BÀI THỨ NĂM                I. PHÓNG TÂM VỚI                DUY THỨC    Một hôm trời gần                sáng, tôi nằm chiêm bao thấy một trường học, các học sinh đang làm                reo. Thầy giáo nhóm các học sinh tại giảng đường để diễn thuyết và                mời tôi lên diễn đàn diễn giảng.    Tôi suy nghĩ                chúng học sinh này tính tình nóng nảy bạo động, không thể dùng lý                luận mà giải bày được, chi bằng nói một vài câu chuyện có lý thú                để cho chúng nghe còn hơn. Lúc bấy giờ tôi mới nói rằng:                   -“Đại viên này là                kẻ vô học, cũng không có tài diễn giảng, nhưng tôi chỉ nhớ sơ sài                được vài câu của Thầy Mạnh như vậy: “ Cái đạo học vấn không gì lạ,                chỉ tìm phóng tâm (vọng) trở lại mà thôi”. Vậy thì cái “phóng tâm”                rất là hệ trọng! Thân không tu cũng vì phóng tâm, nhà không tề                (yên) cũng vì phóng tâm, nước không trị (loạn) cũng vì phóng tâm”.                Chính như  ngày hôm nay các trò làm reo, cũng vì không biết tìm                cái “phóng tâm” của mình trở lại, thì tức khắc “không có việc gì                cả”. Tại sao các trò không biết tìm cái “phóng tâm”? –Vì các trò                không biết cái học vấn để tìm “phóng tâm”. Cái học vấn để tìm                “phóng tâm” đó, tức là Duy thức học vậy.    Đức Khổng Tử và                thầy Mạnh đều có biết Duy thức học, chẳng qua các Ngài không nói                đến danh từ Duy thức mà thôi, nên người đời chẳng ai biết.                   Như trong Luận                ngữ nói: “Lẳng lặng mà ghi đó, học không biết nhàm, dạy người                chẳng biết mỏi, đâu có ở nơi Ta ư?” Nói như thế là vì các Ngài đã                tinh bác được Duy thức học rồi. Trước ở nơi mình đã âm thầm chứng                được, nên học mà không biết nhàm, đến khi học giỏi ra dạy người                không biết mỏi.    Được công phu như                thế, thì biết rằng các Ngài đã phá được “ngã chấp” rồi, cho nên                mới nói rằng: “Đâu có ở nơi Ta ư ?”    Thầy Mạnh sẵn có                khí tượng Đại thừa, chẳng qua ý khí còn thô sơ, nên Thầy chỉ giảng                đặng sơ sài vài câu. Như nói rằng: “ Muôn vật đều ở nơi Ta…”. Nói                như thế, tức là chỉ cho “ Muôn pháp đều về nơi Duy thức.”                   Nói đến đây học                sinh vui mừng vỗ tay hoan nghinh. Tôi liền giựt mình thức dậy, thì                trời còn mờ  mờ chưa sáng. Tôi ngồi  suy nghĩ: giấc chiêm bao này                có thể đem ra chứng minh cho lý Duy thức.  II. CẢNH CHIÊM                BAO CÓ HAY KHÔNG?    Nếu nói cảnh                chiêm bao này thật có, thì giảng đường, người và các vật trong                chiêm bao vừa rồi, bây giờ sao không thấy một vật nào cả? Còn nói                là không, thì tạisao đương khi chiêm bao lại thấy đủ hết. Trong                Thành Duy thức luận lại nói: “Cũng như người ngũ, do Tâm chiêm bao                biến hiện ra các cảnh vật, in tuồng như ở ngoài.”  Người đương lúc                chiêm bao vẫn chấp các cảnh ấy thật có và ngoài tâm. Đến khi thức                giấc rồi mới biết các cảnh vật này không thật, chẳng qua do Tâm                chiêm bao biến hiện mà thôi.  III. CHỨNG                NGHIỆM CÓ BA TÁNH  a)      Y tha khởi                tánh: Nghĩa là ngoại cảnh tuy không, nhưng Nội thức lại có; ngoại                cảnh lại y nơi Nội thức kia mà sanh (Y tha khởi); nếu không có Nội                thức thì ngoại cảnh chẳng có. Do đây suy xét, trong thế gian nào                là núi, sông, đất liền, người và vật v.v… không có một cảnh nào                chẳng y Nội thức biến hiện.  b)      Biến kế sở                chấp tánh: (vọng chấp) –Nghĩa là các cảnh vật đều từ Nội thức biến                hiện không thật, mà không trở lại điên đảo so đo chấp các cảnh ấy                ngoài tâm và thật có. Nếu có người nói các cảnh đó là giả, thì                nhứt định không tin, cũng như tôi vừa rồi ở trong chiêm bao thấy                giảng đường, người và vật v.v… quyết định nói là thật; đợi đến khi                thức giấc  rồi mới tin đó là giả.  c)      Viên thành                thật tánh: Nghĩa là nhận thức đúng với lẽ thật. Như người khi thức                tỉnh mới biết cảnh chiêm bao là giả.    Theo nhà Duy thức                thường dùng ba tánh này mà phê phán tất cả các pháp, cái nào chơn,                cái nào giả. Có thể lấy việc chiêm bao trên, để chứng minh 3 món                tự tánh này.    Ba món Tự tánh:                _Y tha khởi tánh                (các pháp duyên khởi)  _Biến kế sở chấp tự                tánh (mê lầm vọng chấp)  _Viên thành thật tự                tánh (giác ngộ)    Người đời đang ở                trong đêm dài sanh tử, mê mang nơi trường đại mộng, nên thấy nào                là quốc gia, chánh trị, nhân vật, tài sảnv.v… đều chấp là thật có,                không tin Duy thức biến hiện. Hôm nay giảng về Duy thức học là kêu                người sớm tỉnh giấc đại mộng, dùng đủ phương tiện để chứng minh                muôn sự  muôn vật đều do Duy thức  biến hiện. Nếu người nhận được                rõ lý Duy Thức rồi, thì cũng như tôi tỉnh giấc mộng trước kia,                không đợi người nói mà tôi cũng tự biết các vật trong chiêm bao                đều không tự có, chỉ do tâm biến hiện mà thôi (Y tha khởi). Khi từ                bỏ cái mê lầm vọng chấp thật có rồi, (Biến kế sở chấp) thì các                ngài hiểu biết mới đúng sự thật, nên gọi là Viên thành thật.               
ĐEM VIỆC CHIÊM BAO ĐỂ XÉT NGHIỆM LÝ DUY THỨC 
(CÓ BA ĐOẠN)
