Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (8)


Xem mục lục

 

BÀI THỨ NĂM
TÂM VƯƠNG VÀ TÂM SỞ TƯƠNG ƯNG (HIỆP NHAU)
(CÓ BẢY ĐOẠN)

I. NGUYÊN DO CÓ “TÂM SỞ”

  “Thức” là tác dụng của tâm, như bài kệ trước đã nói. Thật ra chỉ có một tâm, nhưng vì tác dụng không đồng, nên hiện ra ba món tục tướng là: Tâm, Ý, Thức; hay tám món tục tướng: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý, Mạt na, A lại da. Nếu chính chắn xét kỹ cái tác dụng của nó, thì chẳng những phân làm ba hay tám mà lại vô số món tục tướng. Theo nhà Duy thức nói: Vì  tám món tục tướng trứơc, nó tự tại hiện khởi, nên gọi rằng “Tâm vương”; còn các món tục tướng tương ưng (hiệp) với Tâm vương mà sanh khởi, thì gọi là “Tâm sở”, Muốn giải thích nghĩa này cho dễ hiểu, tôi xin lập một tỷ dụ dưới đây.

II. LẤY “CỎ CÂY” ĐỂ TỶ DỤ CHỦNG TỬ VÀ HIỆN HÀNH

  Chủng tử của Thức có thể so sánh như hạt giống của cỏ cây. Cỏ cây nhờ có hạt giống mới nứt mộng nảy chồi. Gốc rễ cỏ cây ăn bám dưới đất, có thể tỷ dụ như Tạng thức A lại da. Từ gốc cây trực tiếp sanh thân, cây- tỷ dụ như Tạng thức sanh ra Thức thứ bảy là Mạt na. Từ thân cây sanh ra sáu chồi, chồi cây to lớn hơn hết là dụ cho Ý thức thứ sáu; còn năm chồi nhỏ hơn là dụ cho năm Thức trước. Ngoài sáu chồi lớn còn có các nhánh lá nhỏ hơn đều từ trên sáu chồi lớn hoặc từ trên thân cây hay gốc cây sanh ra. Tất cả những nhánh lá lớn nhỏ đều tứ nơi cây mà có, có thể tỷ dụ các Tâm sở của Thức.

  Bảy Thức trước, đều từ chủng tử sanh, mà chủng tử thì chứa trong A lại da thức, cũng như thân cây và sáu chồi đều từ hạt giống sanh. Vì chúng nó tự tại sanh trưởng, sinh lực rất mạnh, nên dụ như tâm vương. Còn bao nhiêu nhánh lá đều y thân cây hoặc gốc cây sanh ra, dụ cho các Tâm sở. Chữ “Tâm sở” nghĩa là vật sở hữu của “Tâm vương”.

III. CHỦNG TỬ SANH RA HIỆN HÀNH

  Cái quan hệ của tâm vương và Tâm sở so sánh như cỏ cây cho dễ hiểu, nhưng hai bên lại không đồng nhau. Vì nhánh, lá, cây đều từ một hạt giống sanh, còn Tâm vương và Tâm sở mỗi món đều có chủng tử (hạt giống)  riêng khác và đều chứa trong A lại da thức. Mỗi khi một Tâm vương hay một Tâm sở sanh khởi, đều từ hạt giống riêng của nó mà sanh khởi. Không bao giờ có từ chủng tử của Tâm vương mà sanh ra Tâm sở hay từ chủng tử của Tâm sở mà sanh ra Tâm vương. Cũng không bao giờ có chủng tử của Tâm vương này mà sanh ra Tâm vương kia hay chủng tử của Tâm sở này sanh ra Tâm sở kia được. Chỗ này cần phải chú ý, chớ nên lầm lộn.

  Dùng cỏ cây  để tỷ dụ cho Thức, tuy không đồng nhau, nhưng Ngài Thanh Biện Bồ tát, làm bộ  Chưởng  Trân luận có nói: “Tùy “năng dụ” và “bị dụ” hai bên có giống nhau phần nào, mượn  làm tỷ dụ, không phải tất cả đều y như nhau được. Như nói: “mặt cô gái tròn trịa như mặt trăng”, không nên chấp “mặt cô gái in hệt như mặt trăng”.

  Ở nơi đây cũng vậy, tùy có những nghĩa giống nhau, nên tạm mượn cây, nhánh, lá  để  tỷ dụ Tâm  vương với Tâm sở; không nên chấp tất cả Tâm vương và Tâm sở phải in như cây lá v.v… Bởi thế, nên phàm đọc kinh sách  gặp lời tỷ dụ, nên phải khôn khéo lãnh hội chớ nên chấp nê.

IV. LIỆT KÊ TÊN CỦA 51 MÓN TÂM SỞ

  Phàm khi Tâm sở theo Tâm vương khởi, thì gọi là “tương ưng”. Nhưng tám món Tâm vương vì tánh chất nó không đồng nên những Tâm sở tương ưng với Tâm vương cũng có nhiều ít khác nhau. Nay  trước nêu tên của 51 món Tâm sở:

(Học giả nên đọc thuộc các tên, còn nghĩa về say sẽ giải.)

51 món Tâm sở

I. Năm món Biến hành:

1-      Xúc

2-      Tác ý

3-      Thọ

4-      Tưởng

5-      Tư

II. Năm món Biệt cảnh:

1-      Dục

2-      Thắng giải

3-      Niệm

4-      Định

5-      Huệ

III. Mười một món Thiện:

1-      Tín

2-      Tàm

3-      Quý

4-      Vô tham

5-      Vô sân

6-      Vô si

7-      Tinh tấn

8-      Khinh an

9-      Bất phóng dật

10-  Hành xả

11-  Bất hại

IV. Sáu món Căn bản phiền não:

1-      Tham

2-      Sân

3-      Si

4-      Mạn

5-      Nghi

6-      Ác kiến

V. 20 món Tùy phiền não:

a)      Tiểu tùy có 10:

1-      Phẫn

2-      Hận

3-      Phú

4-      Não

5-      Tật

6-      Xan

7-      Cuống

8-      Siểm

9-      Hại

10-  Kiêu

b)      Trung tùy có 2:

1-      Vô tàm

2-      Vô quý

c)      Đại tuỳ có 8:

1-      Trạo cử

2-      Hôn trầm

3-      Bất tín

4-      Giải đãi

5-      Phóng dật

6-      Thất niệm

7-      Tán loạn

8-      Bất chánh tri

VI. Bốn món Bất định:

1-      Hối

2-      Miên

3-      Tầm

4-      Tư
 

V. CÁC TÂM SỞ TƯƠNG ƯNG VỚI TÂM VƯƠNG CÓ NHIỀU VÀ ÍT

  Thức thứ  Tám chỉ tương ưng với  năm món  Tâm sở biến hành.

  HỎI: Tại sao không tương ưng với các món Tâm sở khác?

  ĐÁP: Vì Biệt cảnh Tâm sở như “Dục”, nó chỉ mong muốn những việc của nó muốn; còn Thức thứ Tám này thì không có mong muốn, nên không tương ưng với “Dục  Tâm Sở”.

   - “Thắng giải Tâm sở” là nó rành rõ những việc đã quyết định; còn Thức thứ Tám này thì mơ màng không rành rõ, nên không tương ưng với “Thắng giải Tâm sở”.

   -“Niệm Tâm sở”, nó chỉ ghi nhớ lại những việc đã qua; còn Thức này thì ám muội, không thể ghi nhớ, nên không tương ưng với “Niệm Tâm sở”.

   -“Định Tâm sở”,  nó khiến cho tâm chuyên chú một cảnh; còn Thức này thì mỗi sát na (tíc tắc) nó duyên cảnh riêng khác nên không tương ưng với “Định Tâm sở”.

  -“Huệ Tâm sở” chỉ phân biệt chọn lựa những việc như: Thật, Đức, Nghiệp v.v…, còn Thức này thì nó  mông muội, nên “Huệ Tâm sở” không tương ưng với Thức này.

  Thức thứ Tám này, trong nhân thì có thiện và ác, mà trên quả lại thuộc  về tánh Dị thục vô ký, nên nó cũng không tương ưng với11 món Thiện tâm sở (thuộc  về tánh lành) và 6 món Căn bản phiền não, cùng 20 món Tùy phiền não tâm sở (thuộc về tánh nhiễm ô).

  Bốn món Tâm sở “Bất định” như: - Ố tác (hối), miên, tầm, tư, thuộc về tánh Vô ký, lại có gián đoạn và không phải chơn Dị thục, nên cũng không tương ưng với Thức này.

  Thức thứ Bảy chỉ tương ưng với 18 mónTâm sở là: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái (bốn món trong Căn bản phiền não), năm món Biến hành, tám món Tùy phiền não, cùng với một món “Huệ” trong năm món Biệt cảnh.

  HỎI: Tại sao Thức thứ  Bảy này không tương ưng với các Tâm sở khác?

  ĐÁP: Bởi vì “Dục Tâm sở” là mong muốn những việc chưa được; còn Thức thứ  Bảy thì dần dần duyên những cảnh đã hiệp, nên không tương ưng với “Dục tâm sở”.

  “Thắng giải tâm sở” là biết rõ những cảnh chưa từng xác định; còn Thức thứ Bảy này từ hồi nào đến giờ hằng duyên những việc đã quyết định, cho nên không cùng với “Thắng giải tâm sở” tương ưng.

  “Niệm tâm sở” là ghi nhớ những việc đã qua, còn Thức này chỉ duyên nhưng cảnh hiện tại, nên không cùng với “Niệm tâm sơ”û tương ưng.

  “Định tâm sở” là buộc tâm chuyên chú một cảnh, còn Thức này thì dần dần tứng sát na duyên cảnh riêng khác, nên không cùng với “Định tâm sở” tương ưng.

  Mười một món Thiện tâm sở, vì bản thể nó không nhiễm ô, còn Thức này lại hiệp với nhiễm ô, nên không cùng với 11 món Thiện tâm sở tương ưng.

  Đã có  ngã kiến (chấp ngã) nên các kiến chấp khác không sanh, vì trong một tâm niệm không có hai món Huệ phân biệt. Thức này có ngã kiến nên không có bốn món kiến chấp khác (biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ). Thức này vì đã quyết định chấp ngã, cho nên không có khởi “Nghi tâm sở”. – Thức này vì ái luyến nơi ngã (ngã ái) nên chẳng sanh “Sân tâm sở”.

  Mười món Tiểu tùy phiền não, như phẫn v.v… vì hành tướng nó thô động, còn Thức thứ Bảy này thì thâm tế, cho nên không tương ưng với mười món Tiểu tùy. Hai món Trung tùy là vô tàm và vô quý thuộc về bất thiện, còn Thức thứ Bảy này thuộc về vô ký tánh, nên cũng không tương ưng với Trung tùy phiền não.

  Bốn món Bất định như: “ố tác” (hối) là ăn năn việc làm đã qua còn Thức này thì nhậm vận hằng duyên cảnh hiện tại, không có ăn năn, nên chẳng có tương ưng với “ố  tác”. –“Thùy miên tâm sở” là y nơi thân tâm mê mệt và các trợ duyên bên ngoài mà tạm sinh, còn Thức này từ vô thỉ đến nay, chỉ chấp ngã bên trong, không nhờ các duyên ngoài, cho nên không tương ưng với “Thùy miên tâm sở”. Tầm và Tư hai món tâm sở đều y trợ duyên bên ngoài mà sanh “Tầm” thì suy xét thô thiển, còn “Tư” thì suy xét thâm tế hơn, rồi mới thốt ra lời nói. Thức thứ Bảy này chỉ y bên trong mà sanh, chuyên về chấp ngã, cho nên không cùng với “Tầm, Tư” tương ưng.

  Thức thứ Sáu vì nó rộng duyên trong, ngoài và các pháp ba đời, cho nên nó tương ưng với 51 món Tâm sở.

  Năm Thức trước chỉ tương ưng với 34 món Tâm sở là: năm món Biến hành, năm món Biệt cảnh, mười một món Thiện, ba món Căn bản phiền não là: tham, sân, si; hai món Trung tùy là: vô tàm, vô quý và tám món Đại tùy phiền não.
 
 

  HỎI: Tại sao năm Thức trước không tương ưng với Tâm sở khác?

  ĐÁP: Vì mạn, nghi, ác kiến ba món căn bản phiền não này đều do hai món: 1-Tùy niệm phân biệt, 2-Kế đạt phân biệt mà sanh.
 
 

  Lại nữa “mạn” là do so sánh mà sanh, còn “nghi” là do chọn lựa mà sanh. Năm Thức trước đều không có những hành tướng này, cho nên không tương ưng với Mạn và Nghi v.v…Tiểu tùy phiền não 10 món, vì hành tướng no ùthô mạnh, còn năm Thức trước thì tinh tế hơn, nên không cùng với 10 món Tiểu tùy tương ưng. – “Hối” và “Miên” hai món tâm sở này đều do gắng nhớ  và gia hạnh mà sanh khởi; còn năm Thức trước không có các hành tướng này, cho nên chẳng tương ưng. – “Tầm” và “Tư” đều duyên danh từ và câu văn mà sanh, còn năm Thức này không duyên danh từ và câu văn, cho nên chẳng tương ưng.

   Tâm vương và Tâm sở tương ưng

Thúc thứ Tám, tương ưng năm món Tâm sở Biến hành.

Thức thứ Bảy, tương ưng mười tám món Tâm sở: bốn món Căn bản, năm món Biến hành, tám món Đại tùy và một món Huệ trong Biệt cảnh.

Thức thứ Sáu, tương ưng với 51 món Tâm sở.

Năm Thức trước tương ưng với 34 món Tâm sở: 5 món Biến hành, 5 món Biệt cảnh, 11 món Thiện, 3 món hoặc Căn bản, 2 món Trung tùy và 8 món Đại tùy.
VI. ĐỊNH NGHĨA CHỮ  “TƯƠNG ƯNG”

  Trong 51 món Tâm sở, chẳng những tùy theo Tâm vương sanh khởi, mà gọi là “Tương ưng”, chính Tâm sở với Tâm sở đồng thời sanh khởi, cũng gọi là tương ưng. - Chữ  “Tương ưng” nghĩa là hòa hiệp, hay không trái nhau. Cũng như quan vâng lệnh vua, tớ vâng lệnh chủ, đồng làm một việc, gọi là hòa hiệp không trái. Khi tôi tớ này cùng với tôi tớ kia đồng làm một việc, cũng gọi là hòa hiệp không trái nhau (tương ưng).

  Trong Thành Duy Thức Luận, giải nghĩa chữ “Tương ưng” có nói rằng: “Tuy hành tướng khác nhau, nhưng đồng một thời, đồng y một chỗ, đồng cảnh sơ duyên và đồng một việc (sự) thì gọi là “Tương ưng”. Nghĩa là Tâm vương và Tâm sở hoặc Tâm sở và Tâm sở, tuy hành tướng năng duyên mỗi món không đồng, nhưng cả hai đều đồng thời, đồng y  một chỗ, đồng cảnh sở duyên hoặc đồng tự thể sự tướng, thì đều gọi là tương ưng.

  Nói “đồng cảnh sở duyên”, nghĩa là: đồng duyên một cảnh. – Nói “đồng sự tướng” nghĩa là: Tâm vương và Tâm sở mỗi món đều y một tự thể, không được nhiều ít và so le. Hoặc Tâm sở và Tâm sở, khi cùng nhau đồng thời, đồng y một chỗ, đồng duyên một cảnh và đồng một sự tướng, thì đều gọi là tương ưng. – Tỷ dụ như khi con mắt thấy hoa, thoạt sanh một tâm niệm tham xem hoa, thế gọi là tham Tâm sở cùng với Nhãn thức Tâm vương tương ưng. – Nếu đồng khi ấy, khởi lên một tâm niệm si mê, thì tâm niệm si mê này, cùng với tâm niệm tham, đồng một sát na, đồng y một căn, đồng duyên một cảnh và mỗu món đều y một tự thể, cũng được gọi là “Tương ưng”. Chỉ Tâm sở với Tâm sở kia tánh chất không đồng và cũng không đồng thời khởi, thì gọi là bất tương ưng. Dụ như khi tham xem hoa, không thể đồng trong một sát na khởi lên tâm sân, bởi vì tánh tham thì ưa muốn, còn tánh sân thì ganh ghét, rất trái nhau; cũng như hai người, một người tánh như lửa, một người tánh như nước, thì không thể làm bạn với nhau được, cho nên cũng không tương ưng.

VII. DẪN SÁCH VỞ NGOÀI ĐỜI, ĐỂ GIẢI THÍCH NỘI ĐIỂN

  Hành tướng của mỗi Tâm sở, quyển trước tuy chưa nó rõ, nhưng tôi đã giải thích trong quyền Duy Thức Dị Giảng rồi, cho nên ở đây tôi không nói thêm. Nay tôi phương lược dẫn các sách vở ngoài, để chứng minh một hai đoạn.

  Như sách Đại học nói “Tu thân” thật ra là làm cho tâm mình được chơn chánh. Như nói: “ Có giận dữ , thời tâm không chơn chánh; có sợ hãi, thời tâm không chơn chánh; có ưa muốn, thời tâm không chơn chánh; có lo buồn, thời tâm không chơn chánh.”

  Bên sách Đại học nói chữ “Tâm”, bên Duy thức học nóichữ “Thức”, tức là “Tâm vương”. – Bên sách Đại học nói: “làm cho tâm mình được chơn chánh” tức là bên Duy thức nói “khiến cho tám Thức Tâm vương làm chủ được tự tại, không chinh nghiêng”, thế gọi là “tu thân” vậy. – Sở dĩ tám Tám thức Tâm vương bị chinh nghiêng không được tự tại và tự chủ, đều doTâm sở kéo dẫn.

  Tâm sở có thiện, ác và vô ký ba tánh không đồng. Thiện tâm sở cũng như vị Trung thần, thường giúp với Tâm vương để bình trị thiên hạ. Ác tâm sở cũng như vị gian thần, thường xúi Tâm vương làm nhiễu loạn trong nước. Vô ký tâm sở cũng như các ông Quan bất tài, không thể giúp với Tâm vương làm thiện hay làm ác, nên không có tiếng khen mà cũng không bị ai chê.

  Trong sách Đại học nói: “Tâm có giận dữ” tức bên Duy thức nói: “Phẫn tâm sở”. – Trong sách Đại học nói: “Tâm  sợ hãi”, tức bên Duy thức học nói “ Khổ thọ tâm sở” trong năm món Biến hành. (Thọ có năm: -Khổ thọ, -Lạc thọ, -Ưu thọ, -Hỷ thọ, - Xả thọ.)

  Phàm có sợ hãi là khổ thọ. Phàm có ưa muốn, tức là “tham tâm sở” trong sáu món căn bản phiền não. Sách Đại học nói: “lo buồn” tức là bên Duy thức nói: “ưu thọ tâm sở”. Bị các Tâm sở nó kéo dẫn Tâm vương, không nghiêng bên này thì cũng ngã bên kia, cho nên không được chơn chánh.

  Bên sách Nho nói về “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín” tức bên Duy thức nói về “Thiện tâm sở”. Thầy Mạnh nói: “Tâm trắc ẩn là đầu mối của lòng Nhân; tâm biết hổ thẹn là đầu mối của việc Nghĩa, tâm biết từ  nhượng là đầu mối của Lễ, tâm biết phải chẳng là đầu mối của Trí.”

  Bên Nho nói “tâm trắc ẩn” tức bên Duy thức nói “tâm sở bất hại” trong thiện tâm sở. Bên Nho nói “tâm hổ thẹn” tức bên Duy thức nói “tâm sở tàm quý” trong thiện tâm sở. Bên Nho nói “tâm từ nhượng” tức bên Duy thức nói “tâm sở vô sân”. Bên Nho nói “tâm biết thị phi” tức bên Duy thức nói “tâm sở vô vi”.
 
 

  HỎI: Tại sao biết bốn món trên đều là Tâm sở mà không phải là Tâm vương.

  ĐÁP: Tâm vương cũng như ông vua ở trong chín lớp lâu đài sâu xa, chỉ ra hiệu lệnh, chứ không phải tự ra làm các việc được. Phải có Tâm sở thọ mệnh lệnh của Tâm vương mới ra làm các việc như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín, Trí.

   Bởi các Tâm vương không tự tạo tác được các nghiệp lành và dữ, chỉ do Tâm sở giúp cho Tâm vương mới tạo thành; mà Tâm sở lúc nào cũng vâng mệnh lệnh của Tâm vương. Bởi thế nên đời xưa các vị Minh quân đều do rành rõ tâm pháp, cho nên nước nhà mới được thạnh trị. Như lời truyền nói: “Vua Nghiêu vua Thuấn duổi (xủ) tay áo, mà thiên hạ vẫn thạnh trị”. Đức Khổng tử cũng nói: “Vua Thuấn ngồi khoanh tay không làm (không cai trị) mà thiên hạ vẫn thạnh trị. Bởi vì vua Thuấn biết y theo Tâm vương mà trị. Cho biết: không làm (vô vi) mà được thạnh trị, là luận theo nghĩa Duy thức; nếu chẳng thuận theo Duy thức, thì quyết không thể thạnh trị được.

  Bởi nghĩa lý của Duy thức rất sâu rộng, kẻ sơ học  khó nhập, nên tôi phương tiện dẫn sách ngoài để giảng giải. Mỗi khi dẫn sách ngoài giải thích, thì bị người chê là lời phụ hội, làm cho người đời chấp ngón tay mà quên mặt trăng.

  Chỗ này cần phải chú ý: phàm “phụ hội” là lấy chỗ cạn mà phụ cho chỗ sâu, cũng như con ruồi nhờ đậu trên lưng con ngựa mà đi được đến phương xa. Nay Phật giáo cao tột, không còn Pháp nào hơn, cho nên không có cái lý “phụ hội”. Sở dĩ dẫn chứng sách vở thế tục, là phương tiện để dẫn dắt người thấp kém. Phải biết các phương tiện quyền xảo, cũng như cái bè để đưa người qua sông, khi lên bờ rồi thì phải bỏ cái bè. Còn các phương tiện là để đưa người đến chỗ chơn thật, khi người thấy được lý chơn thật rồi, thì phải bỏ những phương tiện. Bởi thế, nên người đọc sách này, mỗi khi gặp dẫn các sách ngoài để giải thích, chớ nên chấp là thật pháp.

Xem mục lục