Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

24. Ba bậc vãng sanh

Chánh kinh: Phật bảo A Nan: Nói chung, chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới chí tâm nguyện sanh về cõi kia gồm có ba bậc.

Giải: Phẩm trước là mười phương chư Phật khen ngợi, đó chính là kết quả của nguyện ‘chư Phật khen ngợi’. Ấy là vì chư Phật muốn cho chúng sanh nghe danh hiệu phát tâm, ức niệm, thọ trì, thỏa nguyện được vãng sanh. Phẩm này bàn về các loại nhân hạnh để vãng sanh.

Phàm phu sau khi nghe danh hiệu Phật liền phát tâm. Do tín nguyện có sâu cạn nên phát tâm có lớn hay nhỏ, trì tụng nhiều hay ít, tu tập có siêng, lười nhiều nỗi sai khác. Túc căn của chúng sanh có vô lượng sai biệt; phước đức, nhân duyên lại càng sai khác hơn nữa. Người người khác nhau, kẻ kẻ bất đồng. Do đó, đã có vô lượng chúng sanh trong mười phương vãng sanh thì phẩm loại của họ cũng phải vô lượng.

Ðối với vô lượng phẩm loại sai khác như thế, đức Thế Tôn chỉ tạm phân chia một cách tổng quát nên trong phẩm này chỉ nói đến ba bậc: thượng, trung, hạ. Ðấy là cách phân chia giản lược nhất. Mỗi bậc lại tách ra làm ba loại nhỏ nên thành ra chín loại; Quán kinh gọi là ‘chín phẩm’. Mỗi phẩm trong chín phẩm đó lại có chín phẩm, thành ra tám mươi mốt phẩm. Cứ lần lượt khai triển như thế đến vô lượng.

Trong vô lượng thứ bậc ấy, nói một cách tổng quát thì gồm có ba bậc. Dẫu phẩm loại của những người vãng sanh thật khác xa nhau, nhưng khi luận đến cái nhân chủ yếu để vãng sanh thì chẳng gì khác hơn là ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật’. Ðấy chính là cương tông của toàn bộ kinh này, là chìa khóa để vãng sanh Cực Lạc.

Ba bậc vãng sanh chính là để phân loại bọn phàm phu chúng ta sau khi đã vãng sanh về Tịnh Ðộ. Nguyện hạnh, công đức của từng bậc chính là khuôn phép để chúng ta noi theo hòng cầu được vãng sanh. Nếu lòng chơn thành cầu được vãng sanh thì phải nên tuân theo những khuôn phép đó, khác nào tấm gương sáng để ta luôn soi mình.

Nên nhớ rằng Tịnh tông được xưng tụng là Dị Hành Ðạo (đạo dễ hành) là vì so trong tám vạn bốn ngàn pháp môn mà nói thì chỉ có pháp môn này dễ dàng nhất nên mới gọi là ‘dị hành đạo’; chứ nếu xét theo những điều được dạy trong kinh này, ta thấy vãng sanh cũng chẳng phải là việc dễ. Nếu chẳng thật vì sanh tử phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu một dạ chuyên niệm mà mong vãng sanh thì không thể nào được.

Kính mong những hành nhân trong hiện tại chớ đừng thoáng nghe Tịnh tông là dễ tu liền sanh khinh mạn, tín tâm hời hợt, chí nguyện lơ là, miệng bàn Tịnh nghiệp, tâm tiếc trần duyên; như vậy mà cầu sanh thì biết đến bao giờ mới được!

Khi phán định chín phẩm trong Quán kinh có tương đương với ba bậc trong kinh này hay không, cổ đức đã lập ra lắm thuyết bất nhất:

a. Trường phái coi những phẩm loại được nói trong hai kinh là giống nhau thì gồm những vị như Ðàm Loan đại sư, Cảnh Hưng, Gia Tường, Liên Trì, Thiên Thai… Trong tác phẩm Lược Luận An Lạc Tịnh Ðộ Nghĩa, ngài Ðàm Loan nói: ‘Kinh Vô Lượng Thọ nói người sanh về An Lạc chỉ có ba bậc: thượng, trung, hạ; kinh Quán Vô Lượng Thọ nói mỗi phẩm lại chia ra làm thượng, trung, hạ. Ba lần ba thành chín, hợp thành chín phẩm’. Tịnh Ảnh Sớ lại viết: ‘Phàm các nhân dân trong mười phương thế giới nguyện sanh cõi ấy thì có ba bậc. Gộp chung lại để nói thì như trong Quán kinh; nếu chia sơ lược thì có ba bậc, chia tỉ mỉ thì thành ra chín’. Ngài Gia Tường cũng viết trong Quán Kinh Sớ như sau: ‘Kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói ba bậc, còn trong kinh đây (chỉ kinh Quán Vô Lượng Thọ) chia ba bậc thành chín bậc. Ba bậc là thượng, trung, hạ. Chín bậc là thượng phẩm có ba; trung, hạ cũng có ba nên thành chín bậc’. Ngài Cảnh Hưng cũng bảo: ‘Do chín phẩm trong kinh kia (Quán kinh) gộp lại thành ba bậc trong kinh này nên giáo nghĩa dạy trong hai kinh chẳng khác nhau’. Ngài Liên Trì lại bảo: ‘Ba bậc, chín phẩm phù hợp khít khao với nhau, nào còn ngờ chi!’ Trong Quán Kinh Sớ, ngài Thiên Thai cũng bảo: ‘Chín phẩm trong kinh này (Quán kinh) chỉ là để cho biết địa vị cao hay thấp, chúng chính là ba bậc trong Ðại kinh’.

b. Phái chủ trương các bậc, phẩm nói trong hai kinh là khác nhau thì có các vị như Linh Chi, Cô Sơn… Ngài Linh Chi bảo ba bậc trong Ðại kinh chỉ tương ứng với thượng phẩm của Quán kinh chứ không dính dáng gì đến sáu phẩm kia vì trong trung phẩm và hạ phẩm không nói đến việc phát Bồ Ðề tâm. Quan điểm của ngài Cô Sơn thoáng hơn; ngài cho rằng ba bậc trong kinh này chỉ tương ứng với thượng phẩm và trung phẩm, chứ  chẳng thuộc ba phẩm hạ vì: người vãng sanh thuộc ba bậc trong kinh này đều là thiện nhân; còn người thuộc ba phẩm hạ trong Quán kinh đều là ác nhân, lúc lâm chung sám hối niệm Phật nên được vãng sanh. Vì vậy, các vị trên đều cho rằng chẳng thể phối hợp các phẩm loại của hai kinh này với nhau.

Trong tác phẩm Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã dung hội các thuyết trên như sau:

‘Sách Thảo Am Phụ Chánh Giải bảo: “Ngài Thiên Thai coi chín phẩm giống với ba bậc là vì xét theo thứ bậc mà nói chứ chẳng xét trên nhân hạnh mà bàn. Ý các vị như Cô Sơn, Linh Chi chẳng trái nghịch ý ngài Thiên Thai, vì sao vậy? Do ngài Thiên Thai phán định trên phương diện thứ bậc nên ba bậc và chín phẩm tương đồng. Hai vị đại sư lại chỉ xét trên nhân hạnh nên ba bậc chỉ tương ứng với trung, thượng phẩm. Mỗi bên có cơ sở lập luận riêng nên giáo nghĩa chẳng đồng. Do vậy, ý kiến các ngài chẳng trái nghịch nhau”.

Dựa trên Thật Ðế mà luận thì phiền não khác gì Bồ Ðề, sự ác lúc ban đầu nào trở ngại sự lành lúc chung cục. Ác nhân đã thành thiện thì lẽ đâu chẳng xếp vào hàng hiền thánh. Ba bậc chín phẩm thật phù hợp khít khao với nhau há còn ngờ chi’.

Quan điểm dung thông của ngài thật khế hợp pháp yếu bởi vì chủ trương phối hợp hai kinh với nhau của những vị như Thiên Thai v.v… là chú trọng vào địa vị sau khi vãng sanh, chẳng luận đến sự hành trì khi còn tu nhân; các vị như ngài Linh Chi v.v… coi hai kinh khác nhau vì chú trọng về mặt hành trì khi tu nhân nên mới xét đến việc chưa từng phát Bồ Ðề tâm lẫn hành vi thiện ác lúc bình thời. Do vậy, [hai vị cho rằng] ba phẩm hạ trong Quán kinh chẳng tương ứng với bậc hạ nói trong kinh này.

Trong đoạn văn trên của ngài Liên Trì, câu cuối: ‘Sự ác lúc ban đầu nào trở ngại sự lành lúc chung cục’ khế hợp thánh tâm rất sâu xa. Kẻ ác lúc lâm chung nếu có thể sám hối phát tâm, chí tâm niệm Phật thì kẻ ác đã thành người lành nên cũng được Phật nhiếp thọ, tùy nguyện vãng sanh. Do vậy, Liên Trì đại sư mới bảo: ‘Lẽ đâu chẳng xếp vào hàng hiền thánh’ đồng lên Cực Lạc. Do những điều trên ta thấy: ba bậc trong kinh này và chín phẩm trong kinh kia thật tương ứng với nhau chẳng còn ngờ gì nữa.

Sách Báo Ân Luận cũng nói: ‘Bậc thượng trong kinh này tương ứng với người xuất gia, hai bậc trung, hạ tương ứng với người tại gia. Do có quá nhiều phẩm loại nên chỉ đại lược nêu lên một cách tổng quát: “Nói chung có ba bậc”. Với ba bậc ấy, Quán kinh cũng tạm tách sơ lược thành chín phẩm. Kinh lại nêu hạng cực ưu và cực giáng để bao quát vô lượng nhân hạnh sai khác’.

Lời bàn này cực hay. Trong Quán kinh, có người chỉ trong khoảng búng ngón tay liền được vãng sanh, gặp Phật nghe pháp, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong khoảnh khắc đến phụng sự khắp các chư Phật, lần lượt được thọ ký, trở về nước mình, đắc vô lượng trăm ngàn đà ra ni môn. Ðấy chính là hạng cực ưu (ưu thắng nhất) trong ba phẩm.

Kẻ hạ hạ phẩm là hạng ngũ nghịch, thập ác. Khi tướng địa ngục hiện, lâm chung sám hối, mười niệm được vãng sanh là hạng cực giáng (thấp nhất) trong bậc hạ.

Quán kinh nêu lên hạng tối ưu cũng như bậc tối hạ nên luận mới nói: ‘Nêu lên hạng cực ưu và cực giáng’. Thoạt nhìn, dường như hai kinh khác nhau, nhưng thật ra ý chỉ của chúng lại tương đồng.

 Chánh kinh: Bậc thượng là hạng bỏ nhà, lìa dục, làm sa môn, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật, tu các công đức nguyện sanh cõi kia. Những chúng sanh ấy lúc tuổi thọ sắp hết, A Di Ðà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Trong khoảnh khắc liền theo đức Phật sanh về cõi kia, lại tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại.

A Nan! Do vậy, nếu có chúng sanh nào muốn trong đời này được thấy A Di Ðà Phật thì phải phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, lại nên chuyên nghĩ đến cõi nước Cực Lạc, thiện căn đã tích tập nên đem hồi hướng. Do đó, được thấy Phật, sanh trong cõi kia, đắc bất thối chuyển cho đến thành Vô Thượng Bồ Ðề.

 Giải: Phàm phu có được dự phần vào bậc thượng vãng sanh hay không là một vấn nạn lớn trong Tịnh tông.

Cổ đức có vị bảo đây là hạnh Bồ Tát (như có thuyết bảo thượng thượng phẩm phải là Bồ Tát từ Tứ Ðịa đến Thất Ðịa, thượng trung phẩm phải là từ Sơ Ðịa đến Tứ Ðịa Bồ Tát; các phẩm khác cứ theo đó mà suy. Phàm phu chỉ có thể đạt từ trung phẩm trung sanh trở xuống mà thôi!). Nếu thật như vậy thì đại nguyện vô thượng của Phật Di Ðà, cõi sen Tây Phương độc diệu, pháp môn trì danh dễ hành, diệu pháp vãng sanh thù thắng đều thành hý luận, khiến cho diệu pháp Tịnh tông chẳng thể nghĩ bàn lại thành ra pháp có thể nghĩ bàn nổi ư! Vì vậy, đây chính là một điều cốt lõi của Tịnh Tông; trong phần khái yếu của bản chú giải này tôi đã tạm bàn đôi điều nhưng chưa giãi bày hết nổi ý chỉ này nên ở đây tôi lại thử trình bày rõ hơn.

Với cái sai lầm của cổ thuyết, chúng ta may mắn có được đại sư Thiện Ðạo đời Ðường. Ngài đã dẫn đủ các kinh luận để cực lực đả phá cựu thuyết. Trong Tứ Thiếp Sớ, đại sư đã luận như sau:

‘Lại xem phần Ðịnh Thiện trong Quán kinh và ý nghĩa kinh văn ba bậc thượng, trung, hạ thì toàn là sau khi đức Phật nhập diệt, phàm phu ngũ trược chỉ do gặp duyên sai khác nên đến nỗi có chín phẩm sai biệt.

Vì sao? Người trong ba phẩm trên là phàm phu gặp duyên Ðại Thừa. Người trong ba phẩm giữa là phàm phu gặp duyên Tiểu Thừa. Người trong ba phẩm hạ là phàm phu ngu ác, ác nghiệp, lúc lâm chung nhờ bạn lành, nương nguyện lực của Phật bèn được vãng sanh; đến khi hoa kia nở thì mới phát tâm, chứ phải đâu là người mới học Ðại Thừa (cổ đức bảo bậc hạ là người mới học Ðại Thừa). Nếu hiểu như thế thì mình lầm, làm người khác lầm, tai hại quá sức!’.

Trong bản sớ giải, ngài còn dẫn mười đoạn Quán kinh để chứng minh luận thuyết ấy, ở đây tôi không trích dẫn đủ. Chín phẩm đài sen cõi Cực Lạc đều là nơi để phàm phu đời trược vãng sanh, chỉ do người đời gặp duyên có Ðại Thừa, Tiểu Thừa sai khác nên sau khi vãng sanh bèn có bậc thượng, bậc trung, bậc hạ bất đồng.

Tịnh tông là giáo pháp tối cực viên đốn. Nếu phàm phu thuộc căn khí Ðại Thừa tin nhận được nổi thì sẽ giải ngộ trọn vẹn, tu chứng trọn vẹn thì sẽ vượt xa thường nhân cả kiếp (người căn cơ viên đốn tu một ngày bằng thường nhân tu một kiếp). Do đó, họ có thể ngay trong một đời công hạnh viên mãn chứng ngay thượng phẩm.

Nay với bản kinh này, tôi dùng các luận khác để chứng minh ba bậc vãng sanh thật sự là vì phàm phu mà chỉ kiêm vì thánh nhân:

* Phẩm Quyết Thành Chánh Giác trong kinh này có những câu kệ như sau:

‘Khiến các quần sanh ấy, đêm dài không ưu não, xuất sanh các thiện căn, thành tựu Bồ Ðề quả. Nếu tôi thành Chánh Giác, lập hiệu Vô Lượng Thọ. Chúng sanh nghe hiệu ấy, đều sanh trong nước tôi, thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn’.

Bốn câu đầu nói lên nguyên do phát khởi đại nguyện: muốn cho hết thảy chúng sanh trong đêm dài tăm tối được lìa các ưu bi khổ não, xuất sanh căn lành thành tựu Bồ Ðề. Ta thấy rõ ngài thật sự muốn cứu tế khắp hết thảy những phàm phu đầy rẫy phiền não còn trong đêm dài tăm tối, khiến cho họ phát sanh thiện căn.

Bốn câu kệ kế tiếp nói đến pháp ngài dùng để phổ độ: ‘Chúng sanh nghe danh sanh trong nước ta’. Các chúng sanh ấy cũng chính là quần sanh còn trong đêm dài ưu não. Bởi vậy, Thiện Ðạo đại sư mới bảo: ‘Ba bậc chín phẩm toàn là vì bọn phàm phu ngũ trược sau khi Phật nhập diệt’.

Hai câu kệ cuối cùng: ‘Thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn’ cho thấy phàm phu ưu não một khi đã sanh cõi kia thì đều được chơn thân kim sắc, diệu tướng viên mãn đầy đủ giống như Phật.

Tiếp đó, kinh còn nói: ‘Cũng dùng tâm đại bi, lợi ích các quần phẩm. Ly dục, chánh niệm sâu, tịnh huệ tu phạm hạnh’, ý nói: những người vãng sanh khi hoa nở thấy Phật, thân tâm thanh tịnh ngay, trí huệ bén nhạy, đại bi vô lượng, tự giác, giác tha thành tựu Bồ Ðề. Ðấy đều là do sức oai thần, sức bổn nguyện, nguyện trọn đủ, nguyện rõ ràng, kiên cố, rốt ráo của A Di Ðà Phật nên mới có thể khiến cho phàm phu trong đêm dài ưu não đắc trí huệ thanh tịnh, thân tâm như Phật.

Rõ ràng là phàm phu mang tâm Ðại Thừa trong cõi này được Phật gia bị bèn vãng sanh trong thượng phẩm, đắc Vô Sanh Nhẫn thì có chi là lạ? Ngay câu đầu trong bài kệ tụng phát nguyện, tỳ kheo Pháp Tạng đã bảo:‘Tôi lập siêu thế chí’; những điều vừa nói trên chính là chỗ siêu thế, lẽ nào lại đem thói thường của mười phương để luận bàn phẩm vị cõi Cực Lạc ư?

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao còn bảo: ‘Ngài Cảnh Hưng bảo rõ ba bậc chín phẩm là phàm phu vãng sanh nên ngài giảng rằng: “Một là phàm tiểu vãng sanh, hai là đại thánh vãng sanh”. Chữ “phàm tiểu” chỉ ba bậc [vãng sanh]’.

Sách Du Tâm An Lạc Ðạo cũng viết: ‘Lại nữa, bốn mươi tám nguyện trước hết là vì hết thảy pháp phàm phu, rồi mới kiêm vì tam thừa thánh nhân. Do vậy, phải biết ý chỉ của tông Tịnh Ðộ là “vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh nhân”.

Hơn nữa, ngay trong câu đầu của phẩm này đã bảo: ‘Nói chung, chư thiên, nhân dân trong mười phương thế giới chí tâm nguyện sanh cõi kia thì gồm có ba bậc’. Kinh nói cả ba bậc chỉ là chư thiên, nhân dân trong mười phương, chẳng hề nói họ là Bồ Tát hay Thanh Văn. Như vậy, ba bậc được nêu trong kinh này trước hết là nhắm đến phàm phu, nhưng trong kinh cũng nói kèm đến thánh nhân như phẩm Bồ Tát Vãng Sanh nói các hàng Bồ Tát trong mười phương thế giới ‘sẽ được vãng sanh; nếu chỉ nêu danh hiệu của họ thì hết cả kiếp cũng chẳng hết nổi’.

‘Bỏ nhà, lìa dục, làm sa môn’: ‘Bỏ nhà’ là xuất gia, ‘làm sa môn’ là trở thành Tăng. Tỳ Bà Sa Luận nói: ‘Nhà là nhân duyên phiền não. Xuất gia là để diệt cấu lụy nên phải xa lìa [nhà cửa]’. Huyền Uẩn pháp sư cũng bảo: ‘Xuất gia tạo ác rất khó như thuyền lướt trên đất; tại gia gây lỗi thật dễ như thuyền buồm trôi trên biển. Lại nữa, xuất gia tu đạo dễ dàng như thuyền buồm bơi trên biển; tại gia tu phước thật khó như thuyền đi trên cạn. Nhưng có kẻ tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia, có kẻ thân xuất gia tâm chẳng xuất gia. Nay cả thân lẫn tâm đều phải xuất gia nên mới bảo “bỏ nhà, lìa dục”.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận cũng bảo: ‘Hết thảy chúng sanh do khát ái nên có huyễn thân. Do huyễn thân nên có cõi nước. Bỏ nhà lìa dục thì khát ái thanh tịnh nên cõi nước cũng thanh tịnh.

Kinh Ðại Bát Nhã nói: “[Nếu] Bồ Tát Ma Ha Tát lòng ham muốn mình sẽ đến được các cõi nước Phật thì phải nên viễn ly hạnh tại gia”’. Như vậy, xuất gia là chánh nhân Tịnh Ðộ vì viễn ly bất tịnh’.

Trong sách Du Tâm An Lạc Ðạo, đại sư Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường đã viết:

‘Kinh Vô Lượng Thọ nói đến nhân [vãng sanh] của ba bậc. Bậc thượng gồm năm câu:

a. Một là “bỏ nhà lìa dục trở thành sa môn”. Câu này chỉ rõ phương tiện phát khởi chánh nhân.

b. Hai là “phát Bồ Ðề tâm”, đấy chính là chánh nhân.

c. Ba là  «chuyên niệm đức Phật kia». Ðấy là tu quán.

d. Bốn là ‘làm các công đức’, đấy là khởi hạnh. Quán và hạnh để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn (Sư Nguyên Hiểu coi Niệm Phật là trợ nghiệp; thuyết này chưa ổn, trong phần bàn về tông thú kinh, chúng ta đã bàn, ở đây không nhắc lại). 

e. Năm là ‘nguyện sanh cõi kia’. Ðây chính là nguyện, bốn điều trên là hạnh. Hạnh nguyện hòa hợp mới được vãng sanh’.

Trong phần trên, Khởi Tín Luận đã bảo xuất gia là chánh nhân của Tịnh Ðộ, Nguyên Hiểu đại sư lại coi xuất gia chỉ là phương tiện để phát khởi chánh nhân. Hai thuyết hơi khác nhau, nhưng xét ra thuyết của ngài Nguyên Hiểu ổn đáng hơn!

Xét theo Quán kinh, trong cả ba phẩm thượng chẳng thấy nói phải xuất gia ; riêng trong phần trung phẩm thượng sanh có bảo ‘tu hành các giới’, trung phẩm trung sanh có nói: ‘Nếu một ngày một đêm trì giới Sa Di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới’. Trong cả chín phẩm của kinh ấy, chỉ mỗi hai phẩm trên nói rõ là xuất gia. Riêng kinh này khác hẳn, trong bậc thượng bảo là xuất gia, trong bậc trung lại bảo ‘chẳng thể hành hạnh sa môn’. Ấy là do chúng sanh cơ duyên vô lượng sai khác, sự tu hành lúc còn tu nhân cũng thiên sai vạn biệt, mỗi người mỗi khác chẳng ai giống nhau.

Tôi trộm nghĩ: kinh chỉ phân chia các phẩm vị một cách sơ lược để giảng sơ về thứ bậc; đây chỉ là tùy bịnh cho thuốc, tùy cơ thuyết pháp nên chúng ta chẳng nên câu nệ một chiều, chết cứng nơi văn tự.

Tôi trộm đoán rằng trong pháp hội Vô Lượng Thọ, ngài A Nan là đương cơ, lại có một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo, năm trăm vị tỳ kheo ni hiện diện. Các bậc đại đức xuất gia như vậy đều đáng dự vào hạng vãng sanh bậc thượng.

Vả lại, kinh này chính là bộ kinh đệ nhất của Tịnh tông nên những điều dạy trong kinh này đều là khuôn phép chánh tông: Bậc xuất gia tu được vãng sanh bậc thượng là chuyện thường tình nên đức Phật thuận theo nhân duyên ấy mà nói người vãng sanh trong bậc thượng là bậc xuất gia, lìa dục, tu hạnh sa môn.

Quán kinh khác hẳn kinh này: Ðương cơ trong pháp hội ấy là Vy Ðề Hy phu nhân, A Nan và Mục Liên chỉ đứng hầu hai bên đức Phật; Thích, Phạm chư thiên đứng trên không đổ mưa hoa [cúng dường]. Trong hội chỉ có hai vị A Nan và Mục Liên là bậc tỳ kheo đại quyền thị hiện, không có bậc xuất gia nào khác. Trong pháp hội, bậc đương cơ nghe pháp và hàng vãng sanh bậc thượng chủ yếu là những người tại gia như Vy Ðề Hy phu nhân… nên Phật ứng theo cơ duyên ấy chẳng nói đến chuyện xuất gia trong phần giảng về thượng phẩm vãng sanh.

Quán kinh cũng dạy: ‘Vy Ðề Hy và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy, ngay lập tức thấy được tướng rộng lớn của thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và thân hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỉ, khen là chưa từng có, hốt nhiên đại ngộ, đạt Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, nguyện sanh cõi kia. Ðức Thế Tôn đều thọ ký họ sẽ được vãng sanh. Sanh trong nước ấy rồi sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam muội. Vô lượng chư thiên phát Vô Thượng Ðạo Tâm’.

Ta thấy rõ, trong pháp hội Quán kinh, bậc đương cơ toàn là căn khí Ðại thừa, lại đều là hạng tại gia phát tâm. Những người như thế chắc chắn là hạng vãng sanh trong bậc thượng.

Vả lại, Vy Ðề Hy phu nhân chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn ngay trong hiện đời nên ắt phải thuộc bậc thượng phẩm thượng sanh nơi cõi Cực Lạc. Vy Ðề Hy là phụ nữ tại gia lại chứng đắc pháp nhẫn ngay trong hiện đời, thượng phẩm vãng sanh đủ chứng tỏ người vãng sanh trong bậc thượng chẳng phải chỉ hạn cuộc trong hạng xuất gia, cũng như chứng tỏ diệu pháp Tịnh tông phá tan mọi quy cách, chí viên, cực đốn chẳng thể nghĩ bàn.

Hơn nữa, sách Báo Ân Luận có nói: ‘Ông Lưu Di Dân ba lượt thấy Phật, [được ngài] dùng áo phủ lên, [được] tay ngài xoa đầu, tự thấy mình thuộc về thượng phẩm, nhưng ông chẳng phải là bậc xuất gia. Với chư tổ của Liên Tông và các vị Duy Ma, Hiền Hộ v.v… hết thảy các bậc vãng sanh danh đức tăng lẫn tục, ta đều có thể dựa theo đó mà suy vậy’. Ðời Tấn, ông Lưu Di Dân hợp cùng ngài Huệ Viễn niệm Phật ở Lô Sơn, được vãng sanh trước cả ngài Huệ Viễn. Ngài Huệ Viễn lúc sắp tịch, vừa xuất định thấy A Di Ðà Phật thân chật cả hư không. Trong viên quang của ngài có các hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước tỏa quang minh chia làm mười bốn nhánh, cùng chảy lên rót xuống, diễn thuyết các âm khổ, không, vô thường, vô ngã. Phật bảo ngài Huệ Viễn: ‘Ta do bổn nguyện lực nên đến an ủi ông; sau bảy ngày nữa, ông sẽ sanh về cõi ta’. Tổ lại thấy, những vị trong Liên Xã đã vãng sanh trước như các vị: Phật Ðà Da Xá, Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân v.v… đều đứng hầu bên Phật, bước đến bảo: ‘Sư phát tâm sớm nhưng sao về muộn thế?’ Lúc còn sống, ông Lưu Di Dân ba lượt thấy Phật; sau khi tịch theo Phật đến đón ngài Huệ Viễn. Ðấy là một chứng cớ chứng tỏ cư sĩ cũng có thể vãng sanh trong thượng phẩm.

Trong kinh Hoa Nghiêm, hàng tại gia chiếm đa số trong năm mươi ba vị thiện tri thức của Thiện Tài đồng tử. Trong Mật tông, tổ sư phái Cát Cư (Kargyupa) là cư sĩ (ngài Mã Nhĩ Ba (Marpa)). Do tổ sư là hàng bạch y nên phái ấy thường được gọi là Bạch giáo. Cư sĩ Duy Ma chính là Kim Túc Như Lai thị hiện. Mười sáu vị Hiền Hộ Chánh Sĩ đều là tại gia Bồ Tát, là thượng thủ hàng Bồ Tát trong hội này. Do vậy, ta chớ nên chấp vào tướng tại gia hay xuất gia mà sanh phân biệt!

Kinh này bảo thượng phẩm vãng sanh là hạng xuất gia, lìa dục; Quán kinh chẳng hề nói thượng phẩm vãng sanh phải là xuất gia. Vy Ðề Hy phu nhân là nữ nhân tại gia lại được thượng phẩm vãng sanh; năm trăm thị nữ cũng thượng phẩm vãng sanh.

Thật ra, hai kinh chẳng hề mâu thuẫn với nhau vì Vy Ðề Hy phu nhân đã mang tâm xuất gia. Ví dụ như ở Trung Hoa, phương Nam coi gạo là thực phẩm chủ yếu, phương Bắc coi lúa mì là thực phẩm chính. Gạo, mì tuy khác nhưng đều có công dụng làm thực phẩm chủ yếu nên cũng như nhau. Vì vậy, người tại gia mang tâm xuất gia cũng có thể sanh trong thượng phẩm.

Trong Quán kinh, sau bậc thượng phẩm, trung trung phẩm là người xuất gia; kinh Vô Lượng Thọ dạy người tại gia cũng có thể sanh trong phẩm này. Phối hợp cả hai kinh ta mới dễ nhận ra ý nghĩa chơn thật. Vì vậy, phải nên khéo hiểu thánh tâm, chớ đừng chấp chết cứng vào văn tự. Nếu hiểu câu ‘bỏ nhà, lìa dục’ là chú trọng tại tâm xuất gia thì ý chỉ cả hai kinh thật chẳng sai khác.

Câu ‘phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Ðà Phật’ chính là cương lãnh của toàn bộ kinh này. Câu này đã được bàn tỉ mỉ trong phần nói về tông thú. Sách Di Ðà Yếu Giải coi ‘tín, nguyện, trì danh’ là tông của kinh Tiểu Bổn; bản chú giải này lại dùng ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’ làm tông, nhưng vẫn cùng một ý chỉ. Tín - nguyện chính là một trong ba tâm nói trong Quán kinh: một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Theo Tứ Thiếp Sớ:

a. Chí thành tâm là chơn thật tâm,

b. Thâm tâm là thâm tín tâm. Thâm tín tâm có hai điều:

- Một là tin quyết định một cách sâu xa rằng thân mình hiện tại là phàm phu tội ác, từ bao kiếp đến nay thường chìm đắm, lưu chuyển chẳng có duyên gì để xuất ly.

- Hai là tin quyết định một cách sâu xa rằng bốn mươi tám nguyện của đức Phật A Di Ðà nhiếp thọ chúng sanh không còn lo âu, ngờ vực gì. Nương theo nguyện lực của ngài, quyết định được vãng sanh.

c. Hồi hướng phát nguyện tâm là từ trong tâm tin tưởng sâu xa chơn thật, đem hết thảy thiện căn đã tu hồi hướng nguyện sanh cõi kia.

Do đó, ta thấy rằng ‘tín nguyện’ sách Yếu Giải nói đó chính là ba tâm của Quán kinh, mà ba tâm của Quán kinh lại chính là Bồ Ðề tâm nói trong kinh này. ‘Phát Bồ Ðề tâm’ nói trong kinh này chính là ‘tín nguyện’ nói trong Di Ðà Yếu Giải. Hơn nữa, ‘một bề chuyên niệm’ chính là Trì Danh. Do hai bản Ðại, Tiểu A Di Ðà kinh nguyên lai chỉ là một kinh nên tông của hai kinh ắt phải đồng nhất.

Trong phần giảng về tông thú đã giảng kỹ về ‘phát Bồ Ðề tâm’ nên ở đây chẳng bàn nhiều. Tôi chỉ trích vài đoạn trong phần luận về Bồ Ðề tâm của An Lạc Tập để độc giả tham khảo thêm. An Lạc Tập do ngài Ðạo Xước soạn, bàn luận những điểm rất tinh yếu.

Dưới đây tôi sẽ trích nguyên văn, có chú giải đôi chút nhằm giảng rõ phần nào lời luận. Ðạo Xước đại sư đã lập ra bốn điều nghị luận quanh việc phát Bồ Ðề tâm:

* Một là bàn về công dụng của Bồ Ðề tâm. Sách An Lạc Tập viết:

‘Thứ nhất là nêu lên công dụng của Bồ Ðề tâm. Ðại Kinh bảo phàm muốn vãng sanh Tịnh Ðộ thì phải lấy Bồ Ðề tâm làm gốc. Vì sao?

Bồ Ðề chính là tên gọi của Vô Thượng Phật Ðạo. Nếu muốn phát tâm làm Phật thì tâm ấy rộng lớn trùm khắp pháp giới. Tâm ấy rốt ráo, ngang với hư không. Tâm ấy lâu xa đến cùng tận đời vị lai. Tâm ấy trọn khắp, lìa nhị thừa chướng.

Nếu phát được tâm ấy thì khuynh đảo được sanh tử vô thỉ và trầm luân trong các cõi. Ðem tất cả công đức hồi hướng Bồ Ðề thì đều có thể đạt tới Phật quả, chẳng bị diệt mất’.

Tôi xin tạm giải thích thô thiển như sau: Trước hết, luận dẫn Ðại kinh để nói lên công dụng của Bồ Ðề tâm. Ðại kinh chính là kinh Vô Lượng Thọ. Các vị Tịnh Ảnh, Ðạo Xước, Thiện Ðạo đều gọi kinh Vô Lượng Thọ là Ðại kinh; ngài Thiên Thai gọi là Ðại Bổn.

Tâm Bồ Ðề chính là cái gốc để vãng sanh Tịnh Ðộ. Nếu chẳng phát được tâm này thì dẫu cứ siêng tu nhưng cũng khác nào nước chẳng có nguồn, cây không có cội nên trọn chẳng thể vãng sanh được. Từ chữ ‘cớ sao’ trở đi là lời giải nghĩa.

Bồ Ðề nghĩa là Giác. Vô Thượng Giác chính là Phật. Vì vậy, Bồ Ðề là danh xưng khác của Vô Thượng Phật Ðạo. ‘Phát tâm làm Phật’ nghĩa là phát khởi cái tâm ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’.

Phát khởi được tâm như thế thì ta vốn đã là Phật, cái tâm ‘làm Phật’ này vốn sẵn đã là cái tâm ‘là Phật’ nên luận nói tiếp: tâm này ‘rộng lớn’; về chiều dọc thì suốt cả ba đời, về chiều ngang thì trọn khắp hư không. ‘Rốt ráo’ là chơn tế rốt ráo, là tột cùng của nguồn pháp. Chữ ‘lâu xa’ diễn tả tâm ấy sáng suốt, lặng lẽ, chơn thường, vĩnh viễn thoát khỏi sanh diệt. ‘Trọn khắp’ là đầy đủ hết thảy, không thiếu, không dư. Tâm như vậy có công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Nếu phát được tâm ấy thì có thể dẹp sạch mối sanh tử từ vô thỉ đến nay cũng như sự trầm luân trong các cõi. Nếu lại có thể đem công đức hồi hướng Bồ Ðề thì quyết định chứng được Phật quả. Tất cả công đức ấy nhất định chẳng luống uổng, cũng chẳng bị tổn thất hay diệt mất.

Lời dạy này của tổ Ðạo Xước đã chỉ thẳng vào ngay công dụng của Bồ Ðề tâm: vượt ra ngoài khả năng suy lường, hiểu biết của chúng ta, thật là vi diệu khó nghĩ bàn.

Xin lại dẫn Bồ Ðề Tâm Luận của Mật tông để chứng minh thêm; luận nói: ‘Tâm Bồ Ðề này chứa đựng hết thảy công đức của Bồ Tát. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư cho hết thảy. Nếu quay trở về gốc thì chính là cõi nước Mật Nghiêm. Chẳng đứng dậy khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự’. Công dụng của Bồ Ðề tâm thật chẳng thể nghĩ bàn.

* ‘Thứ hai là nêu lên danh và thể của Bồ Ðề, nhưng Bồ Ðề có đến ba thứ: một là Pháp Thân Bồ Ðề, hai là báo thân Bồ Ðề, ba là hóa thân Bồ Ðề.

a. Pháp thân Bồ Ðề chính là Chơn Như, Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không, tự tánh thanh tịnh. Thể không uế nhiễm, lý xuất thiên chơn, chẳng cần phải tu thành nên gọi là Pháp Thân; là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ Ðề.

b. Báo thân Bồ Ðề là tu đủ vạn hạnh, cảm được cái quả báo thân Phật. Do quả tương ứng cái nhân nên gọi là báo thân. Viên thông vô ngại nên gọi là Bồ Ðề.

c. Hóa thân Bồ Ðề là từ báo khởi dụng, hướng đến muôn vàn căn cơ nên gọi là hóa thân, lợi ích chúng sanh một cách viên thông nên gọi là Bồ Ðề’.

Xin giải thích: Thứ hai là bàn về danh và thể của Bồ Ðề, chia ra thành Pháp, Báo, Hóa ba thân để luận.

Pháp thân Bồ Ðề chính là Chơn Như, Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không. Câu ‘tự tánh thanh tịnh, thể không nhiễm uế’ chính là như Lục Tổ bên Thiền Tông nghe câu ‘vô trụ sanh tâm’ chợt đại ngộ, bèn nói: ‘Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh’. Ý nghĩa của câu ‘lý xuất thiên chơn, chẳng cần phải tu thành’ giống như câu ‘nào ngờ tự tánh, vốn tự đầy đủ’ (‘lý xuất thiên chơn’ nghĩa là lý tự nhiên như vậy, khác nào những chơn lý hiển nhiên trong trời đất). Do vốn tự đầy đủ nên nào cần phải tu thành. Ngũ Tổ nghe nói như thế bèn trao y bát, lập ngài Huệ Năng làm Tổ thứ sáu. Ngài cũng nói: ‘Chẳng biết bổn tâm thì học pháp vô ích. Nếu biết rõ bổn tâm của chính mình, thấy tự tánh của chính mình thì đáng gọi là trượng phu, thiên nhân sư, Phật’.

Lúc ấy, đại sư Huệ Năng còn chưa xuống tóc, vẫn còn là người làm công trong chùa; một phen phát ngộ tâm này bèn thăng ngay lên địa vị tổ sư. Ðây chính là như Bồ Ðề Tâm Luận nói: ‘Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư cho hết thảy… Chẳng đứng dậy khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự’.

Tâm Bồ Ðề vượt thoát phàm tình, công dụng khó nghĩ tưởng. Tâm tánh như vậy được gọi là Pháp Thân. Tâm tánh ấy là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ Ðề.

Tiếp đó, ngài giảng về báo thân. Pháp thân vốn sẵn đủ chính là tánh đức. Có công tu đức thì tánh đức mới được hiển lộ. Vì vậy, phải tu đủ vạn hạnh, công đức trang nghiêm mới đắc báo thân Phật quả. Báo thân viên minh cụ đức, thông đạt vô ngại nên bảo là ‘viên minh vô ngại’, nên gọi là ‘báo thân Bồ Ðề’. Từ báo thân hiện ra hóa thân, tùy căn cơ mà hóa hiện, diệu dụng vô cùng nên bảo là ‘lợi ích chúng sanh một cách viên thông’ và gọi là báo thân Bồ Ðề.

* ‘Thứ ba là chỉ rõ phát tâm có sai khác. Nay nói về hành giả tu nhân phát tâm thì phải có đủ ba điều:

a. Một là cần phải hiểu thấu hữu, vô, tự tánh thanh tịnh từ xưa đến giờ.

b. Hai là duyên tu vạn hạnh, tám vạn bốn ngàn ba la mật môn v.v…

c. Ba là đại từ bi làm gốc, luôn lấy việc độ sanh làm bản hoài

Ba nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề nên gọi là phát tâm Bồ Ðề.

Lại như Tịnh Ðộ Luận (tức là Vãng Sanh Luận) bảo: «Nay phát Bồ Ðề tâm chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh vào cõi có Phật. Nay nguyện sanh Tịnh Ðộ thì trước hết cần phải phát Bồ Ðề tâm».

Xin giải thích: Phát tâm có sai khác nghĩa là có hai loại phát tâm:

- Trước hết, trong khi còn tu nhân cần phải phát khởi ba thứ tâm sau đây:

a. Một là cần phải hiểu thấu hữu, vô và tự tánh vốn sẵn thanh tịnh từ xưa đến nay.

Câu ‘hiểu thấu có, không’ chính là mấu chốt huyền nhiệm để giải ngộ cái tâm. ‘Vô’ chính là như những chữ ‘vô’ được nêu lên liên tục từ ‘vô nhĩ căn’ cho đến ‘vô trí diệc vô đắc’ trong Tâm kinh; và cũng giống như kinh Niết Bàn dạy: ‘Lần lượt thuận, nghịch nhập siêu thiền định như thế, lại bảo đại chúng: «Ta dùng Phật nhãn xem khắp hết thảy các pháp trong tam giới, tánh của vô minh bổn tế vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn chẳng thể được. Do gốc là không nên với cành lá đều được giải thoát. Giải thoát khỏi vô minh cho đến với lão tử đều được giải thoát. Do nhân duyên ấy, ta nay an trụ trong Thường Tịch Diệt Quang, gọi là Ðại Niết Bàn». Ðây chính là lời dạy từ bi tha thiết tối hậu của đức Thế Tôn. Ðại sư Vĩnh Minh đã nguyện trong vô lượng kiếp sẽ lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực biên chép đoạn văn trên để báo đáp từ ân.

Vô minh vốn là không nên làm gì có cành lá; hiểu vọng vốn là không nên chơn tánh tự hiển lộ. Ðó là hiểu biết nghĩa cốt yếu của chữ ‘Vô’. Còn ‘biết hữu’ là như nhà Thiền thường bảo: ‘Cần phải biết hữu thì mới đắc’. Trong Tâm Vương Minh, ngài Phó Ðại Sĩ cũng bảo: ‘Muối hòa trong nước, nước vẫn trong veo, quyết định là có nhưng chẳng thấy hình dáng. Tâm vương cũng thế: ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, thích ứng theo từng tình huống tự tại vô ngại, hoàn thành các việc’. Bài minh đã dùng thí dụ để chỉ rõ ai cũng tự có tâm vương. Tâm vương quyết định là có, tùy theo sự vật, tình huống phát huy diệu dụng nhưng chẳng thấy được hình dáng của tâm vương.

Kinh Niết Bàn còn dạy: ‘Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh’. ‘Biết hữu’ là biết có Phật tánh vậy. Sách Tâm Ðăng Lục bảo: ‘Do đó, cổ đức đều muốn ai cũng phải biết hữu. Nếu chẳng biết hữu thì toàn là hư vọng’. Trên đây tôi đã giải thích thế nào là ‘biết hữu’‘biết vô’ để giảng câu ‘thấu đạt hữu, vô’.

‘Hiểu thấu’ còn có nghĩa là hiểu rõ cái tâm, thấu đạt cái gốc, hiểu rõ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh từ xưa đến nay. Tánh ấy giống như trực tâm được nói trong Ðại Thừa Khởi Tín Luận. Trực tâm là chánh niệm pháp Chơn Như.

b. Hai là ‘duyên tu vạn hạnh’, điều này tương đương với thâm tâm trong bộ luận trên: thích tu hết thảy các hạnh lành.

c. Ba là ‘đại từ bi làm gốc’ tương đương với đại bi tâm trong luận Khởi Tín: muốn dẹp tan hết nỗi khổ của chúng sanh.

Ba thứ phát tâm như vậy tương đương với ba tâm trong luận Khởi Tín nên bảo: ‘Ba nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề’. Vì vậy, phát lên ba tâm ấy chính là phát Ðại Bồ Ðề tâm.

- Tiếp đó, ngài Ðạo Xước dẫn Vãng Sanh Luận: Bồ Ðề tâm chính là tâm nguyện thành Phật độ sanh, tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật.

Thoạt nhìn, nếu so với tâm trước thì tâm này dễ phát khởi hơn, nhưng thật ra chẳng phải như vậy. Bởi vì pháp môn Vãng Sanh Tịnh Ðộ thật là pháp khó tin. Tín tâm chưa sanh làm sao phát tâm nổi? Trong kinh A Di Ðà, mười phương chư Phật đã xưng tán đức Bổn Sư ở trong đời ngũ trược ‘nói pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi’. Phẩm ‘Riêng lưu lại kinh này’ của kinh Vô Lượng Thọ đây cũng bảo: ‘Nếu nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì được thì đó là điều khó nhất trong các điều khó, không có gì khó hơn nổi’. Rõ ràng là tin nổi pháp môn Tịnh Ðộ đã là một điều khó khăn nhất trong các điều khó trong thế gian!

Tin được pháp khó tin này thì chính là đại trí. Thuận theo tín tâm ấy phát khởi chí nguyện thành Phật độ sanh cùng chứng Tịnh Ðộ; đó chính là tâm Bồ Ðề. Chỉ cần chơn thật tin nhận thì tự nhiên phát nổi những tâm như trên đã nói. Ðây lại chính là phương tiện thù thắng của Tịnh Tông.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Tin sâu phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Ðề’. Bởi vậy, người niệm Phật cần phải sớm sanh tín, nguyện vì đó chính là phát tâm Bồ Ðề vậy.

* ‘Thứ tư là vấn đáp, giải thích.

Hỏi: Nếu tu đủ muôn hạnh cảm được Bồ Ðề, được thành Phật quả, thì sao kinh Chư Pháp Vô Hành lại bảo: «Nếu ai cầu Bồ Ðề thì chẳng có Bồ Ðề. Người ấy cách xa Bồ Ðề như trời với đất!».

Xin giải thích: Có kẻ dựa vào kinh Chư Pháp Vô Hành dạy: Nếu ai cầu Bồ Ðề thì chẳng có Bồ Ðề để đắc, sự mong cầu ấy càng cách xa Bồ Ðề như trời cách xa đất. Nếu đã là như vậy, thì nay tại sao lại bảo phải tu vạn hạnh để đạt được quả Bồ Ðề ngõ hầu thành Phật? Dưới đây là lời đáp của tổ:

‘Chánh thể của Bồ Ðề là lý cầu vô tướng. Nay dùng tướng để cầu thì chẳng đúng với thật lý nên bảo là người ấy xa cách. Vì vậy, kinh dạy chẳng thể dùng tâm, chẳng thể dùng thân để đắc Bồ Ðề’.

Xin giải thích: Bản tánh chơn chánh của Bồ Ðề khế hợp với lý nên không có hết thảy tướng. ‘Lý’ là thật tế lý thể, cũng chính là Chơn Như Thật Tướng. Hành nhân nếu dùng tướng để cầu, ý mong cầu quả Bồ Ðề và có pháp để cầu Bồ Ðề thì đều là pháp chấp, đều là tạo tướng nên tự xa lìa thật tế lý thể. Do vậy, mới bảo là ‘chẳng đúng với thật lý’. Vì vậy, người ấy xa cách Bồ Ðề.

‘Nay tuy biết tu hành cầu vãng sanh, hiểu biết rõ ràng lý thể là vô cầu, nhưng chẳng hoại giả danh nên tu đủ các hạnh. Do đó, sẽ cảm được Bồ Ðề. Vì vậy, Trí Ðộ Luận bảo: «Nếu ai thấy Bát Nhã là bị trói buộc. Nếu ai chẳng thấy Bát Nhã thì cũng bị trói buộc. Nếu ai thấy Bát Nhã thì được giải thoát, nếu ai chẳng thấy Bát Nhã thì cũng được giải thoát». Long Thọ Bồ Tát giảng: «Nếu ở trong ấy mà chẳng lìa được tứ cú (4) thì bị trói buộc. Lìa tứ cú thì được giải thoát».  Nay muốn cầu Bồ Ðề thì chỉ nên tu hành như thế, ấy chính là chẳng hành mà hành. Chẳng hành mà hành là chẳng trái nghịch đại đạo lý Nhị Ðế’.

Xin giải thích: Chẳng hành mà hành chính là vô cầu mà cầu. Tuy biết lý thể là vô cầu, Bồ Ðề chẳng thể đắc nhưng vẫn tu đủ vạn hạnh để cảm Bồ Ðề, khéo khế hợp với Trung Ðạo nên có thể cảm ứng, khế hợp.

Tiếp đó, sách An Lạc Tập dựa vào Tịnh Ðộ Luận đề xướng: phàm muốn phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề thì trước hết phải xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn:

‘Một là môn nương vào trí huệ, chẳng cầu tự vui do xa lìa ngã tâm, tham chấp tự thân.

Hai là môn nương vào từ bi, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh do xa lìa tâm chẳng an lạc chúng sanh.

Ba là môn nương vào phương tiện, tâm thương xót hết thảy chúng sanh do xa lìa tâm cung kính, cúng dường thân mình.

Ðó gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn’.

Xin giải thích: Ba thứ pháp trái nghịch được nói trong luận chính là: một là ‘ngã tâm, tham chấp tự thân’, hai là ‘tâm không an lạc chúng sanh’, ba là ‘tâm cung kính cúng dường tự thân’. Cần phải xa lìa ba tâm này.

Sách An Lạc Tập viết tiếp: ‘Bồ Tát xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn như thế liền đắc ba pháp tùy thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba?

a. Một là Vô Nhiễm Thanh Tịnh tâm do chẳng vì thân mình cầu các sự vui. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh vô nhiễm, nếu vì tự thân cầu sự vui thì trái nghịch với Bồ Ðề môn. Do đó, tâm vô nhiễm thanh tịnh là tùy thuận Bồ Ðề môn.

b. Hai là An Thanh Tịnh tâm vì dẹp trừ hết thảy khổ cho chúng sanh. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh an ổn hết thảy chúng sanh; nếu chẳng khởi tâm làm cho hết thảy chúng sanh được lìa cái khổ sanh tử thì trái nghịch với Bồ Ðề môn. Do vậy, dẹp hết thảy nỗi khổ của chúng sanh là tùy thuận Bồ Ðề môn.

c. Ba là Lạc Thanh Tịnh tâm vì muốn cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Ðề, vì để nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi Phật ấy. Bồ Ðề là chốn thường vui một cách rốt ráo. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh được hưởng cái vui rốt ráo thì trái nghịch với Bồ Ðề môn.

Nương vào đâu để đạt được cái vui rốt ráo ấy? Cần phải nương vào Ðại Nghĩa Môn. Ðại Nghĩa Môn chính là cõi Phật An Lạc. Vì vậy, ta phải làm cho hết thảy chúng sanh chuyên chí nguyện sanh cõi kia, muốn cho họ chóng chứng Vô Thượng Bồ Ðề’.

Trên đây, trong lời luận về pháp trái nghịch và tùy thuận Bồ Ðề môn, thật ra ngài Ðạo Xước đã chỉ rõ sự sai khác giữa những pháp tùy thuận và trái nghịch với phát tâm. Hễ đã phát tâm thì phải tu Tịnh nghiệp, thường phải nên lãnh hội rốt ráo, chớ tự trái nghịch Bồ Ðề môn, trái nghịch bổn nguyện, tự mình chướng ngại việc vãng sanh của chính mình.

Với tông chỉ ‘một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật’, sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Trong hết thảy phương tiện, tìm lấy pháp thẳng chóng nhất, pháp viên đốn nhất thì không có gì bằng pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Lại trong hết thảy pháp niệm Phật, tìm lấy pháp giản dị nhất, pháp ổn đáng nhất thì không gì bằng tín nguyện, chuyên trì danh hiệu’.

Sách còn viết: ‘A Di Ðà Phật là vạn đức hồng danh. Dùng danh hiệu để chiêu cảm vạn đức thì không công đức nào là chẳng đạt được. Do đó, chấp trì danh hiệu là chánh hạnh, chẳng cần phải tu các hạnh: quán tưởng, tham cứu v.v…thật rất giản dị, rất thẳng chóng’.

Sách Viên Trung Sao cũng nói: ‘Kinh này dạy kẻ phàm phu sơ tâm chỉ cần có miệng xưng niệm được, có tâm để tưởng niệm được thì đều tu được. Vì vậy kinh này dạy ra pháp môn hết sức đơn giản, hết sức dễ dàng vậy’, ‘nếu chấp trì danh hiệu thì chẳng luận bận, rảnh, chẳng kể động, tịnh, đi, đứng, nằm, ngồi đều tu được cả. Do vậy kinh này dạy ra pháp môn hết sức thẳng tắt vậy’ và: ‘Pháp xưng danh chẳng lựa hiền, ngu, chẳng phân biệt nam, nữ, dù giầu hay nghèo, dẫu sang hay hèn cũng đều tu được. Vì vậy kinh này chỉ ra pháp môn nhiếp trọn các căn cơ hết sức rộng lớn vậy’.

Sách Du Tâm An Lạc Ðạo cũng nói: ‘Danh hiệu chư Phật do vạn đức chung đúc thành. Chỉ cần niệm được danh hiệu một đức Phật thì trong một niệm ấy đã niệm đủ vạn đức’ và: ‘Vô thỉ ác nghiệp từ vọng tâm sanh, công đức niệm Phật từ chơn tâm khởi. Chơn tâm như mặt trời, vọng tâm như bóng tối. Chơn tâm vừa khởi, vọng tâm liền mất như mặt trời vừa mọc, các sự tối tăm đều tiêu’.

Sách An Lạc Tập còn dẫn kinh Quán Phật Tam Muội như sau:

‘Phật khuyên phụ vương hành Niệm Phật tam muội. Phụ vương bạch Phật:

- Quả đức của Phật địa là Chơn Như Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không, sao Phật chẳng dạy đệ tử hành theo?

Phật bảo phụ vương:

- Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, chẳng phải là cảnh giới của phàm phu hành nổi nên Phật khuyên phụ vương hành Niệm Phật tam muội.

Phụ vương bạch Phật: ‘Công năng của niệm Phật ra sao?’

Phật bảo: - Như giữa cánh rừng y lan rộng đến bốn mươi do tuần, có một cây ngưu đầu chiên đàn tuy đã bén rễ, nảy mầm, nhưng chưa trồi lên khỏi mặt đất, rừng y lan chỉ có mùi thối không thơm tho gì. Nếu có kẻ nào ăn phải hoa quả của cây y lan sẽ phát cuồng mà chết. Lúc sau, mầm cây chiên đàn dần dần tăng trưởng, vừa sắp mọc thành cây thì mùi thơm đã ngào ngạt, đủ sức biến đổi cả khu rừng đó thành ra thơm ngát cả. Chúng sanh trông thấy sanh lòng hy hữu.

Phật bảo phụ vương:

- Tâm niệm Phật của hết thảy chúng sanh trong sanh tử cũng giống như thế. Chỉ cần hệ niệm chẳng ngơi thì quyết sẽ sanh ở trước Phật. Một phen đã vãng sanh liền biến cải hết thảy các ác thành đại từ bi như cây có mùi thơm kia biến cải cả rừng y lan’.

Rừng y lan vừa nói ví cho tam độc, tam chướng, vô biên các tội trong thân chúng sanh. Chiên đàn ví cho tâm niệm Phật của chúng sanh. ‘Vừa sắp mọc thành cây’ là hết thảy chúng sanh chỉ cần niệm liên tục chẳng ngơi thì đạo nghiệp sẽ hoàn thành.

Kinh Ðại Bi cũng dạy: ‘Xưng danh hiệu Phật một tiếng thì do căn lành ấy nhập vào Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận’.

Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức cũng nói: ‘Nếu có kẻ được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật Như Lai mà nhất tâm tin ưa, trì, phúng (5) tụng niệm… kẻ ấy sẽ được vô lượng phước, sẽ vĩnh viễn xa lìa ách nạn tam đồ. Sau khi mạng chung đều được vãng sanh trong cõi đức Phật kia’.

Kinh Văn Thù Bát Nhã cũng nói: ‘Chúng sanh ngu độn tuy quán nhưng chẳng hiểu nổi, chỉ nên dạy họ [giữ được] tiếng niệm liên tục thì sẽ tự được vãng sanh’.

Sách Tịnh Tu Tiệp Yếu còn khen ngợi pháp môn Niệm Phật như sau: ‘Sáu chữ thống nhiếp vạn pháp, một môn chính là phổ môn. Toàn thể sự là lý, toàn thể vọng đều quy về chơn, hoàn toàn từ tánh khởi tu, hoàn toàn tu nơi tánh. Học rộng vốn là thâm nhập, chuyên tu chính là tổng trì. Từng tiếng, từng tiếng đánh thức chính mình, từng niệm, từng niệm chẳng lìa bổn tôn’.

Sách còn viết: ‘Vô Lượng Thọ Quang là Bổn Giác của ta. Khởi tâm niệm Phật gọi là Thỉ Giác. Mượn y báo, chánh báo của Phật để hiển lộ tự tâm của chính mình. Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng rời nhau, thẳng tiến trên con đường giác ngộ. Mới hơi trái nghịch đã đọa vào vô minh’.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận cũng nói: ‘Cần phải biết rằng một pháp Trì Danh thật là giản yếu nhất. Hành giả lúc sơ phát tâm phải chú trọng định khóa: Mỗi ngày niệm ngàn tiếng hoặc vạn tiếng hoặc mười ức tiếng, từ ít đến nhiều, từ tán nhập định, tùy theo niệm lực đều được vãng sanh’.

Sách An Lạc Tập cũng bảo: ‘Xưng danh cũng như vậy, chỉ nên chuyên chí liên tục chẳng dứt thì quyết định sanh về trước Phật. Nay khuyên hàng hậu học nếu muốn lãnh hội Nhị Ðế thì chỉ cần hiểu niệm niệm là bất khả đắc, đấy chính là Trí Huệ Môn. [Tuy hiểu như vậy] nhưng vẫn hệ niệm liên tục chẳng ngơi thì chính là Công Ðức Môn.

Vì vậy, kinh nói Bồ Tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức và trí huệ để tu tâm mình. Nếu là kẻ mới học chưa thể phá được tướng thì chỉ nên dựa theo tướng mà chuyên chí thì không ai chẳng được vãng sanh, chẳng còn ngờ gì nữa’.

Những hành nhân hiện tại nên tin chắc lời dạy ấy, chẳng cần phải ly tướng trước làm gì, chỉ cần trì danh chăm chỉ, ròng rặt, bền chắc: ‘Nương theo tướng mà chuyên chí thì không ai chẳng được vãng sanh’. Ðấy chính thật là kim chỉ nam để dẫn chúng sanh vượt khỏi biển sanh tử vậy.

Trên đây, tôi đã dẫn rộng các kinh luận để chứng minh lợi ích thù thắng của pháp Trì Danh Niệm Phật.

Trì Danh phải chuyên chí, phải ‘một bề chuyên niệm’ như sách Quán Niệm Pháp Môn bảo: ‘Phật nói hết thảy chúng sanh căn tánh bất đồng, có: thượng, trung, hạ. Với mỗi căn tánh, Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật.

Hỏi: Năm thứ nhân duyên (chỉ ngũ niệm môn) đều là Tịnh nghiệp, sao lại chỉ với pháp Niệm Phật bảo phải ‘nhất hướng’?

Ðáp: Có ba nghĩa:

a. Một là do phế các hạnh [khác, chỉ] lập Niệm Phật mà nói như thế.

b. Hai là để hỗ trợ chánh nghiệp Niệm Phật nên nói ra các hạnh trợ nghiệp.

c. Ba là do Niệm Phật là chánh, các hạnh là phụ nên bảo là nhất hướng’.

Xin giải thích như sau: Câu ‘nhất hướng chuyên niệm’ (một bề chuyên niệm) có đến ba nghĩa:

a. Một là phế bỏ các hạnh, chuyên lập hạnh Niệm Phật, chỉ đề xướng một câu Phật hiệu, thâm nhập một môn, chẳng lẫn tạp các pháp khác; phế hết các hạnh, chỉ lập một pháp niệm danh hiệu Phật. Ðấy gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

b. Hai là chỉ lấy Niệm Phật làm chánh nghiệp. Ðể hỗ trợ chánh nghiệp này nên tu các hạnh khác. Niệm Phật là chánh, các hạnh khác là phụ trợ. Chánh nghiệp thống lãnh các trợ nghiệp, trợ nghiệp phụ thuộc chánh nghiệp. Chánh và trợ viên dung, cùng vào trong Di Ðà Nhất Thừa nguyện hải nên bảo là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

c. Ba là Niệm Phật là chánh, các hạnh là phụ. Chánh, phụ khác nhau, thứ tự phân minh. Lấy nhất hướng chuyên niệm là chủ yếu tuy chẳng bỏ tu các hạnh khác thì vẫn gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

Lời luận trên rất ổn đáng. Vì thế, người niệm Phật không ai chẳng kiêm tu các môn lễ bái, phát nguyện, hồi hướng v.v…

Theo như những thuyết trên thì người niệm Phật có thể kiêm trì các chú Vãng Sanh, Ðại Bi, Chuẩn Ðề… hoặc kiêm trì tụng các kinh như Tâm Kinh, Kim Cang v.v… nhưng phải phân định rạch ròi chánh hạnh, trợ hạnh, niệm Phật miên mật thì mới chẳng trái với ‘nhất hướng chuyên niệm’. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận đã giảng rõ ý chỉ ấy. Sách viết:

‘Hành giả đã phát tâm Bồ Ðề thì nên tu vạn hạnh Bồ Tát. Với tất cả điều thiện thế gian hay xuất thế gian dù là nhỏ như mảy lông cho đến vô biên công đức đều dùng thâm tâm, chí thành tâm hồi hướng Cực Lạc thì cũng gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’. Chẳng cần buông bỏ trăm việc mới gọi là chuyên niệm. Do Phật tánh hiện diện trọn khắp hết thảy chỗ nên còn có buông, có bỏ thì chẳng gọi là Niệm Phật’.

Lời luận này thật khế hợp thời cơ, người đời hiện tại bận bịu lắm việc khó lòng buông bỏ tất cả để suốt ngày niệm Phật. Chỉ cần tin sâu, nguyện thiết cầu sanh Tịnh Ðộ. Gặp việc cứ làm, xong việc lại niệm Phật. Thế pháp vốn chẳng trở ngại Phật pháp; huống hồ là với hết thảy hạnh lành thế gian, xuất thế gian đều dùng cái tâm chí thành hồi hướng Cực Lạc. Làm được như vậy thì cũng gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

Theo Khởi Tín Luận, kiêm hành pháp thiện thế gian còn được gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’ huống là kiêm tu các pháp xuất thế. Chẳng hạn như, trong cuốn Phạm Thất Ngẫu Ðàm, Ngẫu Ích đại sư đã viết: ‘Lại nữa, thiền giả muốn sanh về Tây Phương thì chẳng cần phải đổi sang niệm Phật, chỉ đầy đủ tín, nguyện thì tham thiền chính là hạnh Tịnh Ðộ’. Hơn nữa, đại sư từng bế quan kết đàn trì chú Vãng Sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ngài lại còn viết những bài kệ để phát thệ. Kệ rằng:

‘Con dùng chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng tâm, đốt tay ba cây hương (dùng ba cây hương đốt cánh tay), kết một thất tịnh đàn (kết đàn nghiêm tịnh để tụng chú trong bảy ngày liền), chuyên trì chú Vãng Sanh, chỉ trừ lúc ăn ngủ. Nguyện đem công đức này cầu quyết sanh An Dưỡng’. Những việc ấy chứng tỏ chỉ cần đủ tín nguyện cầu vãng sanh thì dù tham thiền hay trì chú cũng đều là hạnh Tịnh Ðộ.

Tác giả của bộ Di Ðà Viên Trung Sao là U Khê đại sư cả đời tu các pháp sám Pháp Hoa, Ðại Bi, Kim Quang Minh, Di Ðà, Lăng Nghiêm không sót ngày nào. Lâm chung biết trước thời khắc, tay viết năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh rồi cao giọng xướng tựa đề kinh vài lượt, an nhiên mà tịch.

Như vậy, tu sám, trì kinh đều là hạnh Tịnh Ðộ. Do đó, đã phát Bồ Ðề tâm, trì danh hiệu Phật thì dẫu có kiêm tu các pháp khác cũng được coi là ‘nhất hướng chuyên niệm’, cũng được vãng sanh.

Nhưng kiêm tu nhiều môn chẳng bằng thâm nhập một môn, nhất tâm chuyên chí xưng niệm Di Ðà thì mới dễ khiến chỗ chín biến thành chỗ sống, chỗ sống biến thành chỗ chín. Ái nhiễm tham đắm là chỗ chín của chúng sanh. Bồ Ðề chánh niệm là chỗ sống sít của chúng sanh. Chỗ sống sít biến thành chín rục thì lúc lâm chung, khi bị các khổ bức bách mới vẫn khởi lên được câu niệm Phật hòng cảm được Phật tiếp dẫn để được vãng sanh.

Vì vậy Thiện Ðạo đại sư khai thị: ‘Ðại Thánh bi mẫn khuyên thẳng chuyên xưng danh hiệu chính là vì xưng danh là dễ, xưng danh liên tục liền được vãng sanh. Nếu niệm được liên tục thì lấy cả đời làm hạn, mười người tu mười người được vãng sanh, trăm người tu trăm người được vãng sanh. Vì cớ sao? Vì không tạo nghiệp duyên nên được chánh niệm, vì được tương ứng với bổn nguyện của Phật, vì chẳng trái nghịch lời dạy, vì thuận theo lời Phật vậy. Nếu bỏ chuyên niệm đi tu tạp niệm thì trong trăm người tu chỉ được một hai kẻ vãng sanh, trong ngàn người tu chỉ mong được ba bốn người vãng sanh’.

Nói tóm lại, Trì Danh Niệm Phật chính là bổn hoài của chư Phật, là phương tiện rốt ráo, là con đường tắt nhất trong các đường tắt. Ðấy thật là lời luận muôn đời chẳng suy xuyển bởi vì người lúc lâm chung bị muôn khổ bức bách, ngoại trừ trì danh ra khó lòng khởi các hạnh khác nổi. Quán kinh nói: Kẻ ngũ nghịch thập ác đáng đọa ác đạo, lúc lâm chung gặp thiện tri thức ‘dạy cho niệm Phật nhưng người ấy bị khổ bức bách chẳng niệm Phật nổi, thiện hữu bảo rằng: «Nếu ông chẳng niệm đức Phật ấy nổi (tức là chẳng quán tưởng nổi) thì hãy nên xưng danh Vô Lượng Thọ Phật». Chí tâm như thế chẳng để ngớt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật thì do xưng danh đức Phật ấy, trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lúc lâm chung thấy hoa sen vàng giống như vầng mặt trời ở trước mặt người ấy, như trong một niệm liền được sanh về thế giới Cực Lạc’.

Kinh nói lâm chung chẳng thể quán Phật, chỉ có thể niệm danh hiệu Phật; rõ ràng là pháp Trì Danh rất dễ dàng. Lâm chung dễ niệm nên được vãng sanh thật là hết sức ổn đáng vậy. Câu ‘trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử’ chỉ rõ pháp này hết sức viên đốn. Kẻ ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung mười niệm liền được vãng sanh. Phàm phu mang theo nghiệp được bằng ngay với bậc Bổ Xứ.

Pháp trì danh niệm Phật không những đã giản dị, ổn thỏa đến cùng cực mà còn là pháp tối cực viên đốn nên mười phương Như Lai cùng khen ngợi, ngàn kinh muôn luận cùng nêu. Các hành nhân thật phải nên mau phát đại tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật.

Kinh này lấy ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ làm tông. Hai điều trên chẳng thể tách rời được vì phát Bồ Ðề tâm là tín, nguyện; nhất hướng chuyên niệm là hạnh. Ba thứ tín, nguyện, hạnh chẳng thể thiếu một thứ.

Sách Di Ðà Yếu Giải nói: ‘Tin sâu phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Ðề, tín nguyện hợp lại chính là kim chỉ nam cho Tịnh Ðộ. Do vậy, chấp trì danh hiệu mới là chánh hạnh’. Ý ngài nói: tâm Vô Thượng Bồ Ðề là kim chỉ nam để tu Tịnh Ðộ. Nhà hàng hải dùng kim chỉ nam để xác định phương hướng. Nếu muốn vượt biển sanh tử về thẳng bờ kia Cực Lạc thì phải dùng Bồ Ðề tâm để dẫn đường nên tu Tịnh nghiệp chẳng thể không phát Bồ Ðề tâm! Lại do Bồ Ðề tâm ấy mà trì danh hiệu thì mới là chánh hạnh. Nói cách khác: không có Bồ Ðề tâm thì dẫu có trì danh hiệu cũng chưa phải là chánh hạnh.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Nếu không tín, nguyện thì dẫu có trì danh hiệu đến mức gió lay chẳng động, mưa chẳng thấm ướt khác nào tường đồng, vách sắt thì cũng chẳng đắc cái lý vãng sanh. Kẻ tu Tịnh nghiệp chẳng thể chẳng biết điều này’. Nói cách khác, tuy phát Bồ Ðề tâm nhưng chẳng có nguyện, hạnh cầu sanh Tịnh Ðộ, lại tu môn khác thì chẳng phải là căn cơ Tịnh Ðộ nên cũng chẳng được vãng sanh!

Vì vậy, trong cả ba bậc vãng sanh, kinh này đều bảo: ‘Phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’, nghĩa là đó là điều kiện phải có để vãng sanh của ba bậc.

‘Tu các công đức’: xem trong lời nguyện thứ mười chín ‘nghe danh phát tâm’ của đức Di Ðà, ta thấy lời nguyện như sau: ‘Nghe danh hiệu tôi phát tâm Bồ Ðề, phụng hành sáu ba la mật’. Bản Hán dịch còn ghi: ‘Ðối với vô vi đạo, bậc đệ nhất tối thượng sẽ hành Bồ Tát đạo, phụng hành sáu ba la mật, làm sa môn mà chẳng khuyết phạm kinh giới… chí tinh tấn muốn sanh trong cõi Phật Vô Lượng Thọ thì nên niệm chí tâm, chẳng để đoạn tuyệt’. Tổng hợp ý nghĩa cả hai kinh, ta thấy rằng ‘tu các công đức’ là phụng hành sáu ba la mật.

Phần nói về thượng phẩm thượng sanh trong Quán kinh cũng bảo ‘nên đầy đủ giới hạnh’, ‘đọc tụng Ðại thừa’‘tu hành sáu niệm (sáu niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên), hồi hướng phát nguyện’. Thật ra đó cũng chỉ là hành sáu ba la mật.

‘Nguyện sanh cõi ấy’ là như câu: ‘Tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi ta’ trong nguyện thứ mười tám; câu‘lại đem thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi ta’ trong nguyện mười chín, câu ‘chí tâm hồi hướng muốn sanh Cực Lạc thì không ai chẳng được toại ý’‘phát Bồ Ðề tâm, chán ngán thân nữ nguyện sanh cõi ta’ trong nguyện hăm mốt. Những nguyện như vầy đều khuyên phát nguyện hồi hướng, cầu sanh Tịnh Ðộ. Kinh A Di Ðà nói: ‘Chúng sanh nghe vậy phải nên phát nguyện nguyện sanh cõi kia’‘nếu có ai tin thì phải nên phát nguyện sanh về cõi kia’. Kinh cũng bảo: ‘Nếu có kẻ đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước Phật A Di Ðà thì những người ấy đều đắc bất thối chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’. Rõ ràng ‘nguyện sanh cõi ấy’ là điều trọng yếu để được vãng sanh Cực Lạc.

‘Lúc mạng sắp dứt, A Di Ðà Phật và các thánh chúng hiện ra trước người ấy’ chính là nguyện thứ 20 ‘lâm chung tiếp dẫn’ được thành tựu.

Di Ðà nguyện hải chuyên ban cho cái lợi chơn thật. Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ nói: ‘Lúc các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ấy lâm chung thì Vô Lượng Thọ Phật và vô lượng Thanh Văn đệ tử của ngài, các vị Bồ Tát cùng vây quanh trước sau, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến người ấy tâm chẳng loạn. Ðã xả mạng rồi, liền theo Phật chúng hội sanh trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới của Vô Lượng Thọ Phật’. Câu ‘từ bi gia hựu khiến người ấy tâm chẳng loạn’ là tâm tủy của Tịnh tông.

Do Phật lực gia bị nên hành nhân tâm mới được chẳng loạn. Khi đó, mười niệm liên tục liền được vãng sanh. Vì vậy, Tịnh tông được xưng tụng là Quả Giáo, là tha lực pháp môn, là đạo dễ hành, là thuyền từ độ khắp muôn loài ; những lời khen ngợi như vậy đều bắt nguồn từ câu ấy. Kinh nói: ‘Kẻ trong bậc hạ lâm chung mộng thấy đức Phật ấy cũng được vãng sanh’ lại càng hiển thị rõ tha lực thật chẳng thể nghĩ bàn!

‘Tự nhiên hóa sanh trong hoa sen bảy báu’: Kinh nói tự nhiên hóa sanh nhằm chỉ rõ chẳng phải là cách hóa sanh như bốn cách sanh: noãn, thai, thấp, hóa như sách Pháp Hoa Văn Cú nói: ‘Thai Kinh nói: ‘Sanh trong hoa sen chẳng phải là cách hóa sanh như trong bốn cách sanh: noãn, thai, thấp, hóa. Chẳng phải là hóa mà nói là hóa’; lại cũng chẳng phải là thấp sanh như kinh Niết Bàn nói: Cô gái Am La Thọ sanh từ bông hoa của cây ấy (cây Am La) nên gọi là thấp sanh. Do thảo mộc trong uế độ thường có khí ẩm, những kẻ như cô Am La Thọ nương theo hơi ẩm đó mà sanh ra. Trong Tịnh Ðộ, hoa sen cùng người cùng sanh trong một lúc, tự nhiên hóa hiện, chẳng nhờ đến khí ẩm mà sanh nên chẳng phải là thấp sanh vậy.

‘Trí huệ dũng mãnh’ là trí huệ sáng suốt, nhạy bén, phá được quân giặc phiền não, kiêu mạn nên bảo là ‘dũng mãnh’. Trí Ðộ Luận nói: ‘Mũi tên trí huệ cứng bén phá các giặc kiêu mạn’. Kinh Duy Ma cũng bảo: ‘Dùng gươm trí huệ phá giặc phiền não’. Kinh Tâm Ðịa Quán cũng nói: ‘Pháp bảo ví như gươm trí huệ bén nhọn chặt đứt sanh tử vì lìa khỏi hệ phược’.

‘Thần thông tự tại’ là thần thông vô ngại như kinh dạy: ‘Có thể cầm hết thảy thế giới trong lòng bàn tay’.

Quán kinh đã giảng rõ ba phẩm thuộc bậc thượng, nay tôi xin lược trích vài đoạn trong cuốn Quán Kinh Nghĩa Sớ của ngài Gia Tường:

‘a. Thứ nhất là thượng phẩm thượng sanh: phát Bồ Ðề tâm, tu hành suốt bảy ngày thì sanh về cõi ấy, thấy thân Phật ấy, nghe giảng diệu pháp liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phải biết rằng đấy là mức vô sanh của bậc Thất Ðịa.

b. Thứ hai là thượng phẩm trung sanh: chẳng nhất thiết phải đọc tụng kinh Ðại Thừa, chỉ khéo hiểu được nghĩa lý, tin sâu nhân quả, chẳng báng Ðại thừa, đem công đức ấy nguyện sanh cõi kia thì sẽ được vãng sanh trong hoa sen lớn trong ao bảy báu nơi cõi đó. Qua một đêm hoa nở, trải qua một tiểu kiếp đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ðấy chính là mức vô sanh của bậc Thất Ðịa. Trong phẩm trên, thấy Phật nghe pháp đắc ngay vô sanh, còn trong trung phẩm phải qua một tiểu kiếp mới đắc vô sanh.

c. Thứ ba là thượng phẩm hạ sanh. Hạng này cũng tin nhân quả, chẳng báng Ðại thừa, ở trong hoa sen cõi ấy qua một ngày một đêm hoa sen mới nở. Lại phải qua ba tiểu kiếp mới đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Ðịa. Do hạ phẩm đắc Sơ Ðịa vô sanh nên ta biết hai phẩm trên là Thất Ðịa vô sanh’.

Sách Di Ðà Sớ Sao lại bảo trong bậc thượng thượng phẩm, cao nhất là bậc Bát Ðịa. Sách viết: ‘[Giai vị trong] trong thượng thượng phẩm là từ Nhất Ðịa cho đến Bát Ðịa. Một phẩm đã gồm nhiều phẩm nên với các phẩm khác cứ suy ra mà biết’. Như vậy, bậc thượng vãng sanh thấy Phật nghe pháp liền ngộ vô sanh có thể đạt tới bậc Bát Ðịa, đủ chứng tỏ họ là bậc ‘trí huệ dũng mãnh’.

Câu ‘muốn trong đời này được thấy A Di Ðà Phật’ ý nói: hết thảy chúng sanh trong hiện tại và tương lai muốn ngay trong một đời đích thân mắt thấy A Di Ðà Phật. Quán kinh nói thượng phẩm thượng sanh thì ‘A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm đài kim cang cùng Ðại Thế Chí đến trước hành giả. A Di Ðà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, các đại Bồ Tát đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí và vô số Bồ Tát khen ngợi hành giả, khích lệ tâm hành giả. Hành giả nghe xong hoan hỷ hớn hở, tự thấy thân mình ngồi đài kim cang theo sau chân Phật như trong khoảng khảy ngón tay vãng sanh cõi kia’.

Thượng phẩm trung sanh thì ‘lúc mạng sắp hết, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử kim đến trước hành giả, khen rằng: «Ông hành đại thừa hiểu đệ nhất nghĩa; vì vậy ta nay đến nghênh tiếp ông». Ngàn vị hóa Phật cùng xòe tay, hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật, như trong khoảng một niệm liền sanh trong ao bảy báu nơi cõi nước kia’.

Còn thượng phẩm hạ sanh thì ‘hành giả lúc mạng sắp dứt, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí và các Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa ra năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Năm trăm vị hóa Phật cùng lúc đưa tay khen rằng: ‘‘Pháp tử! Nay ông thanh tịnh phát Vô Thượng Ðạo tâm, ta đến đón ông’’. Lúc thấy sự đó liền tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong chắp tay theo sau Thế Tôn, liền được vãng sanh trong ao bảy báu’.

Quán kinh và kinh này cùng bảo trước lúc hành giả chết thấy Phật đến đón; đó chính là ‘ngay trong đời này thấy Phật A Di Ðà’. Ðời ác ngũ trược hiện nay là lúc không có Phật mà lại thấy được đức Phật Di Ðà thì thật là hy hữu, toàn là nhờ vào Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Ðà, sức bất khả tư nghì của sáu chữ hồng danh. Lại cũng do vì hành giả phát tâm Bồ Ðề, một dạ chuyên niệm, rộng tích công đức, phát nguyện hồi hướng, cầu sanh cõi kia nên tương ứng với lời nguyện của Phật. Do đó, có thể thấy đức Phật. Do thấy Phật nên liền được vãng sanh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển, ắt chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

Cuối đoạn kinh này lại nhắc lại: ‘Phải nên phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, lại nên chuyên nghĩ đến cõi nước Cực Lạc’. Ðấy chính là chánh nhân vãng sanh, lại còn bảo thêm: ‘Nên hồi hướng thiện căn đã tích tập’. Do nhân thù thắng nên ắt phải cảm được quả báo mầu nhiệm. Do đó, kinh bảo: ‘Do vậy thấy Phật sanh trong cõi kia, được bất thối chuyển cho đến thành Vô Thượng Bồ Ðề’.

Do lời giải thích này đề cao tha Phật sợ rằng sẽ có kẻ ngờ vực, hiểu lầm Tâm tông nên ở đây tôi xin dẫn lời ba cuốn luận để chứng minh thêm.

a. Một là Linh Phong đại sư viết trong sách Yếu Giải rằng:

‘Hỏi: Tâm này đã làm Phật, tâm này đã là Phật thì sao lại chẳng nói đến tự Phật là rốt ráo mà cứ cho tha Phật hơn tự Phật là vì sao thế?

Ðáp: Pháp môn này hoàn toàn ở chỗ hiểu rõ tha Phật chính là tự Phật. Nếu kiêng nói đến tha Phật thì chính là tha kiến chưa hết. Nếu thiên trọng tự Phật lại là ngã kiến điên đảo.

Hơn nữa, trong bốn lợi ích tất đàn (6), ba thứ lợi ích cuối chẳng thể tự mình phát khởi. Nếu chẳng thể mừng tin sâu xa nơi thế giới [Cực Lạc] thì hai thứ lợi ích: vui [Tịnh Ðộ], chán [Sa Bà] còn chẳng phát sanh nổi huống là ngộ nhập được đức Phật nơi lý tánh. Chỉ có thể dùng sự trì để thấu đạt lý trì. Bởi vậy, Di Ðà và thánh chúng hiện tiền chính là bổn tánh hiện rõ. Vãng sanh cõi kia, thấy Phật nghe pháp chính là thành tựu huệ thân chẳng do người khác mà ngộ.

Pháp môn này thâm diệu phá tan hết thảy hý luận, chặt sạch hết thảy ý kiến, chỉ bậc như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả… mới có thể triệt để gánh vác, thực hiện nổi! Còn thì những kẻ thế trí biện thông, bọn tinh thông cả Thiền lẫn Nho tận sức suy lường thì càng suy nghĩ càng xa vời vợi, chẳng bằng bọn ông già bà lão dốt nát siêng ròng niệm Phật lại ngầm thông được với Phật trí, thầm hợp đạo mầu’.

b. Hai là như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận nói:

‘Hỏi: Lâm chung thấy Phật thì Phật đó là tự Phật hay là tha Phật? Nếu là tha Phật thì thành ra nghiệp ma; nếu là tự Phật lại do tưởng lực tạo thành, hư vọng chẳng thật, làm sao vãng sanh được?

Ðáp: Tự Phật hay tha Phật cũng đều là hý luận.

Ta, người cùng mất, tự tha nào khác. Pháp thân chư Phật trạm nhiên thường tịch. Do bổn nguyện nên cảm ứng đạo giao, là tự mà cũng chính là tha, chẳng hư, chẳng thật, chỉ là một Chơn Như trọn khắp pháp giới.

Chúng sanh do nghiệp duyên nên có sanh tử phần đoạn một cách hư huyễn giống như người ru rú trong nhà chẳng thấy mặt trời. Niệm lực chơn thành, vững chắc thì huyễn duyên hết sạch như thể mái nhà bị thủng, mặt trời chiếu sáng lòa. Tùy ý vãng sanh nhưng vẫn thuộc trong cái vốn sẵn có’.

Lời luận này quét sạch hết thảy phân biệt: tự hay tha, chúng sanh hay Phật đều thành hý luận. Chỉ có một Chơn Như không lay động, trọn khắp, tùy ý vãng sanh Cực Lạc nhưng vẫn không ngoài tự tâm.

c. Ba là như Di Ðà Sớ Sao nói:

Chấp sự mê lý thì khác nào trẻ nít, kẻ u mê đọc sách của bậc thánh nhân đời xưa; mê muội, ấu trĩ nên chỉ đọc mà chẳng hiểu rõ nghĩa. Bởi vậy suốt ngày niệm Phật mà chẳng biết Phật niệm gì.

Chấp lý mê sự thì khác nào kẻ nghèo vớ được bằng khoán của người giàu có liền tự bảo mình giàu to, chẳng biết là mình chỉ đếm của cải người ta, ăn nhằm gì đến mình!

Cũng thế, kẻ tuy biết tâm chính là Phật, Phật chính là tâm lại đi phán đoán tâm chẳng phải là Phật. Vì thế, ước về lý thì không có gì để niệm được; ước theo sự thì trong cái không có gì để niệm được, ta cứ khăng khít niệm. Do niệm tức là vô niệm nên sự lý song tu, bổn trí trở lại thấu đạt Phật trí. Có như vậy mới gọi là đại trí’.

Sách Sớ Sao còn nói: ‘Dẫu chấp sự mà niệm thì vẫn chẳng mất công lao, vẫn đạt được các phẩm; ngược lại, chấp lý mà tâm chưa tỏ ngộ thì bị mắc họa đọa lạc’.

Lời Sao viết: ‘Giả sử cuồng huệ phóng túng tham đắm ngoan hư (ngoan không), chưa từng tỏ ngộ bổn tâm mà lại khinh Tịnh Ðộ, miệt thị vãng sanh thì cái hại ấy chẳng nhỏ; tức là: mới hiểu loáng thoáng cái Không đã bác bỏ nhân quả, vội vội vàng vàng chiêu cảm họa ương’.

Xin độc giả hãy đọc những lời này hai ba lượt, chớ đừng chấp lý, phế sự, kiêng nói tha Phật, khinh rẻ Tịnh Ðộ để tự chiêu cảm ương họa.

 Chánh kinh: Bậc trung là [những người] tuy chẳng thể thực hành hạnh Sa Môn, tu các công đức lớn lao, nhưng phải phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật. Tùy sức mình tu hành các công đức lành, phụng trì trai giới, tạo dựng tháp tượng, đãi cơm Sa Môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương, đem những việc ấy hồi hướng nguyện sanh cõi kia. Lúc người ấy lâm chung, A Di Ðà Phật hóa ra thân có đủ quang minh, tướng hảo như đức Phật thật cùng các đại Bồ Tát vây quanh trước sau hiện ra trước người ấy nhiếp thọ, dẫn đạo. Người ấy liền theo hóa Phật vãng sanh nước kia, trụ bất thối chuyển Vô Thượng Bồ Ðề; công đức, trí huệ gần bằng bậc trên.

 Giải: Sách Lược Luận nói: ‘Vãng sanh bậc trung có bảy nhân duyên: một là phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề; hai là một bề chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật; ba là tu các thiện nghiệp dù nhiều hay ít, phụng trì trai giới; bốn là tạo dựng tháp tượng; năm là dâng cơm cho sa môn; sáu là treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương; bảy là đem công đức ấy hồi hướng nguyện sanh cõi kia’. Sách Hội Sớ cũng nói giống thế.

Ðiều thứ nhất là phát Bồ Ðề tâm và điều thứ hai là một bề chuyên niệm đã được giải thích trong phần trên nên ở đây chẳng nhắc lại.

Ðiều thứ ba là ‘tùy sức mình tu hành các công đức lành’, nghĩa là: tùy theo sức mình làm nổi mà nỗ lực thực hiện các công đức lành.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương quyển mười hai giảng chữ ‘trai giới’ như sau: ‘Ðề phòng, ngăn cấm nên gọi là Giới, khiết tịnh nên gọi là Trai’. Sách Tứ Phần Luật Âm Nghĩa giảng chữ ‘giới’ như sau: ‘Giới là tên gọi khác của luật. Tiếng Phạn là tam-ba-la, Tàu dịch là Cấm. Giới có nghĩa là ngăn cấm’. ‘Trai’ có nghĩa là chẳng ăn quá ngọ, chánh ngọ là chánh thời, còn những lúc khác đều là phi thời. Ðúng thời (chánh thời) thì ăn, phi thời chẳng ăn. Chẳng ăn quá ngọ thì gọi là ‘trì trai’. Sách Nam Sơn Nghiệp Lưu cũng bảo: ‘Trai nghĩa là tề chỉnh, tề chỉnh cái tâm mình, hoặc có nghĩa là trong sạch’. Như vậy, trì trai chính là trừ sạch những gì bất tịnh trong tâm.

Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Trai giới chính là Bát Quan Trai Giới và những giới thuộc Tiểu thừa hay Ðại thừa. Giới là thầy của con người, đạo lẫn tục đều phải tuân thủ. Tâm làm nghiệp chủ, phàm lẫn thánh đều phải chế ngự tâm. Chánh pháp trụ hay diệt toàn là nhờ vào giới. Giới sáng ngời như mặt trời, mặt trăng, tôn quý tựa bảo châu. Thà chịu khát mà chết chẳng đành uống nước có trùng (nước chưa lọc sạch còn có trùng nhỏ mắt không thấy được). Thà bị trói đến chết chẳng nỡ làm thương tổn lá cỏ’.

Lời sớ đã bàn đến tột cùng điểm trọng yếu của trai giới. Chánh pháp có tồn tại được trong đời hay không toàn là cậy vào hành nhân có giữ giới được hay không! Vì vậy, thà mất cả thân mạng chẳng trái nghịch giới mình đã thọ. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: ‘Vì vậy, phải biết rằng tư lương Tịnh Ðộ toàn là cậy vào công đức. Nền móng của công đức không gì hơn nổi trì giới. Ðó là vì giới tịnh ắt tâm tịnh, tâm tịnh thì quốc độ tịnh’.
          Thứ tư là ‘tạo lập tháp tượng’: Tháp nói đủ là ‘tốt đổ ba’, dịch là Miếu, hoặc là Phương Phần (ngôi mộ vuông), là nơi an trí xá lợi của Phật. Sách Hội Sớ bảo:

‘Dựng tháp có ba nghĩa: một là để biểu dương bậc thù thắng hơn người, hai là khiến người khác sanh lòng tin, ba là báo ân. Kinh Pháp Hoa nói: ‘‘Chư Phật đã diệt độ, để cúng dường xá lợi nên dựng vạn ức ngôi tháp bằng vàng, bạc, pha lê… Hoặc dựng miếu bằng đá, bằng chiên đàn, trầm thủy, mộc mật, vật liệu khác: ngói, gạch, hoặc bùn đất…Hoặc ở nơi đồng trống, đắp đất thành miếu Phật, cho đến trẻ nít giỡn vun cát thành tháp Phật, những người như thế ấy đều đã thành Phật đạo’’.

Chữ ‘tượng’ chỉ tượng Phật. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật thăng lên trời Ðao Lợi, vua Ưu Ðiền nhớ Phật nên dùng gỗ ngưu đầu chiên đàn khắc thành tượng Phật cao năm thước. Ðấy là tượng Phật đầu tiên được khắc trong thế gian này. Kinh Pháp Hoa nói: ‘Nếu ai vì Phật kiến lập các hình tượng Phật, khắc trổ thành các tướng thì đều đã thành Phật đạo’. Kinh Tạo Tượng Công Ðức cũng nói: ‘Nếu ai lúc lâm chung mà sai người tạo tượng [Phật] thậm chí chỉ nhỏ bằng hạt lúa mạch thì trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử trong cả ba đời’.

Thứ năm, ‘đãi cơm Sa Môn’ chính là Trai Tăng, nghĩa là đem cơm và thức ăn cúng dường chúng Tăng. Kinh Lục Ba La Mật Ða nói: ‘Thí thực là thí năm sự. Những gì là năm?

a. Một là thí mạng: Nếu người không ăn thì khó lòng giữ mạng được.

b. Hai là thí sắc: do được ăn nên nhan sắc vui vẻ.

c. Ba là thí lực: do thức ăn ấy nên được tăng trưởng khí lực.

d. Bốn là thí thuốc: do thức ăn ấy nên thân tâm an lạc.

e. Năm là thí biện: Nếu người bị đói khát thì thân tâm khiếp nhược, nói năng ấp úng, chẳng lưu loát nổi. Ðược ăn no đủ thì thân tâm mạnh mẽ, bén nhạy, đắc đại biện tài, trí huệ vô ngại’.

Sách Hội Sớ cũng nói: ‘Ðãi ăn Sa Môn là như kinh dạy: ‘‘Dù cho các báu đầy ắp cả tứ thiên hạ vẫn chẳng bằng thỉnh một vị sa môn thanh tịnh đến nhà cúng dường, được lợi còn gấp mấy lần’’.

Thứ sáu, ‘treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương’.

‘Tăng’ nguyên là tên gọi chung các loại lụa. ‘Huyền tăng’ (tạm dịch là treo phan) tức là dùng lụa tạo thành các lá phan nhiều màu treo trong điện Phật. Kinh Bách Duyên nói: ‘Lúc Phật tại thế, có ông Bà Ða Ca trong quá khứ từng làm một lá phan dài treo nơi tháp của Phật Tỳ Bà Thi. Từ đấy trở đi, trong chín mươi mốt kiếp ông thường có tấm phan phủ quanh thân, hưởng phước khoái lạc. Sau đấy xuất gia thành A La Hán’.

Chữ ‘đèn’ chỉ chung các loại đèn đuốc thắp sáng. Kinh Thí Ðăng Công Ðức dạy: ‘Phật bảo Xá Lợi Phất: «Hoặc có người để cúng dường tháp miếu, hình tượng của Phật nên phụng thí đèn sáng, thậm chí một ngọn đèn, một cây đuốc nhỏ, hoặc dùng dầu tô thắp lên để cúng thí. Dẫu ánh đèn chỉ tỏa ánh sáng soi được một bậc thềm [của tháp miếu] thì này Xá Lợi Phất, công đức như vậy hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác chẳng biết nổi, chỉ đức Phật Như Lai mới biết nổi thôi!’.

‘Rải hoa’ (tán hoa) là rải rắc hoa tươi để cúng dường. Sách Hội Sớ nói: ‘Tán hoa là hoa nở thanh tịnh, diệu sắc, diệu hương rải khắp các cõi Phật. Nếu có hoa nở chư Phật sẽ đến ngự trên ấy. Vì vậy, hạ giới dùng hoa làm Tịnh Ðộ. Các hàng quỷ thần thấy sắc, ngửi mùi hoa đâm ghét, khác nào thấy sắc, hương của phân dơ’ (nghĩa là các hàng quỷ thần coi sắc và hương hoa giống như phân dơ nên ghét bỏ).

Ðà Ra Ni Tập kinh nói: ‘Nếu bốn bộ chúng dùng các thứ hoa rải lên Phật A Di Ðà, phát nguyện, tụng chú thì được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là tự phát thiện tâm, hai là làm cho người khác phát sanh thiện tâm, ba là chư thiên hoan hỷ, bốn là thân mình đoan chánh, sáu căn đầy đủ chẳng bị tổn hoại; năm là chết đi sanh trong ao báu, sáu là đời đời kiếp kiếp thường sanh nơi chính giữa đất nước và sanh trong nhà quý tộc, sanh ra gặp Phật nghe pháp, chẳng sanh nơi biên địa hoặc sanh trong dòng họ hèn kém; bảy là thành Chuyển Luân Vương vua bốn cõi thiên hạ; tám là đời đời kiếp kiếp thường làm thân nam; chín là được sanh về cõi Phật A Di Ðà, ngồi xếp bằng trên hoa sen bảy báu, thành bậc a bệ bạt trí; mười là thành A Nậu Bồ Ðề, ngồi trên tòa sư tử bảy báu, phóng quang minh lớn giống như đức Phật A Di Ðà không khác’.

‘Ðốt hương’ là thắp nhang để cúng dường. Vãng Sanh Tập Yếu ghi: ‘Tùy sức sắm sửa hoa hương cúng dường’. Sách Hội Sớ nói: ‘Nếu có ai đốt hương thơm, bọn ma sẽ bỏ chạy sang chỗ khác, Phật, thần hoan hỷ thủ hộ, tu việc lành ắt được thành tựu. Như đại vương nước Na Càn Ha La hướng vọng về nơi đức Phật sanh mà đốt hương, làm lễ. Khói hương bay thẳng đến tinh xá của Phật như mây lưu ly trắng, nhiễu quanh Phật bảy vòng, hóa thành đài vàng. Trong kinh Quán Phật có kể rõ chuyện này’.

Ðại Nhật Kinh Sớ cũng ghi: ‘Thiêu hương [để biểu thị] ý nghĩa trọn khắp pháp giới, như lúc thọ vương trên cõi trời nở hoa, mùi thơm thuận chiều gió hay ngược chiều gió tự nhiên tỏa khắp. Bồ Ðề hương cũng vậy, mỗi một công đức được lửa trí huệ thiêu, được gió giải thoát thổi theo bi nguyện lực tự tại lan truyền, thơm khắp hết thảy. Vì vậy bảo là thiêu hương’. Tiếp đó, bản sớ này còn luận về lý lẫn sự của việc thiêu hương nghĩa lý càng sâu sắc hơn nữa!

Ðiều thứ bảy là ‘đem những việc ấy hồi hướng nguyện sanh cõi kia’. Sự khẩn yếu của việc phát nguyện trong phần giải thích về bậc thượng vãng sanh đã bàn qua; ở đây tôi lại trích dẫn bài kệ khuyên người phát nguyện của ngài Từ Chiếu Tông Chủ: ‘Trì giới chẳng tín, nguyện thì chẳng được sanh Tịnh Ðộ, chỉ hưởng phước trời, người. Phước hết chịu luân hồi… Do sức phát nguyện trì giới, hồi hướng nên sanh Lạc quốc. Cùng hành trì như thế thì ngàn người chẳng mất một (ngàn người không sót người nào là không được vãng sanh).’

Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Hồi hướng nguyện sanh là khéo hồi hướng các điều thiện như trên thì tạo thành cái nhân được vãng sanh. Nếu chẳng hồi hướng thì chẳng thành cái nhân vãng sanh’. Những câu trên cùng chỉ rõ hồi hướng phát nguyện là điều không thể thiếu được.

‘Lúc người ấy lâm chung, A Di Ðà Phật hóa ra thân có đủ tướng hảo, quang minh như đức Phật thật’. SáchViên Trung Sao nói: ‘Chữ ‘‘đức Phật thật’’ chỉ Ứng Thân của Phật Di Ðà. Hóa Thân từ Ứng Thân biến ra, ngài lại biến hóa ra thân ấy để đến tiếp dẫn’. Sách Hội Sớ nói: ‘‘Ðủ các tướng hảo, quang minh như đức Phật thật’’ là như trong Quán kinh nói ba phẩm bậc thượng lúc lâm chung đều thấy A Di Ðà Phật và hóa Phật đến đón người ấy. Vì vậy, ‘‘đức Phật thật’’ là đức Phật được bậc thượng phẩm trông thấy, các phẩm khác cứ căn cứ theo đó mà biết’.

Người bậc trung lúc lâm chung được thấy Hóa Phật cũng nhất định được vãng sanh vì các thân của Phật chẳng một, chẳng khác nên người ấy đi theo Hóa Phật vãng sanh An Lạc, trụ bất thối chuyển, nhưng ‘công đức trí huệ kém hơn bậc thượng’.

Ngoài ra, đối với ba phẩm vãng sanh bậc trung, Quán kinh chẳng nói là đã phát Bồ Ðề tâm. Sau khi sanh về Cực Lạc, họ đều chứng quả vị trong Thanh Văn thừa. Chẳng hạn như, trung phẩm thượng sanh khi hoa nở liền đắc quả A La Hán; trung phẩm trung sanh bảy ngày hoa nở, đắc Tu Ðà Hoàn, sau nửa kiếp thành A La Hán; trung phẩm hạ sanh cũng sau bảy ngày mới đắc Tu Ðà Hoàn, phải hết một tiểu kiếp mới thành A La Hán. Ðấy đều là thánh quả Tiểu thừa vậy.

Thiện Ðạo đại sư bảo trung phẩm thượng sanh là hạng phàm phu thượng thiện căn tánh Tiểu thừa; trung phẩm trung sanh là hạng phàm phu Tiểu thừa hạ thiện; trung phẩm hạ sanh là hạng phàm phu làm điều lành thế gian, phước lớn. Các kinh, luận vừa dẫn dường như mâu thuẫn với kinh này vì những người thuộc bậc trung đều là hành nhân Ðại Thừa đã phát Bồ Ðề tâm, hễ sanh về đó đều bất thối chuyển Vô Thượng Bồ Ðề.

Sách Vãng Sanh Luận nói: ‘Nhị Thừa chủng chẳng sanh’ nghĩa là hạng chủng tánh Nhị Thừa chẳng thể vãng sanh, thật khế hợp với kinh này, nhưng lại mâu thuẫn những kinh, luận nói trên. Với những điểm mâu thuẫn ấy, ngài Tịnh Ảnh đã giải thích thật khéo léo. Ngài viết như sau:

‘Ngài Thiên Thân viết trong Vãng Sanh kệ rằng chủng tánh Nhị Thừa đều chẳng được vãng sanh, Quán kinh lại bảo chúng sanh Nhị Thừa cũng được vãng, nghĩa là làm sao?

Xin giải thích: Nói Nhị Thừa chẳng được vãng sanh là nói về lúc đã vãng sanh trong cõi ấy rồi. Chúng sanh Tiểu Thừa là [người] trước đã từng quen tu tập [Tiểu Thừa], nhưng đến khi lâm chung phải phát tâm Ðại thừa thì mới được vãng sanh. Nếu dùng tâm Tiểu thừa cầu sanh cõi ấy thì không khi nào được vãng sanh. Vì vậy ngài Thiên Thân bảo chủng tánh Nhị Thừa chẳng được vãng sanh!

Hỏi: Nếu bảo là đã dùng tâm Ðại Thừa để vãng sanh thì tại sao sanh cõi kia xong lại chứng Tiểu quả?

Ðáp: Do người ấy vốn đã tu tập Tiểu Thừa lâu ngày nên quen học cách quán sát Khổ, Vô Thường v.v… nơi những pháp ấy. Sanh qua cõi kia, nghe nói Khổ, Vô Thường v.v… liền ngộ giải nên chứng Tiểu quả. Vốn do lúc lâm chung phát tâm Ðại Thừa cầu vãng sanh cõi kia nên khi đã đắc quả La Hán trong cõi kia liền sẽ cầu Ðại thừa (hồi Tiểu hướng Ðại).

 Chánh kinh: Bậc hạ là [những người] giả sử chẳng thể làm các công đức thì nên phát tâm Bồ Ðề, một dạ chuyên niệm A Di Ðà Phật, hoan hỷ tin ưa, chẳng sanh ngờ vực, dùng tâm chí thành nguyện sanh cõi kia. Người ấy lâm chung mộng thấy đức Phật đó cũng được vãng sanh. Công đức trí huệ kém hơn bậc trung.

 Giải: Bậc hạ vãng sanh có ba nhân duyên: Một là phát Bồ Ðề tâm, hai là một dạ chuyên niệm, ba là chí thành nguyện sanh. So với bậc trung, bậc này chỉ chẳng thể làm các công đức.

‘Hoan hỷ tin ưa, chẳng sanh ngờ vực’ chính là ‘chí tâm tin ưa’ đã nói trong đại nguyện ‘mười niệm ắt được vãng sanh’.

‘Dùng tâm chí thành nguyện sanh cõi kia’ chính là tâm chí thành và tâm hồi hướng phát nguyện được nói trong Quán kinh.

Hơn nữa, do ba bậc vãng sanh đều nói ‘phải phát Bồ Ðề tâm’ nên Tịnh Ảnh Sớ mới viết: ‘Trong ba bậc này, địa vị tuy sai khác nhưng muốn được vãng sanh thì phải phát tâm cầu Ðại Bồ Ðề, chuyên niệm đức Phật ấy, hồi hướng phát nguyện thì mới được vãng sanh’.

Về câu ‘mộng thấy đức Phật ấy’ có đến hai cách giải thích hơi khác nhau:

a. Một là như ngàiVọng Tây cho rằng trước hết là mộng thấy, lúc lâm chung chính mắt thấy. Ngài viết:

‘Do vì ba bậc đều có mộng thấy, mắt thấy. Giác kinh nói về bậc thượng như sau: ‘‘Trong lúc ngủ nghỉ, mộng thấy Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát, A La Hán. Người ấy lúc mạng sắp hết thì đích thân Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát, A La Hán bay đến đón tiếp’’.

Bậc trung cũng mộng thấy đức Phật. [Ðó là] điềm báo trước được vãng sanh, lúc lâm chung đến đón. Do bổn nguyện lợi ích thù thắng nên phải có đủ hết. Nếu Phật chẳng đến đón, hóa ra là bổn nguyện dối bày. Còn trong kinh văn chẳng nói đến đón là chỉ để phân biệt sự sai khác giữa ba bậc, nghĩa là: bậc thượng là báo Phật [đến đón], bậc trung là hóa Phật, bậc hạ là mộng Phật.

Thật ra, sau khi mộng thấy Phật ắt thấy Phật đến đón. Do đó, Quán kinh nói hóa Phật đến đón. Ác nhân còn được như thế huống là thiện nhân?’

Lời biện luận trên đây có ba điểm chính:

* Ðức Phật Di Ðà có bổn nguyện lâm chung tiếp dẫn nên nếu với bậc hạ, ngài chẳng đến nghênh tiếp thì là trái nghịch với bổn nguyện.

* Theo Quán kinh, bậc hạ đều là kẻ ác mà Phật còn đến tiếp đón, bậc hạ trong kinh này đều là người lành lẽ nào Phật lại chẳng đón!

* Trong hai bậc thượng và trung được nói trong hai bản dịch đời Hán và Ngô đều bảo trước mộng thấy Phật, sau đấy lúc lâm chung mới thấy Phật nên bậc hạ cũng phải hưởng tương tự. Vì vậy, kinh này bảo là ‘mộng thấy’ là nói về điều trước khi lâm chung. Quán kinh bảo thấy Phật là nói lúc lâm chung. Ðấy là thuyết thứ nhất.

b. Riêng Hội Sớ bảo rằng đích thật là Phật đến đón nhưng phảng phất như trong giấc mộng. Sách viết:

‘‘Mộng thấy đức Phật ấy’’: Quán kinh nói người trong ba phẩm hạ trong khoảnh khắc lâm chung, lửa địa ngục hiện đến tuy Phật có đến đón nhưng thấy mơ hồ chẳng rõ, tựa hồ như trong giấc mộng. Nếu chẳng phải vậy thì làm sao thần thức an nhàn vãng sanh nổi?'

Ý nói: Như Quán kinh dạy người thuộc hạ phẩm lúc lâm chung các ngọn lửa từ địa ngục cùng lúc hiện tới, các khổ chen nhau bức bách, tuy Phật hiện tiền nhưng thần thức chẳng thanh tịnh, chẳng thật rõ ràng nên chỉ thấy Phật một cách phảng phất như trong giấc mộng nên bảo là ‘mộng thấy đức Phật ấy’. Nếu thật chẳng có Phật đến đón thì làm sao có thể an nhàn mười niệm để thần thức theo chân Phật sanh về Cực Lạc?

Hai cách giải thích này tuy hơi khác nhau nhưng cùng chia sẻ quan điểm: người bậc hạ vãng sanh cũng có Phật đến đón. Ðường dẫu khác nhưng cùng dẫn về một chốn nên tôi trích dẫn cả hai để chứng minh ý chỉ đoạn kinh này.

Người trong ba phẩm hạ của Quán kinh đều là kẻ ác, Thiện Ðạo đại sư bảo hạ phẩm thượng sanh là kẻ phàm phu tạo tội thập ác nhẹ, hạ phẩm trung sanh là kẻ phá giới phạm tội bậc thứ, hạ phẩm hạ sanh là kẻ phàm phu trọng tội tạo đủ: ngũ nghịch, thập ác v.v... Người thuộc hạ phẩm trong Quán kinh đều là ác nhân chẳng giống với người bậc hạ nói trong kinh này, vì sao vậy?

Ngài Vọng Tây giải thích: ‘Là vì trong bậc hạ có nhiều loại. Quán kinh nói về kẻ ác, kinh này bàn về người thiện. Vì thế, Giác kinh (tức là kinh Vô Lượng Thọ, bản Hán dịch) bảo: ‘‘(Ba bậc ấy) phải đoạn ái dục, không tham đắm gì, từ tâm, tinh tấn, chẳng nên sân nộ, trai giới thanh tịnh. Thanh tịnh như thế rồi nhất tâm niệm, muốn được sanh trong cõi Phật Vô Lượng Thanh Tịnh’’.

Do các phẩm loại vãng sanh muôn vàn sai khác nên ba bậc chín phẩm đều chỉ là cách phân định phẩm loại một cách thô sơ. Ngay trong một bậc hạ đã phân ra vô số loại, kinh kia (Quán kinh) nói về kẻ ác, kinh này nói về người lành. Những người bậc hạ được nói trong bản Hán dịch đích thực là người tu thiện.

Hơn nữa, người vãng sanh thuộc hạ phẩm của Quán kinh lúc sanh tiền tuy là người ác, nhưng sau khi hoa nở lại đều là người Ðại Thừa. Hạ phẩm thượng sanh sau bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở, qua mười tiểu kiếp mới nhập Sơ Ðịa. Hạ phẩm trung sanh phải sau sáu tiểu kiếp hoa sen mới nở, nghe nói kinh điển Ðại Thừa rất sâu liền lập tức phát Vô Thượng Ðạo Tâm. Hạ phẩm hạ sanh phải đủ cả mười hai đại kiếp hoa sen mới nở, nghe pháp hoan hỷ, ngay lập tức phát tâm Bồ Ðề.

Ngài Gia Tường viết trong Quán Kinh Nghĩa Sớ như sau: ‘Do thượng phẩm tu nhân Ðại Thừa nên đắc quả Ðại Thừa. Trung phẩm do tu nhân Tiểu Thừa nên lại đắc quả Tiểu Thừa. Hạ phẩm tuy trong hiện tại chẳng tu điều lành Ðại Thừa lẫn điều lành Tiểu Thừa nhưng lúc lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho diệu pháp Ðại Thừa. Do nghe pháp Ðại Thừa nên đắc quả Ðại Thừa’.

Kinh A Di Ðà bảo những thiện nam tử, thiện nữ nhân chấp trì danh hiệu được sanh về Tịnh Ðộ thì ‘người ấy lúc lâm chung, A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng hiện ở trước mặt’ rất phù hợp với thuyết ba bậc vãng sanh được thấy Phật của kinh này.

Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức cũng nói: ‘Nếu có kẻ được nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai… lúc lâm chung nhất tâm tin ưa, chẳng phế bỏ niệm thì A Di Ðà Phật dẫn chúng tăng đứng trước người ấy, ma trọn chẳng phá hoại nổi tâm chánh giác của người đó’.

Kinh Cổ Âm Vương cũng bảo: ‘Nếu có tứ chúng có thể  thọ trì danh hiệu đức Phật ấy một cách chơn chánh thì lúc lâm chung, A Di Ðà Phật liền cùng đại chúng đến chỗ người ấy khiến cho người ấy được thấy’.

Kinh Hoa Nghiêm lại dạy: ‘Như Lai có mười thứ Phật sự. Một là nếu có chúng sanh chuyên tâm nghĩ nhớ ngài thì Phật sẽ hiện ra trước mặt’. Những đoạn kinh vừa dẫn đều là những chứng cớ hiển nhiên cho lời dạy trong kinh này.

Thế nhưng Như Lai vốn chẳng đến đi, sao lại bảo Phật hiện trước mặt? Ba vị đại sư Liên Trì, U Khê, Ngẫu Ích đã giảng nghĩa điều này rất sâu xa. Những lời giảng ấy rất tinh diệu, khế hợp bổn hoài đức Phật nên tôi cung kính chép ra như sau:

* Trong quyển Sớ Sao, ngài Liên Trì bảo:

‘Cổ đức bảo Phật chẳng đến đi thì làm sao lại có chuyện Phật hiện ở trước mặt?

Ðáp: Cảm ứng đạo giao chẳng trở ngại chuyện đến hay đi! Chẳng thấy mà lại thấy nên ngài Vĩnh Minh bảo: ‘‘Biết huyễn chẳng phải là thật thì tâm lẫn Phật đều mất. Chẳng phải là vô huyễn tướng nên chẳng hoại tâm và Phật’’. Ngài lại bảo: ‘‘Pháp thân chơn Phật vốn chẳng sanh diệt, từ chơn thật mà hóa hiện ra như vậy để tiếp dẫn căn cơ còn mê’’.

Ðây chính là bổn nguyện công đức của Như Lai khiến cho chúng sanh hữu duyên chuyên tâm tưởng niệm, ngay trong tự tâm thấy được Phật đến đón, chẳng phải là chư Phật thật sự sai hóa thân đến đón tiếp. Thân Phật trạm nhiên thường tịch mà chúng sanh thấy có đến, đi như ảnh hiện trong gương chẳng phải ở trong, chẳng phải là bên ngoài, như chuyện trong mộng chẳng có, chẳng không.

Lại như kinh dạy: ‘‘Cần phải do Phật thân mới được độ thì ngài liền hiện thân Phật để thuyết pháp’’ cũng chính là ý này. Vì vậy, nước trong thì trăng tự hiện, tâm tịnh thì Phật tự hiện nên mới bảo cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn’.

* Trong tác phẩm Viên Trung Sao, đại sư U Khê viết:

‘Phàm là thấy Phật thì phải bàn đến cảm ứng.

Nếu bình thời tu tham Thiền hoặc tu Không quán, đã quét sạch tất cả, ngay cả Phật còn chẳng có; nếu bỗng thấy Phật thì ắt là cảnh ma hoặc do công dụng hiển hiện khiến cho đức Phật trong tâm tự hiện, nhưng cũng phải quán Không, chớ chấp vào tướng.

Còn như niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, lâm chung thấy Phật thì đó là do cái nhân này cảm ứng một cách nhiệm mầu. Lại do chúng sanh và Phật vốn cùng một thể, cảm ứng đạo giao, pháp vốn là như vậy. Nếu chẳng hiểu rõ điều này lại vọng luận, tà đàm thì chẳng những tự chướng mà còn làm chướng người, với pháp môn này sanh tội lỗi lớn!’.

* Trong sách Yếu Giải, tổ Ngẫu Ích viết:

‘Mười vạn ức cõi chẳng ra ngoài tánh của một niệm tâm hiện tiền của ta vì tâm tánh vốn không có bên ngoài. Lại nương nhờ vào sức tiếp dẫn của đức Phật ngay trong tự tâm nên khó gì mà chẳng được sanh ngay. Như tấm gương chiếu mấy mươi tầng núi, sông, lầu gác, tầng nào lớp nấy rành rành, thật chẳng có xa gần. Cứ một phen soi đến là đều hiện rõ cả, chẳng có trước, sau!

Câu ‘‘từ đây đi qua Tây phương khỏi mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc’’ cũng có ý nghĩa giống thế. Câu ‘‘cõi ấy có Phật hiệu là A Di Ðà nay hiện còn thuyết pháp’’ cũng nghĩa như thế. Câu ‘‘người ấy lúc lâm chung A Di Ðà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc chết tâm chẳng điên đảo liền được vãng sanh cõi nước A Di Ðà Phật’’ cũng nghĩa như thế. Cần biết rằng mỗi chữ đều là lời văn thiêng liêng về Hải Ấn tam muội, Ðại Viên Kính Trí’.

Quả thật như lời đại sư Linh Phong tán thán, từng chữ trong kinh này đều là lời văn thiêng liêng diễn tả Hải Ấn tam muội, Ðại Viên Kính Trí.

Cả ba lời luận bàn trên đều ‘thở cùng một lỗ mũi’ với các tổ Thiền lẫn Tịnh, chính là từ trong Ðại Quang Minh tạng tự nhiên biến hiện:

Do tự và tha chẳng hai nên tự lẫn tha đều hệt như nhau. Do tự và tha chẳng hai nên vị Phật đến đón đó chính là đức Phật trong tâm mình. Lại do tự và tha giống hệt nhau nên ngay nơi Phật thật chẳng đến, người cũng chẳng đi ấy, lúc lâm chung lại rành rành hiển hiện việc có Phật đến đón vãng sanh Cực Lạc. Sự, lý viên dung tự tại vô ngại, chỉ tin được nổi đã đạt lợi ích vô lượng.

Ngoài ba loại vãng sanh trên đây, đoạn kinh tiếp theo đây sẽ nói đến loại ‘nhất niệm tịnh tâm, thập niệm, nhất niệm vãng sanh’. Loại này còn được gọi là ‘nhất tâm tam bối’.

Khái niệm ‘nhất tâm tam bối’ do lão pháp sư Từ Châu, một vị đại đức bên Luật Tông, ở chùa Tịnh Liên, Bắc kinh đề xướng trong tác phẩm Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh Khoa Phán. Pháp sư chính là một trong ba vị đại cao tăng hiện đại của miền Hoa Bắc. Ngài từng chuyên giảng kinh này ở Tế Nam và Bắc Kinh và từng soạn khoa phán cho kinh này (tác phẩm khoa phán ấy được ấn hành năm Kỷ Mão – 1939).

Khái niệm ‘nhất tâm tam bối’ của ngài đã hiển lộ chơn lý mầu nhiệm của Tịnh tông đã bị ẩn kín bấy lâu nay. Ý chỉ Thiền Tịnh bất nhị cũng nhờ phán định này của ngài mà càng được bày tỏ rõ ràng.

 Chánh kinh: Nếu có chúng sanh trụ trong Ðại Thừa, dùng tâm thanh tịnh hướng về Vô Lượng Thọ Phật dẫu chỉ mười niệm nguyện sanh cõi kia, nghe pháp thậm thâm liền sanh tin hiểu; thậm chí đạt được một niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm niệm đức Phật kia thì người ấy lúc mạng sắp dứt, giống như ở trong mộng thấy A Di Ðà Phật, quyết định sanh trong cõi ấy, được chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề.

 Giải: Cả đoạn kinh trên hoàn toàn trích từ bản Ðường dịch. Cả hai bản Ngụy dịch và Ðường dịch dường như xuất phát từ cùng một Phạn bản, nhưng lời kinh trong bản Ðường dịch mạch lạc phân minh hơn, lời văn phong phú, ý nghĩa sâu sắc vượt xa bản Ngụy dịch.

Bản Ngụy dịch ghi chép những ý này tản mác ở đầu phẩm đầu lẫn cuối phẩm. Trước phần nói về bậc thượng vãng sanh, bản Ngụy dịch chép: ‘Có các chúng sanh nghe danh hiệu ngài lòng tin hoan hỷ thậm chí một niệm chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi ấy thì liền được vãng sanh’; kế đó, trong phần nói về bậc hạ vãng sanh lại bảo:

‘Có kẻ chí tâm muốn sanh cõi ấy nhưng giả sử chẳng thể làm các công đức thì phải nên phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, một bề chuyên niệm dẫu chỉ mười niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật nguyện sanh cõi ngài. Nếu nghe pháp sâu mà hoan hỷ, tin ưa chẳng sanh ngờ vực thậm chí trong một niệm, niệm đức Phật ấy, dùng tâm nguyện sanh cõi ngài thì người ấy lúc lâm chung mộng thấy đức Phật đó cũng được vãng sanh. Công đức, trí huệ kém hơn bậc trung’.

Ðại sư Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường dựa theo bản Ngụy dịch đã viết trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu như sau:

‘Trong bậc hạ, [kinh] nói đến hai hạng người. Trong hai hạng người đó, [với mỗi hạng] đều có ba câu. Ba câu của hạng đầu là:

a. Một là giả sử chẳng thể làm các công đức thì phải phát Vô Thượng Bồ Ðề tâm, đấy là chánh nhân.

b. Hai là dẫu chỉ mười niệm chuyên niệm đức Phật kia, đấy là duyên để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn.

c. Ba là nguyện sanh cõi kia, nguyện này hợp với những điều trên trên tạo thành chánh nhân.

Ðây là nói về hạng người bất định tánh.

Ba câu của hạng thứ hai là:

a. Một là nghe pháp thậm thâm, hoan hỷ tin ưa. Câu này nói rõ thêm về chánh nhân phát tâm: hạng này chỉ khác với hạng trên ở chỗ có lòng tin sâu xa. 

b. Hai là thậm chí trong một niệm, niệm đức Phật kia. Ðấy là duyên để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn. Câu này chỉ rõ: hạng trên do không có lòng tin sâu xa nên cần phải có mười niệm, còn hạng này do lòng tin sâu xa nên chẳng cần phải đủ cả mười niệm (trộm nghĩ: ngài Nguyên Hiểu đưa ra thuyết này vì chỉ dựa trên bản Ngụy dịch. Nếu xét theo hội bản, một niệm mà được vãng sanh thì toàn là do đạt được một niệm tịnh tâm. Từ trong nhất tâm niệm danh hiệu Phật một tiếng thì ngay lập tức tương ứng với bổn nguyện của Phật Di Ðà, vì vậy khi lâm chung liền được vãng sanh).

c. Ba là dùng tâm chí thành nguyện sanh cõi kia. Nguyện này hợp với những điều trên tạo thành nhân.

Ðây là nói về hạng người thuộc chủng tánh Bồ Tát (Ðấy là như bản Ngụy dịch chép là ‘trụ trong Ðại Thừa’).

Ý ngài bảo: Trong bậc hạ vãng sanh có đến hai hạng:

a. Một là hạng phát Bồ Ðề tâm, mười niệm thánh hiệu nguyện sanh cõi kia liền được vãng sanh. Ðó là hạng Bất Ðịnh Tánh.

b. Hai là nghe pháp sanh lòng tin sâu xa, thậm chí trong một niệm nguyện sanh cõi kia liền được vãng sanh. Ðấy là hạng chủng tánh Bồ Tát.

Ngài Nguyên Hiểu thật đã xét tường tận trong phần kinh văn nói về bậc hạ vãng sanh nên nhận thấy rằng trong bậc hạ có các phẩm loại khác nhau. Thử hỏi ‘nghe pháp thậm thâm, hoan hỷ tin ưa, chẳng sanh ngờ vực’ là cảnh giới của hạng người nào? Vì vậy, ngài Nguyên Hiểu mới gọi họ là ‘hạng người chủng tánh Bồ Tát’. Phải là chủng tánh Bồ Tát mới có thể tin sâu, mới khởi tâm niệm Phật ‘dùng tâm chí thành nguyện sanh cõi ngài’. Những người như vậy thật chẳng thể coi là thuộc trong hạng người bậc hạ được.

Báo Ân Luận cũng bảo: ‘Xét kỹ ra, đoạn kinh nói về mười niệm vãng sanh đây là chuyên bàn về hạng người trụ trong Ðại Thừa. Xét trong Ðại Thừa, người giải ngộ trong Thiền Tông và người giải ngộ do đọc hết thảy kinh điển Ðại Thừa đều thuộc về hạng này (tức là hạng ‘trụ trong Ðại Thừa, mười niệm vãng sanh’). Những người ấy chẳng chuyên tu Tịnh Ðộ, chẳng hạn như các vị Trí Giả, Vĩnh Minh v.v…’

Kiến giải này so với lời bàn định của ngài Nguyên Hiểu càng cao hơn một bậc nữa (chỉ tiếc là dùng Vĩnh Minh đại sư làm thí dụ thì chưa ổn thỏa mấy vì ngài ngày đêm niệm Phật đến cả mười vạn tiếng). Kinh nói người trụ trong Ðại Thừa, tâm thanh tịnh, nghe pháp thậm thâm liền sanh tin hiểu. Hạng người trí huệ nhạy bén, tín nguyện kiên cố như vậy thì chỉ có các bậc đại lão như Trí Giả, Vĩnh Minh, Trung Phong mà thôi. Những vị căn cơ ngang với các ngài Trí Giả, Vĩnh Minh, Trung Phong thì lẽ đâu thuộc bậc hạ?

Bởi vậy, trong Hội Bản, sau phần nói về bậc hạ, cụ Hạ Liên Cư đã chép nguyên bản Ðường dịch thành một đoạn riêng với thâm ý: ngoài ba bậc vãng sanh còn có riêng một loại, tức là như pháp sư Từ Châu đã phán định là hạng ‘nhất tâm tam bối’.

Hạng nhất tâm tam bối này có riêng cách tu giản lược của bậc đại nhân, vượt khỏi quy cách vãng sanh thông thường. Cách tu giản lược đó chính là ‘nhất tâm’. Chữ ‘nhất niệm tịnh tâm’ nói trong phẩm này chính là chữ ‘nhất niệm tịnh tín’ nói trong phẩm ‘Mười Phương Phật Khen Ngợi’. Trong phẩm đó đã nói:

Thậm chí có thể phát niệm tịnh tín đem tất cả thiện căn chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia đều tùy nguyện vãng sanh’; phẩm này lại dạy: ‘Thậm chí đạt được một niệm tịnh tâm, phát một niệm tâm, niệm đức Phật kia… quyết định sanh về cõi ấy’.

Tiền hậu hô ứng cùng hiển hiện ý chỉ nhất tâm, nhất niệm. Ðây thật là diệu thể của pháp môn Tịnh Ðộ. Bản hội tập của cụ Hạ và lời khoa phán của Từ Hàng lão pháp sư đều khế hợp bổn hoài của chư Phật, diễn bày sâu xa ý chỉ Thiền, Tịnh bất nhị, thật là có công lớn với Thánh giáo.

Nhất tâm và nhất niệm tuy dùng chữ khác nhau, nhưng ý nghĩa chỉ là một. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng nói: ‘Nhất niệm là tín tâm không có nhị tâm nên bảo là nhất tâm; đấy gọi là nhất tâm. Nhất tâm chính là cái nhân chơn thật của cõi báo độ thanh tịnh’. Nghĩa là: lòng tin không có tâm nào khác xen vào thì gọi là nhất tâm, mà cũng chính là nhất niệm. Ðó cũng gọi là cái nhân chơn thật của thanh tịnh báo độ, tức là người vãng sanh ắt sẽ chứng cõi Thật Báo Trang Nghiêm để thành bậc địa thượng Ðại Sĩ (bậc Bồ Tát thuộc địa vị Thập Ðịa). Do đây ta thấy công đức của nhất tâm thù thắng chẳng thể nghĩ bàn.

Sách Tín Tâm Minh có câu: ‘Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm. Ngôn ngữ bặt dứt, chẳng có quá khứ, vị lai, hiện tại’. Câu này cũng nhằm minh thị tín tâm bất nhị chính là nhất tâm chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, một niệm tín tâm thì tùy nguyện được vãng sanh.

Sách Viên Trung Sao lại bảo: ‘Trì danh nhất tâm bất loạn là nhân. Ðắc nhất niệm là nói về hạnh được thành tựu. Sức của nhất niệm có công năng điều phục hoặc chướng. Lâm chung chánh niệm tự nhiên hiện tiền, tất yếu được vãng sanh Tịnh Ðộ’.

Ý nói: trì danh tâm chẳng tán loạn là nhân hạnh, đạt được ‘nhất niệm’ chính là quả thành tựu của hạnh. Nếu đạt được nhất niệm thì lúc lâm chung dẹp tan được các hoặc, chánh niệm tự nhiên hiện tiền; đấy là cái nhân quyết định vãng sanh. Do vậy, kinh này dạy: ‘Phát nhất niệm tâm, niệm đức Phật ấy, quyết định sanh về cõi kia’.

Tuy sách Di Ðà Yếu Giải còn bảo mười niệm cho đến một niệm vãng sanh là nói về lúc lâm chung, nhưng thuyết ấy chẳng mâu thuẫn điều chúng ta đang bàn ở đây. Nếu bình thời phát khởi được nhất niệm thanh tịnh tâm, ngầm khế hợp lý, nhập được nhất niệm thì do sức của nhất niệm, lúc lâm chung sẽ thành tựu mười niệm hay một niệm như Viên Trung Sao bảo: ‘Sức của một niệm này có công năng điều phục được các hoặc chướng, lâm chung chánh niệm tự nhiên hiện tiền’.

Trong nhất tâm lại có sự lẫn lý:

a. Sự nhất tâm là như Di Ðà Sớ Sao nói: ‘Nghe danh hiệu Phật thường nhớ, thường niệm, tâm duyên theo từng chữ phân minh. Câu trước, câu sau liên tục chẳng dứt. Ði, đứng, nằm, ngồi chỉ có một niệm này, không còn có niệm thứ hai, chẳng bị tham, sân, si phiền não tạp loạn. Về mặt sự đã đắc, nhưng chưa thấu triệt mặt lý. Chỉ được tín lực nhưng chưa thấy đạo nên gọi là sự nhất tâm’.

Sách Di Ðà Yếu Giải lại bảo: ‘Chẳng luận là sự lý hay lý trì, trì đến mức dẹp trừ được phiền não thậm chí kiến hoặc lẫn tư hoặc đều hết sạch cả thì đều là sự nhất tâm’.

b. Lý nhất tâm là như sách Di Ðà Sớ Sao nói: ‘Nghe danh hiệu Phật chẳng những chỉ ức niệm mà ngay nơi niệm đó, quán trở lại soi xét tường tận, truy đến tận căn nguyên, suy xét đến tận cùng cực, đột nhiên khế hợp bổn tâm của chính mình. Do thấy được Chơn Ðế nên gọi là lý nhất tâm’.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Chẳng luận là sự trì hay lý trì, trì đến mức tâm khai ngộ thấy được vị Phật nơi bổn tánh thì đều là lý nhất tâm’.

Trong hai thứ nhất tâm, lý nhất tâm là tối thượng.

Sách Di Ðà Sớ Sao lại bảo: ‘Chấp trì danh hiệu, nhất tâm hướng đến vãng sanh chính là sự nhất tâm. Chấp trì danh hiệu, trở về tự tâm chính là lý nhất tâm’.

Kinh Na Tiên nói: ‘Trong các điều thiện chỉ có nhất tâm là cao tột nhất. Nhất tâm rồi thì các điều thiện đều có’. Sách Di Ðà Sớ Sao nói: ‘Toàn thể của nhất tâm này là Phật. Nhất tâm này lại chính là định bậc nhất trong các thứ định, nó chính là Niệm Phật Tam Muội của Bồ Tát, chính là Thiền Trực Chỉ của Ðạt Ma’.

Theo những kinh, luận vừa dẫn trên, nhất niệm chính là nhất tâm, mà cái nhất niệm ấy lại chính là tự tánh bổn giác linh tri.

Ông Hạnh Tây Thị người Nhật bảo: ‘Nhất thừa chính là hoằng nguyện, hoằng nguyện chính là Phật trí, Phật trí chính là nhất niệm’. Ông Hạnh Tây lập ra nghĩa nhất niệm như sau: nếu tín tâm phàm phu tương ứng được với nhất niệm Phật trí thì sự nghiệp vãng sanh tự nhiên hoàn thành, chẳng cần phải miệng chăm chăm niệm danh hiệu Phật cho nhiều.

Thuyết này tương tự như thuyết của Báo Ân Luận: Người tu Thiền tông ngộ điều mình tham cứu hay người đọc kinh mà giải ngộ rồi chuyên tu Tịnh Ðộ, nếu như đạt được một niệm tịnh tín thì được tương ứng với Phật trí, xưng danh hiệu Phật một tiếng liền được vãng sanh.

Nhưng trong Tịnh tông, chữ ‘một niệm’ hay ‘mười niệm’ lại chỉ việc phàm phu xưng niệm Phật hiệu một tiếng hay mười tiếng. Chẳng hạn như trong Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, ngài Nghĩa Tịch giảng: ‘Niệm chính là xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Vừa hết sáu chữ ấy là một niệm’, nghĩa là: niệm tụng Phật hiệu một tiếng là một niệm.

Quán kinh bảo hạ phẩm hạ sanh ‘chí tâm như thế khiến cho chẳng ngớt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lúc mạng chung thấy hoa sen vàng to như bánh xe. Như trong khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới’. Do vậy, ta thấy rằng mười niệm chính là mười tiếng.

Mười niệm thậm chí một niệm lúc lâm chung như vậy đều được vãng sanh như ông Bành Tế Thanh nói: ‘Như thật hồi hướng, một niệm niệm Phật thì không ai chẳng vãng sanh; đó là do sức bổn nguyện của Phật vậy’.

So với cái tâm nhất niệm vừa bàn ở trên, mười niệm lúc lâm chung được giảng trong Quán kinh vừa tương đồng, vừa dị biệt. Trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã luận điều này rất mực tinh xác. Ngài viết:

‘Nên biết rằng chí tâm niệm A Di Ðà Phật một tiếng thì diệt được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử; đấy chính là nói về lý nhất tâm. Ắt có kẻ ngờ rằng: tội đã nhiều kiếp, nghiệp nặng chướng sâu, phải siêng năng sám hối lâu ngày, tích tập công đức dần dần mới có thể tiêu hết nổi, còn như niệm Phật một tiếng lại diệt được tội nhiều kiếp: nhân bé quả to, làm sao tin nổi?

Nay bảo rằng: chí tâm chính là nhất tâm. Nếu là sự nhất tâm thì dẫu có thể diệt tội, nhưng do sức nó thưa mỏng, tội sẽ hiện trở lại. Niệm thật nhiều chỉ có thể tiêu diệt chút ít tội khiên.

Chí tâm ở đây chính là thuộc về lý nhất tâm. Nhất tâm đã sáng tỏ thì bao điều vọng chứa chất liền tiêu ngay giống như nhà tối ngàn năm, đem một ngọn đèn sáng vào chẳng lẽ bóng tối chẳng bị mất ngay hay sao? Vì vậy, lý lẽ ‘‘xưng Nam Mô Phật một tiếng, đều đã thành Phật đạo’’ chẳng phải mình kinh Diệu Pháp Liên Hoa mới có!

Kinh Pháp Hoa Tam Muội Quán nói: ‘‘Mười phương chúng sanh một phen xưng Nam Mô Phật đều sẽ thành Phật, chỉ có một Ðại Thừa, chẳng có hai hay ba. Hết thảy các pháp là nhất tướng nhất môn nghĩa là vô sanh, vô diệt, là tướng rốt ráo không’’. Những lời như trên chẳng phải là [nói về] lý nhất tâm hay sao?’

Liên Trì đại sư bảo ‘chí tâm’ nói trong Quán kinh chính là lý nhất tâm. Ðó là vì khi lâm chung chính mắt thấy lửa địa ngục liền sanh lòng tin thật sự nên có thể nhanh chóng dứt muôn duyên, chỉ tập trung vào một niệm; niệm niệm ly niệm, niệm niệm chính là niệm, niệm niệm khế hợp Chơn Như, niệm niệm là Phật. Mười niệm lâm chung như vậy đã khế hợp lý nhất tâm nên được diệt tội vãng sanh.

Thế nào là chí tâm? Sách Vô Lượng Thọ Tông Yếu dùng ngay thí dụ của ngài La Thập: Thí như có người gặp phải ác tặc đuổi theo toan giết. Người ấy rảo chạy, phải vượt sông mới thoát. Lúc ấy, chỉ nghĩ cách vượt sông:

‘Chỉ có niệm ấy chẳng có niệm khác. Cái ý niệm vượt sông khi ấy chính là nhất niệm. Thập niệm đây chẳng xen lẫn niệm nào khác. Hành giả cũng thế: hoặc niệm danh hiệu Phật hoặc niệm tướng hảo của Phật v.v... niệm Phật không gián đoạn cho đến mười niệm. Chí tâm như thế thì gọi là mười niệm’.

Nghĩa là: hành giả niệm Phật như người muốn vượt sông trong thí dụ nói trên, chỉ có ý niệm muốn vượt sông không còn nghĩ gì khác thì gọi là chí tâm. Niệm liên tục như thế cho đến mười niệm thì chính là thập niệm. Lúc lâm chung mà làm được như thế thì quyết định vãng sanh, thậm chí chỉ một niệm (xem Niệm Phật Bảo Vương Luận) nhưng niệm tâm thuần nhất, kiên cố thì cũng được vãng sanh. Ðó là vì thầm hợp diệu đạo, khéo nhập vô sanh. Vì thế, ngũ nghịch, thập ác lâm chung niệm Phật, thậm chí một niệm cũng được vãng sanh. Ðiều này hiển lộ Di Ðà bổn nguyện chẳng thể nghĩ bàn. Cái quả do Bồ Tát Pháp Tạng tư duy tạo thành chính là ở chỗ này.

Ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, các ngọn lửa cùng hiện ra mà xưng nổi danh hiệu Phật thì sẽ nhanh chóng lìa được vọng hoặc, nhập lý nhất tâm. Do khế hợp với lý nên các tội tiêu diệt liền sanh về Cực Lạc, chứng ngay ba thứ bất thối.

Nếu chẳng phải là phương tiện rốt ráo nhất trong các phương tiện, là tối cực viên đốn trong các thứ viên đốn thì lẽ nào đạt được như thế? Pháp môn Tịnh Ðộ này có thể làm cho phàm phu ác nghịch thầm hợp nhất tâm cho nên Phật A Di Ðà được gọi là đấng Nguyện Vương thật cũng chẳng ngoa!

Trong An Lạc Tập, đại sư Ðạo Xước cũng luận về thập niệm vãng sanh như sau:

‘Ông bảo ác nghiệp trong một đời là nặng, coi điều thiện mười niệm của hạng hạ phẩm là nhẹ thì tôi nay sẽ dùng nghĩa lý để so sánh. Nghĩa của nặng hay nhẹ rõ ràng là cốt tại tâm, tại duyên, tại quyết định chứ chẳng phải tại nơi thời tiết lâu gần, nhiều, ít.

a. Một, thế nào là tại tâm? Lúc người ấy tạo ác tự nương dựa vào tâm hư vọng điên đảo để sanh khởi. Còn thập niệm đây lại dựa vào thiện tri thức phương tiện an ủi, do nghe pháp Thật Tướng mà sanh (dựa vào Thật Tướng mà sanh). Một đằng thật, một đằng hư lẽ nào so sánh được?

Vì sao? Ví như nhà tối ngàn năm, nếu ánh sáng tạm chiếu vào thì liền sáng tỏ. Há có dám bảo bóng tối ngàn năm trong nhà chẳng bị mất đi hay sao?

Vì vậy kinh Di Nhật Ma Ni Bảo nói: ‘Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: ‘Chúng sanh tuy trong mấy ngàn cự ức vạn kiếp ở trong ái dục bị tội che lấp nhưng nếu khi nghe kinh Phật mà một phen nghĩ đến điều lành thì tội liền tiêu diệt hết’. Ðấy gọi là tại tâm.

b. Hai, thế nào là tại duyên? Người ấy lúc tạo ác tự dựa vào vọng tưởng, dựa vào phiền não, quả báo, chúng sanh mà sanh; còn mười niệm đây y chỉ tín tâm vô thượng, nương vào danh hiệu thanh tịnh chơn thật vô lượng công đức của Phật A Di Ðà mà sanh.

Ví như có người bị trúng tên độc đứt gân, gãy xương, nếu nghe âm thanh của cái trống thuốc Diệt Trừ thì mũi tên độc liền rớt ra, độc liền trừ, há dám bảo rằng mũi tên ấy ngập sâu, thuốc độc ấy quá mạnh dù có nghe tiếng trống cũng chẳng thể nhổ tên, khử độc được hay sao? Ðấy gọi là tại duyên.

          c. Ba, thế nào là tại quyết định? Người ấy lúc tạo tội thì tự nương dựa vào cái tâm hữu hậu, tâm hữu gián mà sanh; còn thập niệm đây y chỉ vào tâm vô hậu, tâm vô gián mà khởi. Ðấy gọi là quyết định.

          Trí Ðộ Luận lại bảo: ‘‘Hết thảy chúng sanh lúc lâm chung bị đao phong cắt thân hình, tử khổ đến bức bách, sanh lòng hoảng sợ lớn lao’’. Vì vậy, gặp thiện tri thức liền phát đại dũng mãnh, tâm tâm liên tục; mười niệm chính là thiện căn tăng thượng nên liền được vãng sanh. Lại cũng giống như kẻ đối địch phá trận cùng lúc tận dụng hết sức lực nơi thân mình. Ðiều lành thập niệm cũng giống như vậy’.

          Lại có kẻ nghĩ lâm chung thập niệm quá dễ dàng nên toan tính đợi lúc lâm chung mới chuyên tu niệm. Sách An Lạc Tập đả phá quan điểm ấy như sau:

‘Thập niệm liên tục tựa hồ chẳng khó, nhưng các kẻ phàm phu tâm như ngựa hoang, thức quá khỉ vượn, rong ruổi sáu trần chưa từng tạm dừng. Ai nấy phải nên phát lòng tin, tự hạn định tu niệm trước để tích tập thành thói quen cho thiện căn kiên cố như Phật đã bảo đại vương: ‘‘Người tích hạnh lành chết không ác niệm. Như cây trước đã nghiêng về hướng nào thì khi đổ sẽ ngã theo phía đó’’. Một phen đao phong xảy đến, trăm nỗi khổ quấy thân, nếu trước đã chẳng từng quen tu tập thì [lúc ấy] niệm làm sao nổi?

Ai nấy nên cùng với năm ba người cùng chí hướng kết thệ sẵn để lúc lâm chung thay phiên đến giảng giải, vì mình xưng danh hiệu Di Ðà, nguyện sanh cõi An Lạc, tiếng niệm tiếp nối cho thành mười niệm. Ví như ấn sáp ấn xuống đất bùn, ấn dẫu hoại nhưng các đường khắc trên ấn đã in xuống. Lúc mạng này dứt chính là lúc vãng sanh An Lạc quốc. Một khi đã nhập vào chánh định tụ thì còn lo lắng gì. Ai nấy đều nên suy nghĩ cái lợi lớn này, sao còn chưa định sẵn số hạn để niệm đi’.

          Sách Di Ðà Yếu Giải cũng nói:

‘Nếu lúc bình thời chẳng có công phu bảy ngày thì làm sao lúc lâm chung đạt được mười niệm hay một niệm. Vả lại, kẻ ngũ nghịch thập ác trong hạ hạ phẩm đều là do túc nghiệp chín muồi nên lúc lâm chung mới gặp thiện hữu khai ngộ liền tin hiểu. Ðiều này trong muôn trường hợp chưa có được một, há nên cầu may như thế ư?’.

          Do vậy, ta thấy rằng cảnh giới nhất tâm thật là sâu xa, u huyền. Bởi thế, kinh này đề cao chuyên niệm. Ngẫu Ích đại sư bảo:

          ‘Ðức Phật trong một câu niệm hiện tiền cũng vốn đã siêu tình ly kiến, sao lại còn mất công bàn huyền, luận diệu, chỉ cốt tin cho chắc, giữ cho bền, cứ thẳng thét mà niệm. Suốt ngày đêm hoặc là mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn làm số nhất định hoặc chẳng định số làm chuẩn. Trọn cả một đời này thề chẳng biến đổi. Nếu chẳng được vãng sanh thì tam thế chư Phật thành ra nói dối hay sao?’

          Ngài còn viết:

          ‘Muốn đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn thì cũng chẳng có thuật gì khác. Bước đầu tu tập thì dùng xâu chuỗi để nhớ số cho rành rẽ nhằm ấn định công khóa quyết định chẳng thiếu. Lâu ngày thuần thục chẳng niệm mà tự niệm. Lúc đấy, nhớ số cũng được, chẳng nhớ số cũng được!

          Nếu là kẻ sơ tâm mà lại toan nói chỉ ưa học khán thoại đầu, chẳng nên chấp tướng, muốn học viên dung tự tại thì đó chỉ toàn là kẻ tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức vậy’.

          Ngài Ðạo Xước cũng dạy: ‘Nếu người mới học chưa phá được tướng thì cứ nương vào tướng mà chuyên chí, không ai chẳng được vãng sanh, đừng nghi ngờ gì!’. Do vậy, kinh này chỉ dùng ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’ làm tông.

          Trong đời mạt, kẻ trì danh tuy lắm mà người vãng sanh chẳng bao nhiêu nên sách An Lạc Tập cũng nêu lời vấn đáp như sau:

‘Nếu xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật sẽ trừ được vô minh hắc ám của mười phương chúng sanh và được vãng sanh thì sao lại có chúng sanh xưng danh, ức niệm mà vô minh vẫn còn, chẳng được mãn nguyện, nghĩa là làm sao?

Ðáp: Do chẳng tu hành đúng như thật, do chẳng tương ưng với danh nghĩa. Vì cớ sao thế? Vì chẳng biết Như Lai là thân Thật Tướng mà lại cho là thân vật chất. Lại có ba điều chẳng tương ưng:

- Một là tín tâm chẳng thuần, lúc còn lúc mất.

- Hai là tín tâm bất nhất, nghĩa là chẳng quyết định.

- Ba là tín tâm chẳng liên tục, nghĩa là có các niệm khác xen lẫn vào…

Nếu tâm liên tục thì là nhất tâm. Chỉ giữ được nhất tâm thì đó chính là tâm thuần. Có đủ ba tâm ấy mà lại chẳng được vãng sanh thì chẳng bao giờ có lẽ ấy!’

Lời luận này đã chỉ đúng ngay căn bệnh của hành nhân tu Tịnh nghiệp hiện đời: Niệm Phật mà chẳng được đắc quả vãng sanh. Ðó là do chẳng biết Như Lai là thân Thật Tướng, nhận lầm thân ngài là thân vật chất, chấp trước vào tướng, vọng sanh so đo, khuyết thiếu trí huệ, hiểu sai nghĩa Trung Ðạo. Lại còn mắc ba thứ chẳng tương ưng. Ba thứ chẳng tương ưng đó có thể dùng một câu để bao quát cả, đó là: tín tâm chẳng đủ. Tư lương để vãng sanh là tín, nguyện, hạnh, khuyết một chẳng thể được. Theo sách Yếu Giải: nếu thiếu tín, nguyện thì dẫu trì danh như tường đồng, vách sắt, mưa gió chẳng lọt cũng chẳng được vãng sanh.

          ‘Trụ trong Ðại Thừa’ là như phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có nói: ‘Nếu có chúng sanh nghe pháp từ đức Thế Tôn mà tin nhận, siêng tu tinh tấn, cầu Nhất Thiết Trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, Như Lai tri kiến, lực vô sở úy, thương xót, an vui vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát hết thảy thì gọi là Ðại Thừa’.

Sách Thập Nhị Môn Luận cũng nói: ‘Ma Ha Diễn cao hơn Nhị Thừa nên gọi là Ðại Thừa. Chư Phật lớn nhất mà thừa này đạt đến được nên gọi là Ðại. Chư Phật đại nhân dùng thừa này nên gọi là Ðại. Ðại Thừa lại có thể diệt trừ nỗi khổ lớn của chúng sanh, ban cho sự đại lợi ích nên gọi là Ðại. Lại dùng thừa này có thể thấu triệt đến tận nguồn cội hết thảy các pháp nên gọi là Ðại’.

Quyển 28 kinh Ðại Bảo Tích có nói: ‘Ðạo chánh chơn, chánh giác của chư Phật Như Lai hành, thừa ấy gọi là Ðại Thừa’.

          ‘Kẻ trụ trong Ðại Thừa’ tức là người thường trụ trong pháp Ðại Thừa như vừa nói trên. Nên biết rằng kẻ ấy nào phải là phàm phu, Tiểu Thừa; tuy mang nhục thân nhưng vẫn gọi là Bồ Tát.

          ‘Tâm thanh tịnh’ là tâm vô ngại, vô cấu, tịnh tín. Kinh A Hàm, quyển bốn mươi mốt bảo: ‘Tâm thanh tịnh [là tâm] hoàn toàn hết sạch dâm, nộ, si, thành tựu tam minh’. Tâm thanh tịnh như thế công đức khó nghĩ bàn. Vì vậy, phẩm Thập Phương Chư Phật Khen Ngợi có nói: ‘Thậm chí có thể phát được một niệm tịnh tín… tùy nguyện vãng sanh’. Dùng tâm thanh tịnh như trên để quy hướng Vô Lượng Thọ Phật nên bảo: ‘Dùng tâm thanh tịnh hướng đến Vô Lượng Thọ Phật’.

          ‘Dẫu chỉ mười niệm’: Chữ ‘dẫu chỉ’ là so với số nhiều để nói lên số ít như ta hay nói ‘tối thiểu’. Tín, nguyện, trì danh quy hướng Tịnh Ðộ như trên thì dẫu chỉ giữ được mười niệm liên tục cũng quyết định được sanh về cõi ấy. Mười niệm này gồm cả niệm lúc bình thời lẫn khi lâm chung.

          a. Ngay trong lúc bình thời, mười niệm cũng có hai thứ:

          a.1. Một là như thập niệm đức Phật giảng trong kinh Di Lặc Phát Vấn như phần trên đã dẫn: chẳng tạp kiết sử cho đến Bồ Tát niệm chẳng phải là phàm phu niệm. Còn như kinh này dạy: ‘Dùng tâm thanh tịnh hướng về Vô Lượng Thọ Phật, dẫu chỉ mười niệm’ chính là nói đến cái tâm đã hết sạch ba độc dâm, nộ, si, thành tựu cả trí đức tam minh. Dùng cái tâm như thế để trì danh hiệu Phật. Niệm Phật như vậy công đức khó nghĩ nổi. Dùng đây làm nhân thì khi lâm chung quyết định được vãng sanh, nhưng đấy chỉ là thập niệm của Bồ Tát.

          a.2. Hai là pháp Thập Niệm buổi sáng của ngài Từ Vân Sám Chủ: Mỗi ngày vào lúc sáng sớm, xúc miệng, đốt hương, hướng về phía Tây chắp tay, niệm Phật đủ mười hơi. Trong mỗi hơi, tận lực niệm Phật hiệu, cứ hết một hơi là một niệm. Cách này để tiếp dẫn người bận rộn công chuyện hoặc siêng tu pháp khác chẳng có nhiều thời gian để tu Tịnh nghiệp. Trọn đời tu như vậy thì được Phật bổn nguyện gia oai nên cũng được vãng sanh.

          b. Mười niệm trong lúc lâm chung là như Quán kinh dạy, thầm hợp với lý nhất tâm nên chắc chắn được vãng sanh.

          Nói chung lại, các thứ mười niệm vãng sanh đều là do đại nguyện ‘mười niệm ắt được vãng sanh’ của Di Ðà hoằng thệ tạo thành.

          ‘Nhất niệm tịnh tâm’, ‘phát một niệm tâm’ cũng như ‘một niệm tịnh tín’ trong đoạn văn trước đều là ‘nhất niệm’ cả. Nhất tâm này là bổn thể của mười pháp giới, là tên gọi khác của Chơn Thật Tướng, cũng chính là cái mà kinh Na Tiên gọi là ‘thật là bậc nhất’ hay Di Ðà Sớ Sao bảo: ‘Toàn thể là Phật’.

‘Phát một niệm tâm, niệm đức Phật ấy’ thì ‘quyết định được sanh về cõi ấy’ chính là giáo nghĩa nhất niệm của ngài Hạnh Tây Thị người Nhật đã đề xướng. Phàm phu nếu có thể dùng tín tâm tương ưng với Phật trí trong một niệm thì sẽ được vãng sanh.

Hơn nữa, một niệm ấy toàn thể là Phật, mà cái toàn thể ấy cũng chính là đức Phật trong một niệm. Do niệm đức Phật ấy nên trong một niệm liền được tương ưng. Vì vậy, ‘quyết định sanh về cõi kia, được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề’.

          ‘Người ấy lúc mạng sắp dứt như trong giấc mộng’: Do nhất niệm vãng sanh cũng chia ra ba bậc nên có nhiều phẩm loại. Do đó, ảnh tượng lúc lâm chung cũng trở thành sai khác:

a. Ðối với bậc thượng, ý tưởng sanh tử đã hết, thể của phàm hay thánh đều là không, hiểu rõ Phật chẳng đến, đi nhưng thấy Phật hiện đến, hiểu rõ sanh tử vốn là không mà hóa hiện có vãng sanh; bỏ cõi này sanh về cõi kia đều như huyễn mộng. Vì vậy bảo là ‘như trong giấc mộng’.

b. Bậc trung hiểu rõ thế gian đều như mộng, huyễn, bọt nước, hình bóng thoáng qua nên lúc lâm chung chẳng lưu luyến gì, coi hệt như giấc mộng.

c. Còn người bậc hạ lúc lâm chung phảng phất tựa hồ trong mộng được thấy đức Phật ấy nên cũng được vãng sanh (chỉ có bậc hạ trong ba bậc của nhất tâm tam bối là chẳng giống với bậc hạ vãng sanh nói trong phần chánh tông, còn hai bậc thượng và trung thì giống. Ðấy là do nhất tâm tam bối là một loại riêng chẳng giống với thói thường).

Do những điều trên ta thấy rằng phẩm loại của những người niệm Phật mà đạt được nhất tâm, được vãng sanh thật khác xa nhau lắm:

* Bậc thượng là thánh hiền, bậc hạ là phàm phu. Niệm Phật đạt đến nhất tâm, thậm chí ‘phát được một niệm tịnh tín’ ‘đạt được một niệm tịnh tâm, phát một niệm tâm niệm đức Phật kia’ thì đều được vãng sanh.

* Thấp nhất là kẻ ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung phát nguyện, chí tâm niệm Phật mười tiếng liên tục thậm chí chỉ niệm được một tiếng, do ngầm khế hợp với lý nhất tâm nên cũng được vãng sanh. Ðiều này thể hiện rõ ràng công đức của nhất tâm thật là bậc nhất.

Pháp môn trì danh của Tịnh Ðộ vi diệu khó nghĩ nổi: Ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung niệm Phật còn thầm hợp diệu đạo, khế hợp lý nhất tâm liền vượt khỏi sanh tử chứng lên Bất Thối. Rõ ràng là pháp môn Trì Danh là phương tiện rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn.

Trong hai loại vãng sanh vừa nói trên:

- Một là tam bối vãng sanh đều do ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’, đây chính là điều được kinh này đề cao.

- Hai là một niệm tịnh tín, nhất niệm vãng sanh đều do ‘nhất niệm’.

Thì ‘nhất niệm’ là Thật Tướng, đó chính là bổn thể của kinh này. Vả lại, toàn thể của một niệm tịnh tâm là Bồ Ðề tâm, ‘niệm đức Phật ấy’ chính là chuyên niệm. Như vậy, nhất tâm tam bối cũng chẳng ra ngoài tông chỉ của kinh này.

Hơn nữa, Quán kinh bảo ngũ nghịch, thập ác được vãng sanh; kinh này dạy ‘chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp’ thì chẳng được vãng sanh. Trong Quán Kinh Nghĩa Sớ, ngài Gia Tường đã giải thích vấn nạn ấy như sau:

‘Phẩm thứ ba nói về ba hạng người ác.

Trước hết, bàn về người tạo thập ác, tiếp đó bàn đến kẻ tạo tội tứ trọng, cuối cùng bàn về kẻ ngũ nghịch, chẳng bàn đến Báng Pháp Xiển Ðề (kẻ báng pháp gọi là xiển đề) nên gọi là ‘‘ác chẳng tận’’.

 Thập ác, tứ trọng, ngũ nghịch đều được vãng sanh Tây phương. Nếu là kẻ báng pháp xiển đề thì chẳng được vãng sanh! Xiển đề chẳng tin pháp, khi lâm chung dẫu nói có đức Vô Lượng Thọ Phật thì vẫn hoàn toàn chẳng tin nên chẳng được vãng sanh’.

Sách An Lạc Tập đã bàn về vấn đề này rất tường tận. Phần trên đã dẫn nên ở đây tôi không nhắc lại.

Riêng tác phẩm Tứ Thiếp Sớ có quan điểm khác hẳn. Ngài Thiện Ðạo viết: ‘Như trong bốn mươi tám nguyện lại loại trừ kẻ báng pháp, ngũ nghịch… Ðức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội lỗi ấy nên phương tiện nói ngăn ngừa là chẳng được vãng sanh, chứ chẳng phải là không tiếp độ… Nếu trót tạo tội (rồi sám hối, phát nguyện, trì danh hiệu Phật) thì lại được vãng sanh’.

Hai bản sớ tuy giải thích khác nhau, nhưng thật sự chẳng mâu thuẫn nhau. Ngài Gia Tường bảo kẻ xiển đề báng pháp chẳng thể khởi lòng tin nên chẳng được vãng sanh. Ngài Thiện Ðạo bảo tuy họ là kẻ báng pháp ngũ nghịch nhưng lúc lâm chung, nghe pháp sanh nổi lòng tin, sám hối, hồi tâm, chí tâm tin ưa, nguyện sanh cõi kia dẫu chỉ mười niệm thì Phật rủ lòng đại từ nên cũng được tiếp độ vãng sanh Cực Lạc. Do xiển đề cũng có khả năng thành Phật nên lúc lâm chung nếu họ sanh chánh tín thì chẳng còn là xiển đề nữa. Vì thế, đức Phật rủ lòng từ tiếp dẫn.

Nhưng kẻ xiển đề lúc lâm chung sanh được lòng tin thì thật là một điều khó nhất trong những điều khó. Lâm chung mười niệm vãng sanh như Quán kinh dạy đã là trong vạn vạn người mới có được một người. Còn nếu như Tứ Thiếp Sớ bảo kẻ báng pháp ngũ nghịch lâm chung chí tâm tin ưa niệm Phật vãng sanh thì trong ức ức người mới có được một người.

Kinh Pháp Cổ lại bảo: ‘Nếu lúc lâm chung chẳng thể niệm nổi, chỉ biết là phương kia có Phật liền khởi ý vãng sanh thì cũng được vãng sanh’. Như Lai từ đức vi diệu khó nghĩ bàn! Vì thế, sách An Lạc Tập bảo: ‘Phải biết rằng Như Lai có phương tiện thù thắng, nhiếp hộ tín tâm, chính là: dùng việc chuyên nhớ tưởng Phật làm nhân duyên để tùy nguyện vãng sanh’.

Sách còn khen ngợi: ‘Nếu nghe đức hiệu của Phật A Di Ðà mà hoan hỷ, khen ngợi, ngưỡng mộ, tâm quy y dẫu chỉ trong một niệm liền được đại lợi, đầy đủ báu công đức. Giả sử lửa dậy khắp cõi Ðại Thiên cũng phải xông thẳng vào nghe danh hiệu Phật. Nghe danh A Di Ðà Phật thì chẳng thối chuyển. Vì vậy nên chí tâm dập đầu lễ’.

Xem mục lục