Những phân chia của Đại thừa
Đoạn này có hai phần : sự phân chia của Đại thừa thành hai và một giải thích chi tiết về những hình thức đi vào Kim Cương thừa.
Sự phân chia của Đại thừa thành hai
Đoạn này có ba phần : số phân chia của Đại thừa, nghĩa của chúng, và những lý do của chúng.
Số phân chia của Đại thừa
Đưa vào Ý Nghĩa của Những Tantra Yoga Tối Thượng của Shraddhakaravarma nói, ‘Có hai loại Bồ tát thừa, một Thừa (Nhân) gồm những địa và những hoàn thiện và một Thừa Quả của Mật Chú.’ Như thế, ‘Mật chú thừa’, ‘Quả thừa’ và ‘Kim Cương thừa’ là đồng nghĩa với Mật thừa, cái này còn được gọi là ‘Phương tiện thừa.’ Danh từ ‘Nhân-Quả thừa’ là một tên của hai thừa (Hoàn Thiện và Mật thừa). Kinh Phát Hiện Bí Mật như được trích trong Trừ Diệt Hai Cực Đoan trong Kim Cương thừa của Jnanashri nói :
Khi bánh xe của những giáo lý nhân
Hoạt động trên những nhân đã chuyển,
Thừa Quả, con đường ngắn…
Trong những cuốn sách của Kim Cương thừa, nó cũng được biết như là ‘bộ phận kinh điển của những vị Mang Giữ Kiến Thức’ và ‘những bộ tantra.’
Ý nghĩa của những phân chia riêng biệt của Đại thừa
Về ‘Mật chú thừa’, nó là mật bởi vì nó được hoàn thành một cách bí mật và dấu kín, không được dạy cho những ai không phải là pháp khí thích hợp. Trong chữ ‘mantra’ (chú) man nghĩa là tâm và tra là sự bảo vệ giữ gìn. Phần tiếp tục của Tantra Ghyasamaja (chương XVIII) nói :
Những tâm thức duyên sanh
Dựa trên một giác quan và một đối tượng
Được gọi là man
Tra nghĩa là bảo vệ, giữ gìn.
Bảo vệ bằng tất cả kim cương
Của những cam kết và thệ nguyện
Thoát khỏi những cách thức thế gian
Được gọi là ‘thực hành Mantra’.
Bạn cần biết rằng theo một cách khác man là để gọi trí huệ về Chân Như và traya là đại bi bảo vệ những di dân lang thang trong sáu nẻo sanh tử.
Về ‘thừa’, có một thừa quả, nó là cái người ta đi đến và một thừa nhân nó là cái nhờ vào đó người ta đi. Sự đi đến, tiến bộ, người ta gọi là ‘thừa’. Về Quả thừa, ‘Quả’ để chỉ bốn sự thanh tịnh triệt để : nơi chốn, thân thể, tài nguyên và công hạnh, chúng là cung điện, thân thể, tài sản và hoạt động của một vị Phật. Để tương hợp với chúng, người ta thiền định chính mình như một người hiện đang có một tòa nhà bất khả tư nghì, những quyến thuộc thiêng liêng, những vật phẩm linh thánh và những công hạnh, những cái này như là sự tịnh hóa tất cả môi trường và chúng sanh chung quanh. Như thế, nó được gọi là Quả thừa bởi vì người ta tiến bộ qua thiền định tương ưng với những phương diện của kết quả (hay quả, Phật tánh). Đưa vào Ý Nghĩa của những Tantra Yoga Tối Thượng của Shrad-dhakaravarma nói, ‘Nó được gọi là ‘Quả’ bởi vì người ta thể hiện những cách thức của thân thể, tài nguyên, nơi ở và công hạnh hoàn toàn thanh tịnh.’
Về ‘Kim Cương thừa’, Ánh Sáng không Vết Mờ (Vima-laprabha) (một bình giảng về Tantra Kalachakra của Rik-den-pad-ma-kar-po, một Hóa thân của Quán Thế Âm) nói, ‘ “Vajra”, kim cương là tính không thể phân chia và không thể hủy hoại. Đó là Đại thừa ; Đại thừa này là Kim Cương thừa. Nó là sự hợp thành một vị của cách thức Mật Chú có bản chất kết quả và cách thức Hoàn Thiện (ba la mật) có bản chất nguyên nhân.’ Ý nghĩa của Kim Cương thừa được tỏ rõ qua Kim Cương như là sự bất phân của kết quả – cách thức Mật Chú – và nguyên nhân – cách thức Hoàn Thiện. Ở đây, ‘nhân và quả’ ám chỉ tánh Không tối thượng toàn diện và lạc tối thượng bất biến. Giải Thích Ngắn Gọn về những Nhập Môn (Shekhoddesha) (nằm trong vòng Kalachakra) nói :
Cái mang hình thức của tánh Không là nguyên nhân,
Cái mang tâm bi bất biến là kết quả.
Tánh Không và đại bi không thể phân chia
Được gọi là tâm giác ngộ.
Sự không thể phân chia của hai cái này là một Thừa Nhân trong nghĩa nó là phương tiện nhờ đó người ta đi đến, và một Thừa Quả theo nghĩa nó là cái người ta đi đến. Một Kim Cương thừa như vậy là chỉ đến Tantra Yoga Tối Thượng và không thể có trong những tantra cấp thấp. Vì lạc tối thượng bất biến chỉ có thể khởi sanh khi người ta đã đạt đến nhánh đại định (trong hệ thống Kalachakra)(8) và như thế những nhánh chánh niệm và các nhánh dưới phải là phương tiện đề tựu thành nó. Ba tantra cấp thấp không có mọi yếu tố gồm trong những nhánh làm nguyên nhân này.
Bởi thế, sự giải thích về Kim Cương thừa mang chút liên hệ với nghĩa tổng quát của nó, và điều tương tự áp dụng cho sự giải thích của các thừa Nhân và Quả. Ở đây ý nghĩa của Kim Cương thừa cần được hiểu phù hợp với điều được nói trong Một Nắm Hoa, Sự Giải Thích về Tantra Guhyasamaja của Ratnakarashanti : ‘Về việc nó được gọi là Kim Cương thừa, những cái bao gồm tất cả Đại thừa là sáu hoàn thiện. Những cái bao gồm sáu hoàn thiện là những phương tiện và trí huệ, và cái bao gồm phương tiện và trí huệ trong một vị là tâm giác ngộ. Cái ấy là định Vajrasattva ; tức là một kim cương. Bởi vì nó vừa cả là một kim cương và là một thừa, nó là Kim Cương thừa, Thần Chú thừa.’ Như thế, thiền định Vajrasattva thống nhất không thể phân chia phương tiện và trí huệ là Kim Cương thừa. Nó có đồng thời cả con đường và quả.
Bởi vì Kim Cương thừa có nhiều phương tiện thiện xảo hơn Thừa Hoàn Thiện, nó được gọi là Phương Tiện thừa. Trừ Diệt hai Cực Đoan trong Kim Cương thừa của Jnanashri nói, ‘Vì tính không thể phân chia, nó là Kim Cương thừa. Bởi vì chính kết quả trở thành con đường, nó là Quả thừa. Bởi vì sự vĩ đại của những phương tiện của nó, nó là Phương Tiện thừa. Bởi vì sự bí mật cực kỳ của nó, nó là Mật thừa.’
‘Bộ phận kinh điển của những vị Mang Kiến Thức’ phải được hiểu là nói đến sự chỉ dạy những chủ đề tu hành và giáo lý của những vị mang giữ những thần chú hiểu biết. Đúc Kết về Tantra Những Câu Hỏi của Subahu của Buddhaguhya cũng giải thích theo cách này. Shraddhakaravarma giải thích nó theo hai cách trong Đưa Vào Ý Nghĩa của Những Tantra Yoga Tối Thượng : một cách trong đó bộ phận kinh điển của những vị Mang Giữ Kiến Thức là bộ phận kinh điển thứ tư không bao gồm trong ba bộ phận kinh điển (luật, luận và kinh) và một cách trong đó nó bao gồm ba bộ phận kinh điển. Tuy nhiên, Tantra Những Câu Hỏi của Subahu nói, ‘Hãy nghe, ta sẽ giải thích điều này phù hợp với những bộ luận của Mật Chú.’ Cũng thế, trong nhiều tantra ‘kinh’ và ‘những bộ luận’ được đề cập (ám chỉ đến tantra). Bởi thế Ratnakarashanti xác định đúng đắn rằng ‘bộ phận kinh điển’ này là những ‘bộ luận’ (sutranta) bởi vì chúng dạy những giáo lý sâu xa trong hình thức ngắn gọn. Tuy nhiên, nếu bộ phận kinh điển của những vị Mang Giữ Kiến Thức được xét xem theo những phần bên trong của nó, nó cũng dạy những ý nghĩa của những bộ phận kinh điển khác (luật và kinh) ; bởi thế sự xác nhận của Abhayakara rằng bộ phận kinh điển của những vị Mang Giữ Kiến Thức bao bồm cả ba bộ phận kinh điển là đúng.
Trong phần tiếp theo của Tantra Guhyasamsaja ‘tantra’ có nghĩa là ‘dòng tương tục’ và có ba loại : một ‘dòng tương tục nền tảng’ là nền tảng trên đó những con đường được vận hành (để tịnh hóa nó khỏi các che chướng), một ‘dòng tương tục con đường’ tịnh hóa nền tảng này, và một ‘dòng tương tục quả’ là quả của sự tịnh hóa. Cả ba cái là tantra theo nghĩa là những mục tiêu để bàn luận (trong các sách gọi là tantra). Một bản văn có cái nào trong ba cái ấy như mục tiêu bàn luận của nó là một ‘dòng tương tục sách’ (tantra) bàn luận (những chủ đề ấy).
Chữ ‘bộ’ trong ‘những bộ tantra’ (tantranta) có nghĩa là một tổng tập hay tập hợp những tantra.
Thừa Hoàn Thiện có sự phát sanh một nguyện vọng đạt đến giác ngộ tối thượng và tất cả chúng sanh như là nền tảng những thực hành của nó. Nó tiến hành nhờ những thực hành của nó, sáu hoàn thiện, và không có những con đường khác như hai giai đoạn (của Tantra Yoga Tối Thượng). Nếu Thừa Hoàn Thiện được xem như là thừa bao hàm sự phát sanh một nguyện vọng đạt đến giác ngộ tối thượng vì tất cả chúng sanh và tiến hành nhờ sáu hoàn thiện (mà không có thêm những đặc trưng là những con đường như hai giai đoạn), thì Kim Cương thừa cũng là một Thừa Hoàn Thiện.
Thừa Hoàn Thiện được gọi là Thừa Nhân bởi vì nó không bao gồm sự trau dồi một con đường tương ưng về phương diện với bốn quả được đề cập ở trên (nơi ở, thân thể, tài nguyên và hoạt động của một vị Phật) mà chỉ có thiền định về những nguyên nhân của chúng.
Những lý do để chia Đại thừa thành
một Thừa Hoàn Thiện và của một Kim Cương thừa
Đoạn này có hai phần : phát biểu những điểm sanh nghi ngờ trong sự phân biệt và một trả lời.
Phát biểu những điểm sanh nghi ngờ trong sự phân biệt
Tại sao Đại thừa lại chia thành hai thừa ? Không phải từ quan điểm phát sanh nguyện vọng giác ngộ tối thượng vì tất cả chúng sanh. Bởi vì những Bồ tát đều thực hành theo Mật thừa và Thừa Hoàn Thiện để đạt đến Phật tánh viên mãn cho tất cả chúng sanh. Cũng không có khác biệt cao thấp trong giác ngộ mà họ tìm kiếm cho ý định này ; như thế Đại thừa không thể chia thành hai thừa từ quan điểm của sự tìm kiếm giác ngộ.
Sự phân chia này không nằm ở chỗ có tri kiến nhận biết tánh Như của các hiện tượng hay không, bởi vì không có tri kiến nào cao hơn sự trình bày của Nagarjuna trong Trung Đạo Luận về tư tưởng của những kinh điển rốt ráo, như những Kinh Sự Hoàn Thiện của Trí Huệ (Kinh Bát Nhã Ba la mật). Ngay như có một tri kiến cao hơn, nó cũng không thể lập nên những thừa riêng biệt – tương tự, dẫu cho Thừa Hoàn Thiện có Madhyamika và Chittamatra, hai phái này không là hai thừa riêng biệt được.
Cũng vậy, thực hành sáu hoàn thiện có trong hai thừa Hoàn Thiện và Kim Cương. Như thế, không có sự khác biệt về những con đường chính – phương tiện và trí huệ – để thành tựu Sắc thân và Pháp thân của một vị Phật. Dù Kim Cương thừa có vài đặc trưng của những con đường không hiện hữu trong Thừa Hoàn Thiện, những cái ấy không phải là những đặc trưng của những con đường chính ; bởi thế, những khác biệt ấy không thể thiết lập nên sự phân chia các thừa riêng biệt.
Lại nữa, chỉ có một khác biệt sắc bén hay chậm lụt trong những khả năng của con người (tu hành trong những con đường ấy) hay trong tốc độ tiến bộ trên những con đường không thể tạo thành các thừa riêng biệt, như Thừa Hoàn Thiện không có những thừa riêng trong nó, dù nó có những sự khác biệt như trên. Những khác biệt ấy cũng được tìm thấy trong chính Mật thừa.
Trả lời
Trả lời có hai phần : những ý kiến bác bỏ của những người khác và trình bày ý kiến đúng.
Những ý kiến bác bỏ của những người khác về lý do phân chia Đại thừa thành Thừa Hoàn Thiện và Kim Cương thừa
Có người nói, ‘Mật thừa được thuyết để thuần hóa những người tu hành nhiều tham muốn và Thừa Hoàn Thiện cho những người tu hành thoát khỏi tham muốn. Bởi thế, trau dồi một con đường không từ bỏ tham muốn hay một con đường từ bỏ tham muốn là lý do để phân chia Đại thừa thành hai thừa.
Tôi sẽ giải thích điều này. (Sai lầm khi nói rằng) Đại thừa được chia thành hai thừa vì những người tu hành trau dồi một con đường không từ bỏ tham muốn hay một con đường từ bỏ tham muốn. Bởi vì cả hai thừa đều có cả hai con đường ấy, nên đặc trưng này không thể phân biệt hai thừa. Có nhiều Bồ tát chủ gia đình đi vào Thừa Hoàn Thiện mà không từ bỏ những hạnh bất tịnh. Cũng có nhiều vị thiện xảo trong phương tiện khởi từ lòng vị tha lớn lao hành động một cách bất tịnh, như trường hợp Bà la môn Kyiu-kar-ma. Cũng thế, trong những người tu hành Mật thừa, có nhiều vị từ bỏ sự luyến ái vào những thứ của cõi dục. Ngoài ra, sẽ là lầm lỗi nếu người ta không thoát khỏi những tham muốn của cõi dục cho đến khi đạt được Phật tánh, hay là đã đạt đến Phật tánh rồi mà còn chưa từ bỏ những cái ấy.
Bác bỏ : Điều này không được áp dụng cho một người hay tất cả người tu hành của Mật thừa và Thừa Hoàn Thiện. Nó phải được xem xét trong khuôn khổ những người tu hành chủ yếu hay đặc biệt ban đầu đi vào những con đường này. Hơn nữa, một người tu hành Mật thừa không phải là người thích hợp để trau dồi những con đường của thừa này nếu không có ý định từ bỏ tham muốn những thứ thuộc cõi dục. Một người có là một người tu hành Mật thừa hay không được xác định bởi có hay không thiện căn phước đức (đã tích tập những nghiệp lành trước kia) đến nỗi sự tham muốn ấy có thể trở thành một nguyên nhân của giải thoát qua sự việc nó có thể hoạt động như một sự giúp đỡ trong con đường.
Trả lời : Như sẽ giải thích sau này, Tantra Samputa có nói :
Bốn cách cười cợt nhìn ngắm,
Nắm tay và ôm nhau
Hiện hữu như bốn tantra
Theo cách những côn trùng.
Bởi thế, chúng ta phải xác định rằng những người tu hành mỗi loại trong bốn tantra dùng tham muốn trong con đường tùy thuộc vào bốn loại tham muốn những thứ của cõi dục (nhìn, cười, cầm tay, và kết hợp. Sự có mặt hay không của một khả năng dùng khoái lạc trong con đường) là thích hợp cho một khác biệt giữa những con người ban đầu đi vào Mật thừa hay Thừa Hoàn Thiện ; tuy nhiên, nó không thể phân chia các thừa.
Tương tự, Đại thừa không thể phân chia thành một Mật thừa và một Thừa Hoàn Thiện qua việc những con đường của chúng được trang hoàng hay không với lạc hay tập trung xảy ra trên những điểm chính yếu trong thân và tâm. ‘Trang hoàng với lạc’ có thể xem như có nghĩa là qua trau dồi con đường, một lạc đặc biệt khởi sanh trong thân và một niềm vui đặc biệt trong tâm, đến độ tâm an trụ vững chắc vào đối tượng của nó. Tuy nhiên Asanga nói trong Những Khảo Luận về những Cấp Bậc rằng đối với tất cả những người ban đầu thành tựu an định, trước tiên một khí của thân trở nên mềm dẻo linh hoạt nhờ đó một đại lạc khởi lên trong thân, và lần lượt, một niềm vui đặc biệt khởi lên trong tâm. Nhờ điều này tâm an trụ vào đối tượng của nó. Bởi thế, lạc đặc biệt của thân và niềm vui đặc biệt của tâm hiện hữu trong an định, dầu người ấy có là Phật tử hay không. Vậy thì làm sao những cái này có thể quyết định sự phân chia những con đường thành Mật thừa và Thừa Hoàn Thiện ? Vì tôi đã giải thích điều này rộng rãi trong Những Giai Đoạn của Con Đường Chung cho các Thừa, tôi sẽ không làm việc đó ở đây nữa.
Bác bỏ : ‘Trang hoàng với lạc’ ám chỉ một nhận biết ý nghĩa của tánh Như dựa vào một lạc chảy lỏng, lạc này lại dựa vào những giáo lý để thành tựu yếu tố cơ bản đặc biệt là gặp gỡ và ở chung của chất Bồ đề tâm trắng và đỏ.(9)
Trả lời : Điều này không thích hợp cho sự thiết lập khác biệt giữa Mật thừa tổng quát và Thừa Hoàn Thiện bởi vì nó chỉ là một đặc trưng của Mật Chú Tối Thượng (Tantra Yoga Tối Thượng). Vì cùng lý do ấy, không nên hiểu rằng việc tập trung trên những điểm chính yếu trong tâm và thân là thích hợp cho sự khác nhau giữa hai thừa.
Trình bày ý kiến đúng về sự phân chia
Đại thừa thành Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa
Đoạn này có hai phần : lý do thực sự để phân chia Đại thừa thành hai thừa và một lời dạy rằng dù những con đường có những khác biệt thì quả của chúng không thể khác biệt trong cao thấp, hơn kém.
Lý do thực sự để phân chia Đại thừa
thành Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa
Đoạn này có ba phần : lý do phân chia, trích dẫn những nguồn bản văn, và xua tan những bác bỏ.
Lý do phân chia Đại thừa
thành Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa
Về ‘thừa’ theo nghĩa là quả mà người tu hành đi đến, Mật thừa và Thừa Hoàn Thiện không khác nhau như cao hay thấp. Mục tiêu để đạt đến của cả hai thừa là Phật tánh, nó là sự xóa bỏ mọi lỗi lầm và sự viên mãn của mọi phẩm tính tốt đẹp. Bởi thế, hai cái ấy khác nhau về ý nghĩa của chữ ‘thừa’ như là những nguyên nhân nhờ chúng người tu hành đi đến.
Hơn nữa, không có sự khác biệt trong sự chứng ngộ của chúng (tri kiến tánh Không) ; tư tưởng của chúng (phát sanh một nguyện vọng đạt đến Phật tánh vì tất cả chúng sanh), hay thái độ của chúng (tu hành sáu hoàn thiện). Bởi thế, những Thừa như là những nguyên nhân – không thể được phân chia từ những quan điểm này.
Câu hỏi : Từ quan điểm nào, chúng được phân chia?
Trả lời : Những mục tiêu chính được cả hai loại người Đại thừa tìm kiếm là những mục tiêu của những người khác, không phải giác ngộ là mục tiêu của sự chứng đắc riêng mình. Bởi vì thấy Phật tánh như là một phương cách để thành tựu cho những mục tiêu của những người khác, họ tìm kiếm giác ngộ tối thượng như là một nhánh của những mục tiêu của những người khác. Trang Hoàng cho những Chứng Ngộ (Abhisamayalamkara) của Maitreya nói :
Sự phát tâm là ước muốn thành tựu
Giác ngộ viên mãn vì mọi người khác.
Phát tâm vị tha thì tương tự nhau trong cả hai loại người Đại thừa.
Một vị Phật xuất hiện thật sự đối với những người tu hành và hoàn thành những mục tiêu của họ không phải là Pháp thân mà là hai phương diện của Sắc thân (Báo thân và Hóa thân). Pháp thân được thành tựu qua trí huệ nhận biết cái sâu xa (tánh Không) và những Sắc thân được thành tựu qua những phương tiện rộng lớn. Cũng thế, Hai Thân không thể đạt được với một trí huệ không có phương tiện hay với một phương tiện không có trí huệ. Bởi thế, người ta cần trí huệ và phương tiện không phân chia ; đây là một nguyên lý của Đại thừa tổng quát.
Không nhận biết cách thế hiện hữu của những hiện tượng, người ta không thể làm diệt mất mọi phiền não và vượt qua bờ bên kia của đại dương sanh tử luân hồi. Bởi thế, cái trí huệ nhận biết cái sâu xa (tánh Không) thì chung với ngay cả hai loại thấp hơn của những bậc Thánh (Thanh Văn và Độc Giác).
Như thế đặc trưng phân biệt chính của những con đường Đại thừa phải được hiểu là những phương tiện dùng như những nguyên nhân để trở thành một bậc Bảo Vệ và nơi quy y cho chúng sanh khi nào vòng sanh tử còn tồn tại, qua sự xuất hiện trong những Sắc thân với những người tu hành có phước đức. Những người của Thừa Hoàn Thiện trau dồi những con đường tương ưng với Pháp thân qua việc thiền định về tánh Như thoát khỏi mọi tạo tác (về những quy ước danh tướng, nhị nguyên và ý niệm hiện hữu nội tại tự thân) của những hiện tượng. Tuy nhiên, họ không có những con đường thiền định tương tự với một Sắc thân được trang nghiêm với những tướng chánh và phụ trong khi Mật thừa thì có. Như thế, có một sự khác biệt lớn trong những thành phần của những con đường Hoàn Thiện và Mật liên quan đến phương tiện để thành tựu những Sắc thân cốt hoàn thành sự lợi lạc cho những người khác. Chính bởi phương tiện này mà Đại thừa phân chia thành hai thừa.
Một cách tổng quát, người ta phải phân chia Tiểu thừa và Đại thừa không phải bởi trí huệ về tánh Không mà bởi phương tiện, và một cách riêng biệt, sự phân chia Đại thừa thành hai thừa được lập ra không vì trí huệ nhận biết tánh Không sâu xa mà vì phương tiện. Phương tiện chủ yếu được chấp nhận từ quan điểm thành tựu những Sắc thân, và để cho điều ấy, yoga hóa thần bổn tôn của Mật thừa – thiền định về chính mình như có một phương diện tương tự với một Sắc thân – thì ưu thắng so với phương tiện của Thừa Hoàn Thiện.