Tu’ (những điều nói về Thiền trên đây đều là nói về Thiền Ðịnh Ðộ trong Lục Ðộ).

          Chánh kinh: Hoặc đắc Tu Ðà Hoàn, hoặc đắc Tư Ðà Hàm, hoặc đắc A Na Hàm, A La Hán. Người chưa đắc A Duy Việt Trí thì sẽ đắc A Duy Việt Trí. Ai nấy đều tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo, không ai không hoan hỷ.

          Giải: Ðoạn này nói rõ người trong cõi ấy ai tu tập cách nào cũng đều đắc quả từ Tu Ðà Hoàn cho đến A La Hán. Ðấy là những quả vị khác nhau trong Thanh Văn thừa.

          Một là Tu Ðà Hoàn quả, dịch là Nhập Lưu, Dự Lưu hoặc Nghịch Lưu, còn gọi là Sơ Quả. Nhập Lưu và Dự Lưu cùng một nghĩa: từ phàm phu bắt đầu dự vào dòng pháp thánh đạo. Gọi là Nghịch Lưu vì khi đã nhập vào thánh vị thì ngược dòng lũ sanh tử. Những cách dịch như trên tuy về mặt văn tự tựa hồ có khác, nhưng ý nghĩa của chúng đều tương đồng. Ðoạn được kiến hoặc tam giới thì đắc quả này.

          Hai là Tư Ðà Hàm quả, dịch là Nhất Lai, còn gọi là Nhị Quả. Nhất Lai là đoạn được sáu phẩm đầu trong các thứ ‘kiến hoặc’ thuộc chín địa vị trong Dục giới, nhưng vẫn còn ba phẩm kiến hoặc sau nên vẫn còn phải thọ sanh một lần nữa trong cõi trời Dục Giới. Do đó, gọi là Nhất Lai, nghĩa là phải trở lại một lượt nữa.

Ba là A Na Hàm quả, cựu dịch Bất Lai, tân dịch là Bất Hoàn. Bậc này đã đoạn sạch ba phẩm còn sót lại sau cùng của tư hoặc trong Dục giới, chẳng trở vào trong Dục giới nữa. Sau đó, nếu có thọ sanh thì sanh trong Sắc giới hoặc Vô Sắc giới.

Bốn là A La Hán, dịch là Sát Tặc, Ứng Cúng, Bất Sanh. Ðây là quả vị cao nhất trong Thanh Văn thừa, đã đoạn sạch hết thảy kiến tư hoặc, ngay cả những kiến, tư hoặc thuộc cõi trời Phi Tưởng Xứ. Do đoạn sạch hết thảy kiến tư hoặc nên gọi là Sát Tặc. Ðã chứng quả vị cao nhất của Tiểu thừa, xứng đáng thọ lãnh sự cúng dường của trời lẫn người nên bảo là Ứng Cúng. Trong một đời sống đã hết sạch các quả báo, nhập Hữu Dư Niết Bàn. Chẳng sanh vào tam giới nữa nên bảo là Bất Sanh.

Trên đây là những vị đã đắc tứ quả Thanh Văn, đều đã đoạn hết thảy các hoặc; nhưng thật ra người vãng sanh cõi Cực Lạc đều đã phát Bồ Ðề tâm, đều là Nhất Phật Thừa nên dẫu có bảo họ là Thanh Văn thì cũng chỉ là phán định theo mức độ đoạn hoặc, thuận theo cách nói thông tục mà thôi. 

‘A Duy Việt Trí’ còn được phiên âm là A Bệ Bạt Trí, nghĩa là chẳng thối chuyển nơi Phật đạo. Bản chú giải kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã của ngài Từ Ân có nói: ‘A bệ bạt trí: A là không, bệ-bạt-trí là thối chuyển. Vì vậy, kinh Ðại Phẩm Bát Nhã chép: ‘Do chẳng thối chuyển nên gọi là a bệ bạt trí’. Bồ Tát phải tu hành trọn cả một đại a tăng kỳ kiếp mới chứng nổi địa vị này; nhưng pháp môn Tịnh Ðộ thật khác xa lắm. Kinh Tiểu Bổn dạy: ‘Chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc đều là a bệ bạt trí’. Kinh này bảo: ‘Kẻ chưa đắc a duy việt trí sẽ đắc a duy việt trí’ thì thật là tương đồng.

Sách A Di Ðà Yếu Giải còn nói: ‘A Bệ Bạt Trí, Tàu dịch là Bất Thối.

a. Một là vị bất thối: nhập vào dòng thánh, chẳng đọa vào địa vị phàm phu.

b. Hai là hạnh bất thối: luôn độ sanh chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa.

c. Ba là niệm bất thối: tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhã’.

Biển Tát Bà Nhã dịch là biển Nhất Thiết Chủng Trí, tức là Như Lai Quả Hải. Phải đạt bậc Sơ Ðịa trong Biệt giáo hay phải đạt bậc Sơ Trụ trong Viên giáo, phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân mới có thể cùng lìa cả nhị biên, quy hướng trọn vẹn về Trung Ðạo, trong niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhã. Rõ ràng, Niệm Bất Thối khó chứng đến mức ấy, nhưng trong diệu pháp Tịnh Ðộ : ‘Ngũ nghịch, thập ác mười niệm thành tựu mang nghiệp đi vãng sanh, ở vào hạ hạ phẩm cũng đều đắc ba thứ bất thối’.

Vì vậy, Linh Phong đại sư ca tụng: ‘Trong cõi Phật mười phương không đâu có danh tướng ấy, không đâu có địa vị như vậy, không đâu có pháp môn như vậy. Nếu chẳng phải là tâm tánh đã đạt đến cùng cực, do sức hỗ trợ kỳ diệu của trì danh, do Di Ðà đại nguyện thì làm sao đạt được như vậy!’

Cuối cùng, những người vãng sanh do tùy ý tu hành nên thọ dụng các pháp lạc Ðại thừa, đều cùng tự tại đắc quả nên ‘không ai không hoan hỉ’.

Xem mục lục