BÀI THỨ NĂM                I. NGUYÊN DO CÓ                “TÂM SỞ”    “Thức” là tác                dụng của tâm, như bài kệ trước đã nói. Thật ra chỉ có một tâm,                nhưng vì tác dụng không đồng, nên hiện ra ba món tục tướng là:                Tâm, Ý, Thức; hay tám món tục tướng: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân,                Ý, Mạt na, A lại da. Nếu chính chắn xét kỹ cái tác dụng của nó,                thì chẳng những phân làm ba hay tám mà lại vô số món tục tướng.                Theo nhà Duy thức nói: Vì  tám món tục tướng trứơc, nó tự tại hiện                khởi, nên gọi rằng “Tâm vương”; còn các món tục tướng tương ưng                (hiệp) với Tâm vương mà sanh khởi, thì gọi là “Tâm sở”, Muốn giải                thích nghĩa này cho dễ hiểu, tôi xin lập một tỷ dụ dưới đây.                II. LẤY “CỎ CÂY”                ĐỂ TỶ DỤ CHỦNG TỬ VÀ HIỆN HÀNH    Chủng tử của Thức                có thể so sánh như hạt giống của cỏ cây. Cỏ cây nhờ có hạt giống                mới nứt mộng nảy chồi. Gốc rễ cỏ cây ăn bám dưới đất, có thể tỷ dụ                như Tạng thức A lại da. Từ gốc cây trực tiếp sanh thân, cây- tỷ dụ                như Tạng thức sanh ra Thức thứ bảy là Mạt na. Từ thân cây sanh ra                sáu chồi, chồi cây to lớn hơn hết là dụ cho Ý thức thứ sáu; còn                năm chồi nhỏ hơn là dụ cho năm Thức trước. Ngoài sáu chồi lớn còn                có các nhánh lá nhỏ hơn đều từ trên sáu chồi lớn hoặc từ trên thân                cây hay gốc cây sanh ra. Tất cả những nhánh lá lớn nhỏ đều tứ nơi                cây mà có, có thể tỷ dụ các Tâm sở của Thức.    Bảy Thức trước,                đều từ chủng tử sanh, mà chủng tử thì chứa trong A lại da thức,                cũng như thân cây và sáu chồi đều từ hạt giống sanh. Vì chúng nó                tự tại sanh trưởng, sinh lực rất mạnh, nên dụ như tâm vương. Còn                bao nhiêu nhánh lá đều y thân cây hoặc gốc cây sanh ra, dụ cho các                Tâm sở. Chữ “Tâm sở” nghĩa là vật sở hữu của “Tâm vương”.                 III. CHỦNG TỬ                SANH RA HIỆN HÀNH    Cái quan hệ của                tâm vương và Tâm sở so sánh như cỏ cây cho dễ hiểu, nhưng hai bên                lại không đồng nhau. Vì nhánh, lá, cây đều từ một hạt giống sanh,                còn Tâm vương và Tâm sở mỗi món đều có chủng tử (hạt giống)  riêng                khác và đều chứa trong A lại da thức. Mỗi khi một Tâm vương hay                một Tâm sở sanh khởi, đều từ hạt giống riêng của nó mà sanh khởi.                Không bao giờ có từ chủng tử của Tâm vương mà sanh ra Tâm sở hay                từ chủng tử của Tâm sở mà sanh ra Tâm vương. Cũng không bao giờ có                chủng tử của Tâm vương này mà sanh ra Tâm vương kia hay chủng tử                của Tâm sở này sanh ra Tâm sở kia được. Chỗ này cần phải chú ý,                chớ nên lầm lộn.    Dùng cỏ cây  để                tỷ dụ cho Thức, tuy không đồng nhau, nhưng Ngài Thanh Biện Bồ tát,                làm bộ  Chưởng  Trân luận có nói: “Tùy “năng dụ” và “bị dụ” hai                bên có giống nhau phần nào, mượn  làm tỷ dụ, không phải tất cả đều                y như nhau được. Như nói: “mặt cô gái tròn trịa như mặt trăng”,                không nên chấp “mặt cô gái in hệt như mặt trăng”.    Ở nơi đây cũng                vậy, tùy có những nghĩa giống nhau, nên tạm mượn cây, nhánh, lá                 để  tỷ dụ Tâm  vương với Tâm sở; không nên chấp tất cả Tâm vương                và Tâm sở phải in như cây lá v.v… Bởi thế, nên phàm đọc kinh sách                 gặp lời tỷ dụ, nên phải khôn khéo lãnh hội chớ nên chấp nê.                 IV. LIỆT KÊ TÊN                CỦA 51 MÓN TÂM SỞ    Phàm khi Tâm sở                theo Tâm vương khởi, thì gọi là “tương ưng”. Nhưng tám món Tâm                vương vì tánh chất nó không đồng nên những Tâm sở tương ưng với                Tâm vương cũng có nhiều ít khác nhau. Nay  trước nêu tên của 51                món Tâm sở:  (Học giả nên đọc                thuộc các tên, còn nghĩa về say sẽ giải.)  51 món Tâm sở                I. Năm món Biến                hành:  1-      Xúc                 2-      Tác ý                3-      Thọ                 4-      Tưởng                5-      Tư                 II. Năm món Biệt                cảnh:  1-      Dục                 2-      Thắng giải                3-      Niệm                 4-      Định                 5-      Huệ                 III. Mười một món                Thiện:  1-      Tín                 2-      Tàm                 3-      Quý                 4-      Vô tham                5-      Vô sân                6-      Vô si                7-      Tinh tấn                8-      Khinh an                9-      Bất phóng                dật  10-  Hành xả                 11-  Bất hại                 IV. Sáu món Căn bản                phiền não:  1-      Tham                 2-      Sân                 3-      Si                 4-      Mạn                 5-      Nghi                 6-      Ác kiến                V. 20 món Tùy phiền                não:  a)      Tiểu tùy có                10:  1-      Phẫn                 2-      Hận                 3-      Phú                 4-      Não                 5-      Tật                 6-      Xan                 7-      Cuống                8-      Siểm                 9-      Hại                 10-  Kiêu                 b)      Trung tùy                có 2:  1-      Vô tàm                2-      Vô quý                c)      Đại tuỳ có                8:  1-      Trạo cử                2-      Hôn trầm                3-      Bất tín                4-      Giải đãi                5-      Phóng dật                6-      Thất niệm                7-      Tán loạn                8-      Bất chánh                tri  VI. Bốn món Bất                định:  1-      Hối                 2-      Miên                 3-      Tầm                 4-      Tư  V. CÁC TÂM SỞ                TƯƠNG ƯNG VỚI TÂM VƯƠNG CÓ NHIỀU VÀ ÍT    Thức thứ  Tám chỉ                tương ưng với  năm món  Tâm sở biến hành.    HỎI: Tại sao                không tương ưng với các món Tâm sở khác?    ĐÁP: Vì Biệt cảnh                Tâm sở như “Dục”, nó chỉ mong muốn những việc của nó muốn; còn                Thức thứ Tám này thì không có mong muốn, nên không tương ưng với                “Dục  Tâm Sở”.     - “Thắng giải                Tâm sở” là nó rành rõ những việc đã quyết định; còn Thức thứ Tám                này thì mơ màng không rành rõ, nên không tương ưng với “Thắng giải                Tâm sở”.     -“Niệm Tâm sở”,                nó chỉ ghi nhớ lại những việc đã qua; còn Thức này thì ám muội,                không thể ghi nhớ, nên không tương ưng với “Niệm Tâm sở”.                    -“Định Tâm sở”,                 nó khiến cho tâm chuyên chú một cảnh; còn Thức này thì mỗi sát na                (tíc tắc) nó duyên cảnh riêng khác nên không tương ưng với “Định                Tâm sở”.    -“Huệ Tâm sở” chỉ                phân biệt chọn lựa những việc như: Thật, Đức, Nghiệp v.v…, còn                Thức này thì nó  mông muội, nên “Huệ Tâm sở” không tương ưng với                Thức này.    Thức thứ Tám này,                trong nhân thì có thiện và ác, mà trên quả lại thuộc  về tánh Dị                thục vô ký, nên nó cũng không tương ưng với11 món Thiện tâm sở                (thuộc  về tánh lành) và 6 món Căn bản phiền não, cùng 20 món Tùy                phiền não tâm sở (thuộc về tánh nhiễm ô).    Bốn món Tâm sở                “Bất định” như: - Ố tác (hối), miên, tầm, tư, thuộc về tánh Vô ký,                lại có gián đoạn và không phải chơn Dị thục, nên cũng không tương                ưng với Thức này.    Thức thứ Bảy chỉ                tương ưng với 18 mónTâm sở là: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái                (bốn món trong Căn bản phiền não), năm món Biến hành, tám món Tùy                phiền não, cùng với một món “Huệ” trong năm món Biệt cảnh.                   HỎI: Tại sao Thức                thứ  Bảy này không tương ưng với các Tâm sở khác?    ĐÁP: Bởi vì “Dục                Tâm sở” là mong muốn những việc chưa được; còn Thức thứ  Bảy thì                dần dần duyên những cảnh đã hiệp, nên không tương ưng với “Dục tâm                sở”.    “Thắng giải tâm                sở” là biết rõ những cảnh chưa từng xác định; còn Thức thứ Bảy này                từ hồi nào đến giờ hằng duyên những việc đã quyết định, cho nên                không cùng với “Thắng giải tâm sở” tương ưng.    “Niệm tâm sở” là                ghi nhớ những việc đã qua, còn Thức này chỉ duyên nhưng cảnh hiện                tại, nên không cùng với “Niệm tâm sơ”û tương ưng.    “Định tâm sở” là                buộc tâm chuyên chú một cảnh, còn Thức này thì dần dần tứng sát na                duyên cảnh riêng khác, nên không cùng với “Định tâm sở” tương ưng.                  Mười một món                Thiện tâm sở, vì bản thể nó không nhiễm ô, còn Thức này lại hiệp                với nhiễm ô, nên không cùng với 11 món Thiện tâm sở tương ưng.                  Đã có  ngã kiến                (chấp ngã) nên các kiến chấp khác không sanh, vì trong một tâm                niệm không có hai món Huệ phân biệt. Thức này có ngã kiến nên                không có bốn món kiến chấp khác (biên kiến, tà kiến, kiến thủ,                giới cấm thủ). Thức này vì đã quyết định chấp ngã, cho nên không                có khởi “Nghi tâm sở”. – Thức này vì ái luyến nơi ngã (ngã ái) nên                chẳng sanh “Sân tâm sở”.    Mười món Tiểu tùy                phiền não, như phẫn v.v… vì hành tướng nó thô động, còn Thức thứ                Bảy này thì thâm tế, cho nên không tương ưng với mười món Tiểu                tùy. Hai món Trung tùy là vô tàm và vô quý thuộc về bất thiện, còn                Thức thứ Bảy này thuộc về vô ký tánh, nên cũng không tương ưng với                Trung tùy phiền não.    Bốn món Bất định                như: “ố tác” (hối) là ăn năn việc làm đã qua còn Thức này thì nhậm                vận hằng duyên cảnh hiện tại, không có ăn năn, nên chẳng có tương                ưng với “ố  tác”. –“Thùy miên tâm sở” là y nơi thân tâm mê mệt và                các trợ duyên bên ngoài mà tạm sinh, còn Thức này từ vô thỉ đến                nay, chỉ chấp ngã bên trong, không nhờ các duyên ngoài, cho nên                không tương ưng với “Thùy miên tâm sở”. Tầm và Tư hai món tâm sở                đều y trợ duyên bên ngoài mà sanh “Tầm” thì suy xét thô thiển, còn                “Tư” thì suy xét thâm tế hơn, rồi mới thốt ra lời nói. Thức thứ                Bảy này chỉ y bên trong mà sanh, chuyên về chấp ngã, cho nên không                cùng với “Tầm, Tư” tương ưng.    Thức thứ Sáu vì                nó rộng duyên trong, ngoài và các pháp ba đời, cho nên nó tương                ưng với 51 món Tâm sở.    Năm Thức trước                chỉ tương ưng với 34 món Tâm sở là: năm món Biến hành, năm món                Biệt cảnh, mười một món Thiện, ba món Căn bản phiền não là: tham,                sân, si; hai món Trung tùy là: vô tàm, vô quý và tám món Đại tùy                phiền não.    HỎI: Tại sao năm                Thức trước không tương ưng với Tâm sở khác?    ĐÁP: Vì mạn,                nghi, ác kiến ba món căn bản phiền não này đều do hai món: 1-Tùy                niệm phân biệt, 2-Kế đạt phân biệt mà sanh.    Lại nữa “mạn” là                do so sánh mà sanh, còn “nghi” là do chọn lựa mà sanh. Năm Thức                trước đều không có những hành tướng này, cho nên không tương ưng                với Mạn và Nghi v.v…Tiểu tùy phiền não 10 món, vì hành tướng no                ùthô mạnh, còn năm Thức trước thì tinh tế hơn, nên không cùng với                10 món Tiểu tùy tương ưng. – “Hối” và “Miên” hai món tâm sở này                đều do gắng nhớ  và gia hạnh mà sanh khởi; còn năm Thức trước                không có các hành tướng này, cho nên chẳng tương ưng. – “Tầm” và                “Tư” đều duyên danh từ và câu văn mà sanh, còn năm Thức này không                duyên danh từ và câu văn, cho nên chẳng tương ưng.     Tâm vương và Tâm                sở tương ưng  Thúc thứ Tám, tương                ưng năm món Tâm sở Biến hành.  Thức thứ Bảy, tương                ưng mười tám món Tâm sở: bốn món Căn bản, năm món Biến hành, tám                món Đại tùy và một món Huệ trong Biệt cảnh.  Thức thứ Sáu, tương                ưng với 51 món Tâm sở.  Năm Thức trước                tương ưng với 34 món Tâm sở: 5 món Biến hành, 5 món Biệt cảnh, 11                món Thiện, 3 món hoặc Căn bản, 2 món Trung tùy và 8 món Đại tùy.                  Trong 51 món Tâm                sở, chẳng những tùy theo Tâm vương sanh khởi, mà gọi là “Tương                ưng”, chính Tâm sở với Tâm sở đồng thời sanh khởi, cũng gọi là                tương ưng. - Chữ  “Tương ưng” nghĩa là hòa hiệp, hay không trái                nhau. Cũng như quan vâng lệnh vua, tớ vâng lệnh chủ, đồng làm một                việc, gọi là hòa hiệp không trái. Khi tôi tớ này cùng với tôi tớ                kia đồng làm một việc, cũng gọi là hòa hiệp không trái nhau (tương                ưng).    Trong Thành Duy                Thức Luận, giải nghĩa chữ “Tương ưng” có nói rằng: “Tuy hành tướng                khác nhau, nhưng đồng một thời, đồng y một chỗ, đồng cảnh sơ duyên                và đồng một việc (sự) thì gọi là “Tương ưng”. Nghĩa là Tâm vương                và Tâm sở hoặc Tâm sở và Tâm sở, tuy hành tướng năng duyên mỗi món                không đồng, nhưng cả hai đều đồng thời, đồng y  một chỗ, đồng cảnh                sở duyên hoặc đồng tự thể sự tướng, thì đều gọi là tương ưng.                  Nói “đồng cảnh sở                duyên”, nghĩa là: đồng duyên một cảnh. – Nói “đồng sự tướng” nghĩa                là: Tâm vương và Tâm sở mỗi món đều y một tự thể, không được nhiều                ít và so le. Hoặc Tâm sở và Tâm sở, khi cùng nhau đồng thời, đồng                y một chỗ, đồng duyên một cảnh và đồng một sự tướng, thì đều gọi                là tương ưng. – Tỷ dụ như khi con mắt thấy hoa, thoạt sanh một tâm                niệm tham xem hoa, thế gọi là tham Tâm sở cùng với Nhãn thức Tâm                vương tương ưng. – Nếu đồng khi ấy, khởi lên một tâm niệm si mê,                thì tâm niệm si mê này, cùng với tâm niệm tham, đồng một sát na,                đồng y một căn, đồng duyên một cảnh và mỗu món đều y một tự thể,                cũng được gọi là “Tương ưng”. Chỉ Tâm sở với Tâm sở kia tánh chất                không đồng và cũng không đồng thời khởi, thì gọi là bất tương ưng.                Dụ như khi tham xem hoa, không thể đồng trong một sát na khởi lên                tâm sân, bởi vì tánh tham thì ưa muốn, còn tánh sân thì ganh ghét,                rất trái nhau; cũng như hai người, một người tánh như lửa, một                người tánh như nước, thì không thể làm bạn với nhau được, cho nên                cũng không tương ưng.  VII. DẪN SÁCH VỞ                NGOÀI ĐỜI, ĐỂ GIẢI THÍCH NỘI ĐIỂN    Hành tướng của                mỗi Tâm sở, quyển trước tuy chưa nó rõ, nhưng tôi đã giải thích                trong quyền Duy Thức Dị Giảng rồi, cho nên ở đây tôi không nói                thêm. Nay tôi phương lược dẫn các sách vở ngoài, để chứng minh một                hai đoạn.    Như sách Đại học                nói “Tu thân” thật ra là làm cho tâm mình được chơn chánh. Như                nói: “ Có giận dữ , thời tâm không chơn chánh; có sợ hãi, thời tâm                không chơn chánh; có ưa muốn, thời tâm không chơn chánh; có lo                buồn, thời tâm không chơn chánh.”    Bên sách Đại học                nói chữ “Tâm”, bên Duy thức học nóichữ “Thức”, tức là “Tâm vương”.                – Bên sách Đại học nói: “làm cho tâm mình được chơn chánh” tức là                bên Duy thức nói “khiến cho tám Thức Tâm vương làm chủ được tự                tại, không chinh nghiêng”, thế gọi là “tu thân” vậy. – Sở dĩ tám                Tám thức Tâm vương bị chinh nghiêng không được tự tại và tự chủ,                đều doTâm sở kéo dẫn.    Tâm sở có thiện,                ác và vô ký ba tánh không đồng. Thiện tâm sở cũng như vị Trung                thần, thường giúp với Tâm vương để bình trị thiên hạ. Ác tâm sở                cũng như vị gian thần, thường xúi Tâm vương làm nhiễu loạn trong                nước. Vô ký tâm sở cũng như các ông Quan bất tài, không thể giúp                với Tâm vương làm thiện hay làm ác, nên không có tiếng khen mà                cũng không bị ai chê.    Trong sách Đại                học nói: “Tâm có giận dữ” tức bên Duy thức nói: “Phẫn tâm sở”. –                Trong sách Đại học nói: “Tâm  sợ hãi”, tức bên Duy thức học nói “                Khổ thọ tâm sở” trong năm món Biến hành. (Thọ có năm: -Khổ thọ,                -Lạc thọ, -Ưu thọ, -Hỷ thọ, - Xả thọ.)    Phàm có sợ hãi là                khổ thọ. Phàm có ưa muốn, tức là “tham tâm sở” trong sáu món căn                bản phiền não. Sách Đại học nói: “lo buồn” tức là bên Duy thức                nói: “ưu thọ tâm sở”. Bị các Tâm sở nó kéo dẫn Tâm vương, không                nghiêng bên này thì cũng ngã bên kia, cho nên không được chơn                chánh.    Bên sách Nho nói                về “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín” tức bên Duy thức nói về “Thiện                tâm sở”. Thầy Mạnh nói: “Tâm trắc ẩn là đầu mối của lòng Nhân; tâm                biết hổ thẹn là đầu mối của việc Nghĩa, tâm biết từ  nhượng là đầu                mối của Lễ, tâm biết phải chẳng là đầu mối của Trí.”    Bên Nho nói “tâm                trắc ẩn” tức bên Duy thức nói “tâm sở bất hại” trong thiện tâm sở.                Bên Nho nói “tâm hổ thẹn” tức bên Duy thức nói “tâm sở tàm quý”                trong thiện tâm sở. Bên Nho nói “tâm từ nhượng” tức bên Duy thức                nói “tâm sở vô sân”. Bên Nho nói “tâm biết thị phi” tức bên Duy                thức nói “tâm sở vô vi”.    HỎI: Tại sao biết                bốn món trên đều là Tâm sở mà không phải là Tâm vương.    ĐÁP: Tâm vương                cũng như ông vua ở trong chín lớp lâu đài sâu xa, chỉ ra hiệu                lệnh, chứ không phải tự ra làm các việc được. Phải có Tâm sở thọ                mệnh lệnh của Tâm vương mới ra làm các việc như: Nhân, Nghĩa, Lễ,                Tín, Trí.     Bởi các Tâm                vương không tự tạo tác được các nghiệp lành và dữ, chỉ do Tâm sở                giúp cho Tâm vương mới tạo thành; mà Tâm sở lúc nào cũng vâng mệnh                lệnh của Tâm vương. Bởi thế nên đời xưa các vị Minh quân đều do                rành rõ tâm pháp, cho nên nước nhà mới được thạnh trị. Như lời                truyền nói: “Vua Nghiêu vua Thuấn duổi (xủ) tay áo, mà thiên hạ                vẫn thạnh trị”. Đức Khổng tử cũng nói: “Vua Thuấn ngồi khoanh tay                không làm (không cai trị) mà thiên hạ vẫn thạnh trị. Bởi vì vua                Thuấn biết y theo Tâm vương mà trị. Cho biết: không làm (vô vi) mà                được thạnh trị, là luận theo nghĩa Duy thức; nếu chẳng thuận theo                Duy thức, thì quyết không thể thạnh trị được.    Bởi nghĩa lý của                Duy thức rất sâu rộng, kẻ sơ học  khó nhập, nên tôi phương tiện                dẫn sách ngoài để giảng giải. Mỗi khi dẫn sách ngoài giải thích,                thì bị người chê là lời phụ hội, làm cho người đời chấp ngón tay                mà quên mặt trăng.    Chỗ này cần phải                chú ý: phàm “phụ hội” là lấy chỗ cạn mà phụ cho chỗ sâu, cũng như                con ruồi nhờ đậu trên lưng con ngựa mà đi được đến phương xa. Nay                Phật giáo cao tột, không còn Pháp nào hơn, cho nên không có cái lý                “phụ hội”. Sở dĩ dẫn chứng sách vở thế tục, là phương tiện để dẫn                dắt người thấp kém. Phải biết các phương tiện quyền xảo, cũng như                cái bè để đưa người qua sông, khi lên bờ rồi thì phải bỏ cái bè.                Còn các phương tiện là để đưa người đến chỗ chơn thật, khi người                thấy được lý chơn thật rồi, thì phải bỏ những phương tiện. Bởi                thế, nên người đọc sách này, mỗi khi gặp dẫn các sách ngoài để                giải thích, chớ nên chấp là thật pháp. 
TÂM VƯƠNG VÀ TÂM SỞ TƯƠNG ƯNG (HIỆP NHAU) 
(CÓ BẢY ĐOẠN)
  
  
  
  
  
VI. ĐỊNH NGHĨA CHỮ  “TƯƠNG ƯNG” 
  
  
