Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (22)


Xem mục lục

Kết hợp với tinh thần nói trên, kinh Phật cũng khuyên về sức mạnh và tiềm năng chuyển hoá của kiên trì và hỷ xả. Kinh có kể đến một cuộc cải vả giửa một thần linh và một người khổng lồ đang đói cùng cực.[xxxiii]Vepaciti, người đầu nhóm khổng lồ bị đánh bại, được mang đến trước Saka, một vị đứng đầu các thần linh và nguyền rủa ông. Khi Sakka không nổi giận, người đánh xe ngưạ liền hỏi từ đâu mà ông có tính chiụ đựng, phải chăng là do sợ hải hay yếu đuối. Ông trả lời không phải cả hai, chỉ vì tôi không muốn đôi co với người điên. Ông giải thích, trước những lời lẻ của kẻ ngông cuồng với sự câm giận và cải vả kịch liệt thì mình phải tự kềm chế bình tĩnh, chứ không bằng biện pháp trả đủa cứng rắn. Thái độ này sẽ không đưa tới một ý nghĩ đối kháng mà kẻ điên tìm lợi điểm từ sự yếu kém, chính kiên trì là dấu hiệu của một sức mạnh thật sự, khác với sức mạnh mà một kẻ điên có được do ngộ nhận.

Tệ hại nhất là việc cả hai người cải vả qua lại. Khi bị nguyền ruả, ai là người không nguyền ruả lại, thì người đó thắng được hai lần. Ông ta tìm được an lạc nơi chính mình và nơi người khác. Người nào hiểu được cơn thịnh nộ của người khác thì sẽ giử được an bình của mình trong sáng suốt.[xxxiv]

Lời kinh được dùng khi một giáo sĩ Bà la môn nguyền rủa Đức Phật khi một thân nhân của ngài trở thành một tu sỉ Phật giáo. Để đáp lại, Phật hỏi rằng vị này rằng khi thân nhân đến thăm viếng, ông đã chuẩn bị các thức ăn uống nhưng họ lại từ chối không nhận sư tiếp đải này, thì các thứ này sẽ thuộc về ai. Khi vị này trả lời các thứ này lại thuộc về tôi, Đức Phật nói rằng nó cũng giống như những gì mà anh đã thoá mạ tôi về những điều tôi không làm, nên tôi không chấp nhận. Chính vì thế, những gì anh làm vẫn thuộc về anh. Đức Phật tiếp tục nói ngài không thể cùng chung tiệc với vị này khi đáp trả sự thịnh nộ này bằng lời lẽ giận giử của mình. Do đó mà có lời kinh trên.

Phật có kể câu chuyện sau đây. Có hai tăng đoàn tranh luận nhau về lối giảng luận liên quan một quan điểm của môn đồ trong tu viện.[xxxv]Vua Brahmadatta của Kasi xâm lấn được một vương quốc yếu kém và sau đó hành quyết vị vua và hoàng hậu của vương quốc này. Trước khi băng hà, vị vua này nói với con mình là Dìghàvu, mà lúc đó vua Brahmadatta chưa biết. “Này Dìghàvu, oán thù sẽ không làm giảm đi oán thù, oán thù chỉ giảm đi do lòng không oán thù.”[xxxvi]Dìghàvu không nghe mà còn đề ra chuyện phục hận. Ông học hát và gây được sự chú ý của vua Brahmadatta, sau được tuyển vào cung và dần già gây được tín nhiệm. Ông tìm cơ hội để giết vua khi vua đang say ngủ sau khi đi săn. Cả ba lần rút gươm ra để giết vua, ông đều dừng lại cả ba và nhớ lại lời trăn trối của phụ vương mình. Khi nhà vua bừng tỉnh vì gặp ác mộng thì Dìghàvu mới xác nhận tung tích mình. Nhà vua yêu cầu ông ta xin tha mạng, nhưng Dìghàva xin vua tha cho mạng. Rồi cả hai cùng tha thứ cho nhau. Dìghàvu bèn nói: “Phụ hoàng tôi đã bị vua giết, nhưng nếu tôi giết vua thì người nào hưởng bổng lộc của vua cũng sẽ giết tôi, và người nào hưỏng được ân huệ của tôi cũng sẽ giết họ lại, cuối cùng thì thù oán sẽ không giải quyết được thù oán.” [xxxvii]

Brahmadatta truyền ngôi và gả con gái cho ông. Phật giảng về sự tranh chấp của các tăng sĩ qua lời kinh sau đây,[xxxviii]mà một số cũng có ở kinh Pháp Cú 3-6: “Họ sỉ nhục, đánh đập, cướp giật tôi, phá hại tôi, ai còn bị giam hảm trong những ý nghĩ thù oán như thế thì oán hận không được xoa dịu. Họ sỉ nhục, đánh đập, cướp giật tôi, phá hại tội, ai mà không bị giam hảm trong những ý nghĩ như thế thì oán hận sẽ vơi đi. Trong thế gian này, hận thù không thể làm chấm dứt hận thù, chỉ có lòng từ bi mới chấm dứt hận thù, đó chính là quy luật tự ngàn xưa. Tha nhân nào đâu hiểu đưọc rằng chúng ta sẽ bị hủy diệt, nhưng khi họ ngộ được điều này, thì mọi tranh cải sẽ lắng dịu.”

Mọi truyền thống của Phật giáo đặt giá trị vào việc nhận tội của chính mình hay của người khác và để nhằm giải quyết vấn đề chứ không để lập lại vấn đề. Kinh Đại thừa đã nhấn mạnh đến việc công khai xin lổi. Trong chương nói về đạo đức của kinh Bồ Tát Độ, Bodhisattra- blùmi, Đại sư Vô Trước, Asanga, nói rằng Bồ tát phải xin lổi cho những sai phạm của mình và cũng chấp nhận lời xin lổi cúa người khác.[xxxix]Tại Nhật, xin lổi là một cách thường được sử dụng để nối lại mối quan hệ và những người thú nhận tội thường được giảm nhẹ tại triều đình.[xl]

Trong luật tạng, Vinaya, có đoạn nói về một hành vi công khai của hoà giải là Patisàraniya, một hình thức từ bỏ điều sai bằng cách huỷ diệt nó. Có một vị sư chế diểu một cư sĩ, than phiền và hay chê bai Phật, Pháp và Tăng, hoặc lả gây bất hoà giửa các tín dồ.[xli]Trong trường hợp này vị sư phải tự kiểm, nhớ lại sự xúc phạm của mình và bị kết tội về sự xúc phạm này. Cuối cùng tăng đoàn đồng ý là phải để cho vị sư này đến gặp cư sĩ để xin tha thứ. Nếu vị sư này cảm thấy không có thể đến để xin tha thứ, thì tăng đoàn sẽ xếp đặt cho một vi cao tăng đại diện cùng đi và xin tha thứ. Vị sư này phải tìm nhiều cách để xin tha thứ, mà thuờng dùng những lời kinh sau đây: “Xin tha thứ cho bần tăng, hởi bạn đông đạo, kẻ đang rất an bình hướng về anh. Xin tha thứ cho bần tăng, hởi bạn đồng đạo, kẻ đang trong tình lặng hưóng về anh. Xin tha thư cho bần tăng, hởi bạn đồng đạo, kẻ đang trong an hoà hướng về anh. Hoặc là nhân danh tăng đoàn, xin hảy tha thư vị sư này, kẻ đang trong an hoà hướng về anh.”[xlii]

Nếu không nhận được sự tha thứ, vị sư này phải ngồi kiết già, chấp tay, kỉnh lể cư sĩ và chấp nhận sự sai phạm của mình. Tuy nhiên, theo quan điểm của Đại thừa phải nói là nếu việc xin lổí trở thành bắt buộc cho một người, thì đây cũng coi là một hình thức tế nhị để chỉ rỏ cho thấy cái tôi và những sai phạm của tôi.

Xem mục lục