Ðối trị hôn trầm và tán loạn
Muốn đối trị hôn trầm và tán loạn hãy quán tưởng ở ngay giữa trán một điểm tròn nhỏ bằng hạt đậu, màu trắng, tỏa ánh sáng trong suốt và trụ tâm ở đó. Ðôi khi quán tưởng một điểm nhỏ như trên màu đen, cũng tỏa ánh sáng nhưng nằm phía dưới khoảng giữa hai đầu gối. Ðể đối trị hôn trầm, hãy chú tâm vào điểm trắng, thân ngồi nơi thoáng khí, rộng rãi, lâu lâu có thể dùng nước mát lau mặt. Nên mặt y phục nhẹ mỏng và ăn đồ dễ tiêu; không nên ngồi chỗ nóng, gần lửa hoặc dưới mặt trời. Ngược lại nếu bị tán loạn, tâm dường như chạy khắp nơi khắp chốn, thì phải quán tưởng và chú tâm vào điểm đen. Thân nên ngồi chỗ nóng ấm, hay tập thể dục và ăn những đồ bổ, lâu tiêu.
Hôn trầm và tán loạn là những chướng ngại lớn nhất cho sự tu thiền. Hôn trầm khiến cho hành giả không còn nhìn rõ đối tượng và trở nên đờ đẫn. Màu trắng có công năng đối trị hôn trầm; ban đầu hành giả có thể dùng một miếng vải trắng để trước mặt, và mỗi khi hôn trầm thì chú tâm vào đó. Mặt khác, nếu ngồi dưới mặt trời hoặc nơi nóng bức sẽ dễ bị buồn ngủ, do đó cần phải ngồi nơi mát mẻ và thoáng khí. Sự ảnh hưởng của thức ăn cũng quan trọng không kém. Ăn những món nhẹ dễ tiêu sẽ giúp tâm trở nên nhẹ nhàng, sáng suốt.
Tán loạn thì ngược lại, luôn luôn khích động và lôi kéo tâm ra khỏi đối tượng quán chiếu. Chú tâm vào điểm đen phía dưới sẽ hãm tâm lại và màu đen có công năng giảm sự kích thích của tâm. Bị tán loạn nhiều là do ảnh hưởng của những luồng nguyên lực quá nhanh nhẹ, dùng thức ăn bổ và lâu tiêu sẽ khiến những luồng này chảy chậm lại, nhờ đó tâm bớt phóng.
Muốn tu tập dễ dàng cần phải biết điều hòa cơ thể, vì giòng tâm thức nương chảy trên những luồng nguyên lực qua các sạn đạo của thân vi tế [1]. Ðiều hòa thân (thô kệch) cũng tức là điều hòa tâm.
Hãy nên ngừng nghỉ trong lúc tâm còn sáng suốt và sẽ tiếp tục lại sau. Nên chia sự tu tập làm nhiều thời khóa ngắn nhưng đều đặn. Ðây là điểm thứ tư của Thiền Ðịnh.
Chú thích:
[1] Corps subtil: theo Mật giáo, con người có 2 thân: thân thô kệch (corps grossier) bằng thịt bằng xương, và thân vi tế (corps subtil) cấu tạo bởi các kinh lực.
Thiền Ðịnh không sự tướng
Trong phần tu tập này hãy mở mắt nhìn thẳng vào khoảng trống hư không trước mặt, không trụ tâm trên một đối tượng nào cả.
Hư không cũng tương tợ như tánh của tâm, không lệ thuộc vào sự giả hợp của nhân duyên. Quán chiếu hư không trước mặt là một phương pháp chuẩn bị để quán chiếu thẳng vào tâm.
Pháp quán chiếu thẳng vào tâm không qua sự tướng rất thường trong Mật tông, nó tập cho hành giả làm quen với trạng thái trung ấm (bardo) và trở về với Pháp thân. Thiền quán không sự tướng không có nghĩa là làm cho tâm trống rỗng, mơ mơ màng màng, như ngu như ngây. Ngược lại đó là một trạng thái rất tỉnh thức, trong sáng và vắng lặng.
Không khởi tâm suy nghĩ về quá khứ, hiện tại hay vị lai. Hãy trụ trong tĩnh lặng của "bây giờ và ở đây". Luôn tỉnh táo và chăm chú quán sát tâm như đang xỏ một mũi kim nhỏ. Hảy xả bỏ mọi hy vọng và lo âu. Khi hoàn toàn tỉnh thức vắng lặng thì những ý niệm cũng mất dạng. Thoảng như hơi thất niệm xao lãng thì ý niệm sẽ tiếp nối nhau khởi lên tới tấp, gặp trường hợp này hãy tập nhận diện và nhìn thẳng vào chúng khi chúng vừa khởi. Không nên nghĩ "ta phải ngăn chặn chúng", hoặc "ta đã tiêu diệt chúng" v.v... hãy ghi nhận chúng một cách khách quan không dính mắc và dùng ngay chúng làm đối tượng quán sát. Cẩn thận giữ tâm không quá căng thẳng cung không xao lãng. Ðây là điểm thứ năm.
Khi mới tu tập thiền, ta có cảm tưởng như các ý nghĩ khởi lên không ngớt. Ðó chẳng qua vì ta bắt đầu quay trở vào trong, biết nhìn và ý thức được sự hiện khởi của chúng.
Tâm và những ý niệm không phải là một cũng không phải hai. Nếu là một thì không thể nào tu tập trở về bổn tâm và cùng lúc loại trừ ý niệm. Nếu là hai (vật khác biệt) thì cái bàn, cái ghế cũng có thể khởi ý niệm được. Tâm trong sáng ví như mặt gương, ý niệm ví như hình ảnh trong gương; hình ảnh không phải là gương nhưng cũng không thể tách rời gương được.
Ý niệm dấy khởi bắt nguồn từ sự lầm quên thực tánh của các pháp. Có nhiều loại ý niệm hay vọng tưởng: thô và tế. Thí dụ, khi ta đang quán chiếu về một cái ly, bỗng nhiên ý niệm "muốn uống trà" khởi lên thế rồi ta liền gọi người đi pha trà cho ta. Ðó là ý niệm thô, vì nó dẫn ta hoàn toàn ra khỏi đề mục. Những ý niệm như "đây là một cái ly, cái ly này bằng sành" hoặc bất chợt chú ý đến một âm thanh thay vì định tâm vào cái ly; đây thuộc loại vi tế. Phải luôn tỉnh thức nhận diện những ý niệm hiện khởi, ghi nhớ chúng chỉ là trò huyễn (ảo đồ) của tâm như những hình ảnh trong gương, không nên dính mắc, cứ để chúng tự khởi tự diệt.
Ðịnh tâm trên hơi thở
Còn một phương pháp khác, đó là trụ tâm vào hơi thở. Hãy điều phục hơi thở theo cách "hít-thở-bình" (respiration-vase). Nếu không thể giử lâu cách "hít-thở-bình" thì có thể "đếm-hơi-thở". Hít vào thở ra đếm một. Ban đầu tập đếm tới 21 sau đó tăng dần đến 100. Cố gắng giữ chánh niệm trong suốt thời gian hít thở.
Như đã nói ở phần trước, tâm liên hệ mật thiết với các luồng nguyên lực hay khí lực. Hít thở một cách loạn động sẽ khiến ý niệm theo đó mà dấy khởi. Hít thở một cách nhẹ nhàng đều đặn thì tâm cũng trở nên yên lặng.
Có nhiều loại hít thở. Cách thông thường là hơi thở của một ngườI không bệnh tật, không xúc động hay kích thích. Cách hít thở cỡ trung là hít vào, giữ hơi lại một chút rồi thở ra. Cách hít-thở-bình là hít hơi vào, hóp những cơ vòng (sphincter) và giữ hơi lại. Cách hít thở này cũng chia làm nhiều loại: đại, tiểu, nội, ngoại. Ðại: giữ hơi giữa rún và cổ họng; tiểu: giữ hơi ngay rún; nội: hít vào rồi giữ ở trong; ngoại: thở ra hết rồi nín hơi.
Thông thường cách hít-thở-bình có 4 đặc tính: 1) giữ hơi, 2) làm giản những thớ gân ở bụng, 3) có thể khiến hơi khí thoát ra ngoài bằng những lỗ chân lông hoặc trở vào sạn đạo trung ương, 4) sau khi giữ hơi thật lâu, có thể tống luồng khí lực ra ngoài xuyên qua đường sạn đạo nơi đỉnh đầu.
Cách hít-thở-bình thuộc loại tu tập khó và nguy hiểm, chỉ được dạy sau khi đã hoàn tất các pháp dự bị tu tập. Nếu không tu tập đứng đắn, những luồng khí lực sẽ chạy loạn xạ, sanh ra tổn khí, tâm thần cáu kỉnh và có thể loạn trí.
Khi hôn trầm và loạn tưởng kéo đến, hãy dùng phương pháp đối trị ở trên. Nếu không thể định tâm được trên những đối tượng trình bày ở trước thì có thể lựa một vật hay đề mục mà cảm thấy thích hợp. Vì căn cơ mỗi người không đồng, có người sau khi nghe giảng hai, ba lần liền có thể an trụ được tâm, có người lại không an trụ được tâm dù đã tu tập thiền định lâu ngày. Ngoài ra cũng cần sự hướng dẫn của một vị Thầy từng trải kinh nghiệm để giải tỏa những khúc mắc và chướng ngại khi tu tập. Tu tập đều đặn, ta sẽ trải qua ba giai đoạn điều tâm. Giai đoạn thứ nhất, vọng tưởng hay ý niệm thô khởi lên rất nhiều tựa như thác nước đổ. Giai đoạn thứ hai, vọng niệm thô giảm dần, lâu lâu mới phát hiện nhưng ta nhận diện được ngay và nó liền biến mất, ở đây tương tợ như giòng sông chảy mạnh. Giai đoạn sau cùng, tất cả vọng niệm thô, tế đều tan biến và ta an trụ trong trạng thái bất nhị, như sông nhập biển lớn. Ðến trạng thái này, tiếp tục gia công không gián đoạn. Ðây là điểm thứ sáu.