Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (14)


Xem mục lục

46. Con lừa tụng to nhất

Hàng chục Tăng sĩTây Tạng họp nhau trong một tu viện, đánh chuông và liên tục tụng niệm. Vị chủ lễ đầu mang vương miện kết bằng lông chim, mặc y đỏ viền vàng. Tất cả các vị ngồi trên thảm quý, tay cầm các pháp khí nạm vàng rực rỡ. Lúc đó thì Drukpa Kunleyđẩy cửa bước vào.Không ai ngạc nhiên gì khi thấy vị đạo sư khác đời này đi vào mà không chịu nghiêng mình sát đất ba lần như lệ thường, nhưng mọi người đều lo chuyện chẳng lành xảy ra khi thấy ngài ngồi ngay giữa phòng và nghiêng tai nghe ngóng điều gì.

Các vị Tăng tiếp tục nghi lễ có vẻ hoang mang, tiếng tụng Kinh có chút lơi lỏng. Dù sao, đây là một dịp để tập tính nhẫn nhục và cần đối xử với kẻ phá bĩnh này một cách cố tình.Sau khi ngồi nghe một lúc, Drukpa Kunley đứng dậy, lầm bầm ra cửa. Liệu ngài đã nghe tụng xong rồi hay ngài lầm bầm mật chú gì, dù sao nếu ngài cùng lầm bầm tụng niệm thì vẫn hơn. Ngưòi ta vừa hy vọng ngài đi đâu cho xong thì mười phút sau Drukpa Kunley trở lại và lần này ngài dắt theo một con lừa.Bây giờ thì các Tăng sĩ hầu như không tập trung tụng niệm được nữa. Vị Lạt-ma kì cục đó không những chỉ dắt một con lừa vào chính điện mà còn đội cho con lừa một cái vương miện kết bằng lông chim, rồi dắt đến cho vị chủ lễ, cả hai có chung một vương niệm giống nhau.Tất cả mọi người đều cố không nhìn, Drukpa Kunley dắt con lừa đến bên cạnh vị chủ lễ bắt nó quỳ xuống. Vị chủ lễ vẫn giữ tâm an tịnh va tiếp tục tụng niệm. Drukpa Kunley bắt đầu đá vào hông con lừa cho nó kêu lên, gần như theo nhịp tụng niệm.

Cuối cùng chịu không nổi, các Tăng sĩ cho ôm Drukpa Kunley đang cười ngặt nghẽo vứt ra ngoài điện với con lừa, để còn tiếp tục buổi lễ, thứ lễ lạt mà vị Lạt-ma khác người đó không coi ra gì. 

47. Giáo pháp tuyệt vời của Tịch Thiên

Tịch Thiên là một vương tử, sống cách đây khoảng 1200 năm tại Ấn độ. Xứ Ấn Độ ngày xưa gồm có nhiều vương quốc nhỏ, trị vì theo cách cha truyền con nối. Vì thế, nếu có vị vương tước nào từ chối ngôi vua, theo sống độc cư, thực hành thiền định thì đó cũng là chuyện hi hữu.

Từ nhỏ, Tịch Thiên đã nằm mơ thấy nữ thần Tara hiện đến và khuyên không nên đem trí tuệ của mình áp dụng vào chuyện không đâu, đừng để cho cái chết đến mà không giác ngộ. Trong đêm trước khi Tịch Thiên được tôn vương thì Bồ-tátVăn-thù (16), hiện thân của trí tuệ hiện đến và nhắc nhở lại điều này. Sau đó Tịch Thiên từ ngôi, vào rừng sống như một tu sĩ và thực hành thiền định.Sau nhiều năm sống độc cư, Tịch Thiên về đại học Na-lan-đà (28) ở Bihar và thệ nguyện giữ hạnh Tăng sĩ tại đó. Ngài không ưa gần gũi sinh viên và hay rút về căn phòng của mình. Tại đó, bạn đồng học và thầy giáo khám phá ra ngài ăn mỗi ngày năm bữa cơm.Không bao lâu sau, người ta đặt tên ngài là “Busuku”, dịch nguyên nghĩa là “kẻ chỉ biết ăn, ngủ và ỉa”. Ngài còn bị đặt thêm những cái tên như “bị gạo”, vì thực tế ngài có vẻ lơ là, lười nói. Như bao nhiêu trường hợp khác, không mấy ai biết trong chàng thanh niên này đang diễn ra điều gì.Thậm chí nhiều bạn đồng học của Tịch Thiên cho rằng ngài làm hại thanh danh của viện và tìm cách đuổi chàng khỏi trường. Họ họp nhau bầy ra mưu kế như sau: trong một buổi hội thảo công khai, mỗi sinh viên phải đọc thuộc lòng một bài Kinh. Trong đó chắc chắn Tịch Thiên không thuộc bài nào, thế nào ngài cũng phải bỏ trường mà đi.Mới đầu Tịch Thiên không chịu tham gia buổi hội thảo. Cuối cùng thấy liệu không tránh khỏi, ngài chịu dự với điều kiện: Ngài phải ngồi trên một ngai chỉ dành riêng cho các vị đạo sư hay ngồi. Bạn đồng học đều ngạc nhiên trước đòi hỏi vô lý này nhưng họ nghĩ rằng như thế sau đó sẽ càng làm chàng thêm xấu hổ, nên họ đồng ý.

Tới ngày hội thảo ngài mạnh dạn đi lên ngai, ngồi xuống với dáng điệu của một vị vương tước và hỏi các vị thông thái trong hội thảo muốn nghe lại các Kinh điển cũ hay một giáo pháp hoàn toàn mới.Các bạn đồng học kinh ngạc, nhưng họ đồng ý nghe cái gì mới mẻ và hy vọng như thế càng làm cho chàng sai trái hơn.Sau đó Tịch Thiên bắt đầu niệm danh hiệu của chư Phật, chưBồ-tát trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, với một giọng niệm thi vị tuyệt vời. Sau khi niệm Tịch Thiên hầu như trở thành chư Phật ba đời, ngài thuyết liên tục và văn chương tuôn ra như có âm điệu trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Đó là tác phẩm Bồ-đề hành kinhvô song, còn truyền lại cho đến ngày nay.Tịch Thiên vừa giảng đến chương thứ chín, nội dung nói vế tính chất vô ngã của toàn bộ sự vật thì bỗng nhiên thân ngài hầu như mất hết sức nặng và lơ lửng trên ngai. Sau một lúc thì thân ngài biến mất và hội chúng chỉ còn nghe tiếng nói, nghe âm điệu du dương và chấm dứt tác phẩm với mười chương.Tất cả mọi người bây giờ mới biết Tịch Thiên là một vị Phật và lúc nầy biểu lộ lòng kính trọng thì ngài đã biến mất và không còn trở lại Na-lan-đà nữa. Bạn đồng hành của Tịch Thiên đã đạt được mục đích của mình, nhưng họ hối tiếc xiết bao. Họ tìm lại trong phòng ngài thì chỉ thấy hai cuộn Kinh, hai cuộn này cũng còn lưu truyền tới ngày nay.

Ngày nay người ta xem Tịch Thiên, người như một con sư tử, là một vị đắc đạo nhất của đạo Phật. Tác phẩm Bồ-đề hành kinh của ngài ngày nay vẫn còn được nghiên cứu và đuợc nhiều kẻ tầm đạo trên khắp thế giới học thuộc lòng.

48. Tu sĩ với cái mũi kỳ quặc

Ngày xưa có một người suốt ngày chăn bò ngoài đồng cỏ. Trong lúc đó thì cả gia đình chăm chỉ học tập Kinh điển với một vị Lạt-ma. Mọi người gọi kẻ chăn bò đó là "mũi trái rạ”, vì lẽ hồi nhỏ ông bị bệnh trái rạ và cái mũi ngày nay còn đỏ hồng, có sẹo.

Mọi người đều cho là ông kém thông minh, nhưng ông luôn hỏi xem gia đình học được nơi vị Lạt-ma nọ những gì, vị Lạt-ma làm gì nói gì. Thường thì lời nói của ông bị gạt qua một bên, người ta nói rằng đó là “Mật giáo”, không phải ai cũng được biết. Có lúc ông hỏi: “Mọi người học được mấy điều” thì được trả lời: “Chỉ ba điều thôi, giáo pháp chỉ có ba chữ thôi nhưng chứa đựng tri kiến toàn thế giới.” Cứ thế mà gia đình xem thường ông. Ai cũng biết ông tha thiết được học để khỏi thua mọi người, nhưng ai cũng nghĩ đầu óc non kém như ông thì học được cái gì.

Sau mấy năm. “mũi trái rạ” mới tự nghĩ ra rằng mình phải tự tìm kiếm hiểu biết cho mình, cái hiểu biết chỉ gồm có ba chữ mà không ai chịu tiết lộ. Kể từ lúc đó ông bắt đầu tích trữ  thực phẩm và tìm cách bí mật trốn đi. Với một bọc đựng thức ăn đi đường, một đêm nọ, ông trốn đi lên đường tìm vị Lạt-ma, không nói gì với gia đình cả.“Mũi trái rạ” chẳng biết tên tuổi vị Lạt- ma, chẳng biết ngài ở đâu vì thực tế ông chưa từng rời nơi chăn bò. Nhưng ông tin chắc rằng, thế nào mình cũng kiếm ra một vị đạo sư và học được ba chữ đó.Ông đi từ làng này qua làng khác và giữa đường nghe nói về một nhóm tu sĩ sống trên núi. Các vị này học với một vị Lạt-ma. Ông liền đi đến đó và cũng được tiếp đón tử tế. Nhưng lúc nghe giảng, “mũi trái rạ” thấy giáo pháp phức tạp khủng khiếp, không có gì hấp dẫn cả. Vị Lạt-ma này nói cái gì dài dòng, chỉ những phép tu bí truyền khó hiểu, chỉ mọi cách để đạt đạo. Trong lúc đó “mũi trái rạ” biết rõ cái quan trọng nhất chỉ gồm ba chữ, sao không nghe nói tới.Chỉ nghe một lần giảng, ông đã biết tay Lạt-ma này chỉ là một tên phù thủy và vội vã rút lui. Người hầu cận Lạt-ma thấy “mũi trái rạ” sắp rút bèn mời ông ở lại thêm một đêm để ngày mai gặp thêm vị Lạt-ma trưởng nữa. “Thấy chưa,” ông vui vẻ nhận lời, “ngày mai, ta sẽ hỏi vị đạo sư này về ba chữ đó và tâm ta sẽ yên”.

Mặt trời chưa kịp lên thì “mũi trái rạ” đã đứng trước vị Lạt-ma đắc đạo rồi và xin được nghe ba chữ, ba chữ chứa đựng toàn thế giới đó, ba chữ mà các nhà thông thái ai cũng biết mà không chịu tiết lộ. Vị Lạt-ma nọ biết rõ, đối với người đã chín thì một chữ cũng đánh thức họ được, đối với người chưa chín thì một trăm kiếp cũng không. Ông cười thông cảm: “Lòng ham học của con thật đáng quý trọng, nhưng con nghe sao về ba chữ đó?”

Nghe đến đây thì người chăn bò tức giận. “Ngươi muốn trêu ta nữa ư?”, ông kêu lớn. “Ngươi chỉ là một cuốn từ điển biết đi mặc áo tu sĩ, hay ngươi cũng ích kỷ giấu giếm ba chữ đó. Đồ …”Người chăn bò tuôn một tràng chửi bới làm vị Lạt-ma nọ cũng nóng theo. Ông giật cái chuỗi gỗ đeo cổ, quay trên tay và gọi: “Mũi trái rạ, đâu có gì đâu, Hung Benzar Phet!”. Chuỗi đeo bỗng dập trúng người chăn bò, còn Lạt-ma trưởng tức giận bỏ ra khỏi phòng.Trong khi các đệ tử khác nghe giảng pháp thì người chăn bò ôm đầu đang bị u và suy nghĩ chuyện xảy ra có ý nghĩa gì. “Ta hỏi ba chữ đó, vị Lạt-ma đập cái chuỗi trên đầu ta và cho ta một mật chú. Phải chăng đó là ba chữ ta tìm kiếm bấy lâu nay. Hung Benzar Phet. Chắc chắn dúng rồi”. Lòng hoan hỉ, “mũi trái rạ” lên đường về nhà, ông đã tìm được cái mà người khác đi suốt bao năm không tìm được. Đến nhà, gia đình hỏi ông đi đâu và tại sao ông lại vui tươi đến thế, khác hẳn thường ngày mặt mày đăm chiêu như một con chó bị đập.“Mọi người chắc không tin đâu, nhưng thực tế là ta đã học được nơi một vị Lạt-ma tất cả những gì mà một người cần học”.

“Thật ư?”, mọi người không tin, “Vị Lạt-ma đó nói gì hay làm gì mà bây giờ ngươi thay đổi đến thế?”

“Chỉ cần ba chữ thôi”, “mũi trái rạ” trả lời, “Ba chữ bí mật này người ta phải giữ kín, ba chữ này ở trong đáy lòng mỗi ngày đều phải tụng niệm”.

Người chăn bò nọ trở lại với công việc chăn bò, nhưng ông có một chỗ ngồi thiền định giữa các tấm rạ. Cứ mỗi lần xong công việc, ông lại ngồi trong thế hoa sen và tập trung cao độ đọc mật chú nọ. Lúc chăn bò, ông cũng tu luyện sự tỉnh giác, mối lần thấy tâm mình lơi lỏng,ông lại nhẩm: Hung Bezar Phet. Không bao giờ ông hỏi các chữ đó có nghĩa gì. Đối với “mũi trái rạ”, ba chữ đó bao trùm toàn bộ sự vật. Với lòng thiết tha tu tập, dần dần người chăn bò trở thành một tu sĩ có trình độ, mặc dù không bao giờ ông thấy mình là một tu sĩ.

Cứ thế mà nhiều năm trôi qua, rồi đến một ngày có người kiếm mũi trái rạ trong chuồng bò và nhờ ông cùng cưỡi ngựa xuống núi có chuyện."Chủ tôi là một trưởng giả giàu có, nhưng vợ của ông ta bị ốm. Thình lình bà ta nổi cơn điên như bị ma nhập, không thể chữa chạy được. Người ta nói có một tu sĩ như ông có thể giúp được, ông có mật chú đặc biệt. Hiện nay y sĩ và Lạt-ma đều bó tay cả”. Mũi trái rạ ngạc nhiên, ông chưa bao giờ nghe tin đồn đại về mình. Tuy thế ông cũng sửa soạn lên đường xuống núi để giúp người bệnh trong khả năng của mình.

Đến nơi, ông vội vào thăm người bệnh đang vật vã. Không một chút ngần ngại, ông bắt chước thầy mình ngày trước làm sao thì làm vậy: ông giật xâu chuỗi gỗ đeo trước ngực, gõ đầu người bệnh và gọi lớn: "Mũi trái rạ, đâu có gì đâu, Hung Benzar Phet!” Mọi người kinh ngạc khi thấy người bệnh bỗng nhiên hết điên. Bà chớp mắt nhìn quanh như ai vừa đánh thức bà dậy từ một cơn mê dài và hết bệnh.Từ đó, mũi trái rạ bỗng thành nổi tiếng là người chữa bệnh. Ông có nhiều thái độ kỳ quái khó hiểu, nhưng dần ai cũng kinh sợ trước câu thần chú của ông. Rồi tới một ngày vị Lạt-ma đã từng truyền thần chú cho mũi trái rạ cũng bị bệnh. Mọi người gửi một đoàn sứ giả với nghi thức hết sức long trọng để mời vị tu sĩ với cái mũi kì quặc đó đến giường bệnh. Người chăn bò không đợi nói lâu, ông liền đi nhanh tới chỗ người bệnh, vượt trước đoàn tùy tùng.Ông tự mình vén lều đi vào, đến bên giường và sắp sửa rút xâu chuỗi từ trên ngực xuống thì vị Lạt-ma nọ kêu tên hầu cận hỏi tên khùng này là ai mà sắp đập lên đầu ông cái xâu chuỗi. Giọng nói Lạt-ma nghe rất khổ sở vì ông đang bị bệnh sưng cổ.

“Thầy không nhận ra con sao?” người chăn bò kêu lên lo lắng. Không, vị Lạt-ma nọ có hàng trăm học trò và hàng ngàn người đã đến nghe giảng. “Bạch thầy, con đến đây để thực hành phép chữa bệnh mà thầy đã dạy cho con với lòng từ bi vô hạn, nhờ nó mà con giúp đuợc người đời”. Từ đó vị Lạt-ma nhớ ra, đó là một lần ông thốt ra vì giận dữ, một sự giận dữ ít khi xảy ra. Vị đạo sư nhớ ra, ông quay xâu chuỗi và đập chúng đầu tên khùng này và thực đã đọc một câu thần chú chửi thầm tên này, câu này rất ấu trĩ, nhằm đối trị vô minh và ma quỉ: Hung Benzar Phet! Vị đạo sư nhớ ra cười lớn khi thấy những hành động của mình ngày xưa có hiệu quả không ngờ. Và sau đó tên hầu cận và cả người chăn bò cũng cười, tiếng cười cứ nối tiếp nhau và nhờ đó cái độc nơi cổ Lạt-ma bị loãng đi và bị tống ra ngoài. Vị Lạt-ma được chữa lành bệnh theo một cách chưa hề có. Ông lắc đầu tự nghĩ: “Tên chăn bò khùng điên này thế mà có khả năng học hỏi…Biết đâu chừng, biết đâu chừng bây giờ y đã đủ sức tiếp nhận giáo pháp ẩn mật của “Sư tử tuyết, bờm sắc xanh” của giáo pháp Đại Thành, là giáo pháp trực tiếp nhận thức chân như”.

Ông nói với Mũi trái rạ: “Cảm tạ ngươi.Ta muốn tặng ngươi một tặng phẩm lớn nhất, ta truyền cho ngươi giáo pháp vô thượng.”

“Sao? Thầy đã dạy cho con tri-kiến-ba-chữ rồi mà, trong đó chứa đựng hết mọi thứ. Bây giờ lại còn giáo pháp vô thượng gì nữa. Thôi khỏi cần”.

Cũng may là vị Lạt-ma tinh thông với mọi tâm thức, nên ông nói cho Mũi trái rạ nghe giáo pháp vô thượng này chỉ chỉ luận giải thêm cho Tri-kiến-ba-chữ đó thôi, nó chỉ trang hoàng thêm cho câu thần chú "Mũi trái rạ, đâu có gì đâu có gì đâu, Hung Benzar Phet!", làm cho nó thêm linh nghiệm. Mũi trái rạ vui lòng học phép này và vị đạo sư bắt đầu giảng phép Đại Thành cho người học trò kém thông minh nhất trong giới những vị được đưa vào tri kiến vô song này. Ông dạy người học trò này bằng một tâm thức của Chân như viên mãn tuyệt đối.

Những năm sau đó, mũi trái rạ ngộ ra rằng sự viên mãn không phải chứng đạt gì cả vì thực tế nó luôn sẵn có, chỉ cần tự thân khám phá ra mà thôi. Và bây giờ, vì mũi trái rạ đã tiến bộ vượt bực, vị đạo sư chính thức truyền cho ông mật chú Đại Thành đích thực, cũng được diễn tả bằng ba chữ.Cuối cùng, mũi trái rạ giác ngộ và trở thành một đạo sư của phép Đại Thành.

49. Chuyện một vị ni tái sinh

Cách đây khoảng chín trăm năm có một cặp vợ chồng trẻ sống tại Shoto, một thành phố Tây Tạng gần Drigung. Họ là những người đơn giản, ngoan đạo và không mong gì hơn là sinh được một đứa con để hết lòng nuôi nấng.Nhưng hai vợ chồng bị hiếm muộn, không thuốc men nào chữa được, đi cầu nguyện bao nhiêu cũng không có kết quả. Tuy thế hai vợ chồng vẫn tin rằng có một đứa trẻ chỉ đang chờ cơ hội được sinh ra với mình và cuối cùng hai vợ chồng quyết đi hành hương ở Katmandu (Nepal), là nơi có một bức tượng do trời đất sinh ra, nghe nói có một thần lực rất mạnh và cho tất cả các lời cầu xin được thành sự thật.Trước các bảo tháp ở Swayambu tại vùng núi non Katmandu, hai vợ chồng quỳ gối cầu nguyện đức Phật Cồ-đàm mỗi ngày và xin làm cha mẹ của một thần thức nào đang sẵn sàng nhận một thân bằng xương bằng thịt. Họ chấp nhận bất cứ thức nào, dù thức đó mang lại ác nghiệp, hay dù thân sinh ra sẽ tật nguyền hay tâm trí thấp kém. Họ sẵn lòng chịu khó khăn gian khổ, chỉ cần có được một đứa con.

Nhiều tháng trôi qua, hai vợ chồng thuận thành sống theo qui định của người Phật tử. Rồi một đêm nọ, cả hai vợ chồng đều thấy chung một giấc mộng:mặt trời mặt trăng cùng mọc trong bầu trời đêm xanh thẫm và một tia sáng rực rỡ chiếu xuống, xuyên vào tim của hai vợ chồng.Hôm sau lúc tỉnh dậy, hai người rất xúc động biết mình mơ cùng một giấc mơ. Họ biết rằng tương lai sẽ hé mở cho mình những điều kỳ diệu, không kể đứa con sinh ra sẽ là con của mình hay của một cặp vợ chồng khác.Họ treo đèn kết hoa lên bảo tháp với lòng cảm tạ, bố thí cho người nghèo khổ, cho người bị hất hủi. Trên đường về nhà, họ không còn cầu xin ước nguyện nữa, mà nếu có cầu nguyện thì họ chỉ biết cảm tạ về những điều đã xảy ra.

Lâu sau người vợ mang thai và một năm sau thì sinh con. Khi sinh người mẹ không hề đau đớn, một bé gái ra đời mang hương thơm đầy nhà, nó có ánh sáng ngũ sắc chói lọi. Đứa trẻ ra đời mở mắt nhìn quanh một cách tỉnh giác, như xuất phát từ một tâm hồn rất già dặn.Cả làng Shoto đều đồn đại về đứa trẻ và nhiều vị Lạt-ma đến viếng mục đích xem đứa bé lạ lùng này là ai. Có người nói: “Đứa bé này là tái sinh của nữ thần Kim Cương(VajraDakini)”. Có người lại nói của nữ thần Tara. Có người cho rằng nên đợi lúc đứa bé lớn lên thì tự khắc sẽ biết nguồn gốc của nó.

Không bao lâu, nguồn gốc đứa bé lại trở thành câu chuyện thời sự trong làng Shoto. Ai cũng bàn tán về câu chuyện này, ban ngày ngoài đồng áng hay ban đêm bên đống lửa. Có một Tăng sĩ nhắc lại lời tiên tri của một tập kinh trong tu viện mình như sau: "Lời tiên tri đó báo trong thế kỷnày sẽ có một nữ thần Dakini(29) sẽ sinh trong hang Tidro gần Shoto, để giúp hàng ngàn người. Trong bang Tidro, đức Liên Hoa Sinh đã từng sống và đã từng cứu độ hàng ngàn Dakini trong thiên giới. Như mọi người đều biết, các vị thiên cũng không thoát khỏi ảo giác; cũng chịu qui luật vô thường; các vị đó một ngày kia rồi cũng phải chết và tái sinh nơi một cảnh thấp kém hơn; trừ phi các vị đó cũng tu học giáo pháp để giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc”.Sau lời giải thích đó thì mọi việc đã rõ: đứa bé đích thị là tái sinh của thần Dakini. Vì nhớ ơn Liên Hoa Sinh mà vị ấy xuống làm người để cứu độ hàng ngàn người, như ngày xưa Liên Hoa Sinh đã giúp các vị thiên nhân trong thiên giới. Chỉ có người không quan tâm đến tung tích đứa bé là hai vợ chồng nọ, họ đầy hạnh phúc. Họ chỉ muốn một điều là đứa trẻ được đầy đủ và lớn lênphát triển hợp với thiên nhiên.

Đến ba tuổi rồi mà đứa trẻ vẫn chưa có tên chính thức, người ta chỉ gọi bằng cái tên tạm cho đến khi một cái tên  đúng nghĩa sẽ được thông báo. Đứa trẻ đã học câu thần chú Tara và lẩm bẩm một cách thú vị, đôi lúc hàng giờ. Đến lúc người mẹ cho con chơi với trẻ con khác, bỗng nhiên bà biết phải đặt tên con thế nào. Khác với những đứa trẻ khác, đứa bé này không hề la khóc khi bị ai xô đẩy, ăn hiếp và giật đồ chơi. Thay vào đó, nó lại đọc thần chú Tara một cách nghiêm túc, hầu như nó biết rằng làm như thế, nữ thần Tara sẽ cứu độ. Sau đó không bao lâu, nó chỉ cho bạn biết cách đọc chú Tara và đi đâu nó cũng vẽ vời những chữ đó.Cuối cùng cha mẹ đặt tên đứa bé là Drolma, tên này là từ Tây Tạng chỉ nữ thần Tara. Tara là dạng xuất hiện nữ tính của Bồ-đề tâm. Drolma cũng đồng nghĩa với “giải thoát”.

Từ lâu, người ta đã biết đây là tái sinh của một vị đạo sư.Nhưng cũng như mọi chúng sinh trên trái đất, Drolma cũng phải trải qua nhiều đau khổ, và với đau khổ đó con người hoặc phải phát triển hơn hay chịu vùi dập. Drolma chưa đầy mười tuổi mà cha mẹ nàng đã chết sớm và nàng phải ở với một người cậu. Ông cậu là một người đã già và không hề hiểu được tâm hồn của cháu gái mình. Đối với đứa cháu cứng đầu này, ông cậu thấy mình phải uốn nắn nàng cho phải, sau đó ông định gả nàng cho một nông dân trong làng. Mặc các Lạt-ma hay trưởng lão trong làng nói gì, ông cậu nhất định không chịu tin nàng là một tái sinh của một vị nữ thần, chứ đừng nói tới Tara tái sinh. “Mỗi người thì cũng là tái sinh của người khác”, ông cậu nói. “Thì cũng chẳng có gì đặc biệt để đội mũ lên đầu cho người đó và cho nó làm đủ thứ chuyện”.

Nhiều bà con cũng đồng tình với ông cậu. Họ cho rằng cô bé mười bốn tuổi này phải lo lấy chồng sinh con đẻ cái, chứ đừng làm chuyện đạo sư gì, đừng giảng giải gì cho cái làng quen đồng áng này những chuyện cao xa, những chuyện mà cô bé trẻ tuổi này không thể tự mình biết đuợc.Đám cưới với con trai nông dân hầu như đã định sẵn, trong lúc đó Drolma cúi đầu, nhưng phản đối quyết liệt: “Con sẽ đi Kham, ở đó con sẽ gặp một tu sĩ, số phận đã định con lấy người đó. Chúng con sẽ sinh con đẻ cái, những đứa trẻ đó sẽ trở thành Rinpoche (đạo sư quý báu), sẽ đi vào lịch sử của đất nước”.

Bà con thở dài ngao ngán và coi thường những lời tiên tri của đứa trẻ non dạ. Tuy thế họ cũng phân vân, không rõ con người Drolma còn gì bí ẩn. Có thể nàng là một thiên tài, là hiện thân của Tara, nhưng đúng hơn nàng không hề được cha mẹ dạy dỗ gì về đời sống thực tế này.Khi Drolma lên mười lăm tuổi thì có một thương nhân đi ngang qua Shoto. Drolma dồn hết chút của cải, chạy đến xin cậu cho mình ra đi theo đoàn. “Con cám ơn cậu đã dành nhiều ưu ái cho con, nhưng con phải theo người này đi Kham, là nơi con phải đến”.

“Ta cấm con không được rời khỏi nhà”, ông cậu la lên. “Làm sao con biết người này đi Kham? Con nói chuyện riêng với y à? Con hẹn hò với hắn, không cho ta biết ư?”

“Không”, Drolma trả lời, “con có thông tin của con từ một nguồn khác. Bây giờ con phải đi giờ đã điểm!”

Cậu Drolma dùng mọi cách giữ nàng lại, kể cả uy quyền làm cha nuôi. Nhưng khi ông thấy nàng nhất quyết ra đi, ông đành phải hạ giọng năn nỉ. "Ta xin con đừng đi, hãy nghĩ lại trước khi tai họa ập đến với con, ta có trách nhiệm với con”. Phần lớn quyến thuộc của Drolma cũng có mặt, cả nửa dân làng cũng ra can gián. Cuối cùng nhiều người tiễn đưa nàng đến cuối làng, nơi mà thương nhân và đám tùy tùng đang đợi.Drolma nói với thuơng nhân: "Tôi không có gì đáng giá cho ông, nhưng nếu mang tôi đi Kham, ông hưởng được phước lành cách khác”.

Thương nhân ngạc nhiên: “Nhưng tại sao cô lại biết tôi đi Kham?” Thật ra thì ông cũng có quyết định đi nẻo này mới đây thôi. Drolma im lặng. Nàng ôm ông cậu và nói: “Chúng ta sẽ gần nhau, cách này hay cách khác. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng đạt giác ngộ. Cậu hãy luôn huớng tới Tara, vì Tara và con là một”. Nàng gỡ tay ông cậu ra và kêu lớn với mọi người: “Trong cõi Phật Tara, chúng ta sẽ gặp nhau”.Với lời này, nàng rời bỏ quyến thuộc bằng xương bằng thịt ra đi và tìm cho ra người quyến thuộc tâm hồn, một tu sĩ ở Kham, một người mà không ai biết liệu họ có thật trên đời này chăng.

Vài tuần sau, đoàn thương nhân đến Kham. Tại thị trấn Dento Tsongur, Drolma từ giã đoàn và đi thẳng vào một nơi hoang dã, cứ như nàng biết rõ đường đi nước buớc. Qua thời gian, đoàn người đã biết tính cương quyết của Drolma nên cũng không ai ngăn cản nàng nữa. Ai cũng biết muốn ngăn nàng thì phải dùng vũ lực mới được, mà điều đó thì không ai muốn.Drolma đi thẳng vào lều của một trong những tu sĩ có tiếng nhất vùng đó. Tsultrim Gyamtso là một truyền nhân của gia đình Kyura, như Drolma đã từng tiên tri mấy năm về trước. Thay vì nhận lãnh cơ nghiệp của cha và lập gia đình bình thường, chàng lên đuờng sống nơi hoang dã, thệ nguyện sống viễn ly và diệt dục.Tsultrim ra trước lều, chào người khách bất ngờ. Ngày hôm nay chàng không định gặp ai và dân làng xung quanh cũng ít ai khi gặp chàng mà không báo truớc. Tsultrim nhìn cô gái mặc quần áo nghèo khổ đang đứng ở bậc cửa, lòng đầy hình ảnh lạ lùng. Giấc mơ và sự thực hòa vào nhau một cách đáng sợ và trước khi người tu sĩ định thần lại thì cô gái đã nghiêng mình chào với một nụ cười của người hiểu chuyện: “Tôi… là người bạn đời, đã định sẵn cho anh. Trong tình yêu thương của Tara, chúng ta sẽ lấy nhau và có con với nhau, ánh sáng của chúng ta sẽ làm sáng lên cõi trần này”.

Tsultrim Gyamtso không nói được tiếng nào, đứng qua một bên nhường chỗ cho Drolma vào lều. Trong một giấc mơ cách đây không lâu, chàng thấy một nữ thần Dakini sắc lục hiện lên và báo trước, con cháu của chàng sẽ có những khả năng tâm linh vĩ đại, sẽ làm lợi cho con người hàng thế kỷ. Bây giờ, giấc mơ đó bắt đầu sáng tỏ, sứ giả của một thế giới khác đang cần chàng, một tu sĩ diệt dục, để làm sứ mạng đó.

Trong những ngày và tuần sau đó, Drolma và Tsultrim làm quen thêm với nhau, vì trong một hay nhiều kiếp trước, hai người đã từng chung sống với nhau dưới dạng này hay dạng khác. Hai người nhớ lại kỷ niệm ngày xưa và niềm vui đoàn tụ tưởng không dứt. Không bao lâu sau, cả hai đều biết rõ họ sinh ra là để vì nhau và đời này họ cưới nhau. Tuy nhiên, Tsultrim chỉ là một tu sĩ độc cư nghèo và không có gì để cử hành hôn lễ với tất cả nghi thức, đó là không kể chuyện lập gia đình và sinh con đẻ cái. Drolma nói "Anh đừng lo. Hãy mời gia đình và bạn hữu tới tham dự buổi lễ. Em sẽ lo tất cả.”Thấy vợ còn ngây thơ trẻ con, Tsultrim Gyamtso bật cười: “Em không sợ gì trong thế giới này sao? Cũng không sợ bố mẹ chồng thuộc dòng Kyura nghiêm khắc sao?”

“Không, em chủ động sinh vào thế giới này để giúp tất cả mọi người không chút phân biệt. Không phải em có sức mạnh của thiên giới mà sức mạnh đó tác động thông qua em. Vì vậy em biết rằng mọi việc em làm đều tốt lành và tất cả ai theo em sẽ đều giác ngộ”.

Drolma lên mười sáu lúc nàng cưới vị tu sĩ đã nhập dòng Tsultrim Gyamtso. Lễ cưới được tổ chức với sự tham dự của hơn một trăm khách và cả trăm người đó đều xác nhận rằng, lúc đó trong túp lều nghèo nàn và chung quanh xa hàng mẫu đất có một thứ ánh sáng êm dịu tỏa ra; còn Drolma thì đánh chiếc trống nhỏ và mắt đăm đăm nhìn bầu trời. Một mùi hoa lạ chưa từng có lan khắp nhà, trên bàn thờ những ánh sáng li ti nhảy múa, rực rỡ hơn bất cứ ánh sáng thế gian nào. Khách mời đều nhận được mùi vị ngọt ngào của một thứ nước thánh, tuy không thấy thật nhưng tất cả đều được thọ hưởng.Sau buổi lễ, Drolma xoè bàn tay cho chồng thấy bốn miếng xương trừu có dạng vuông vức kỳ lạ vừa hiện trong lòng bàn tay. Drolma cũng ngạc nhiên trước hiện tượng này, nhưng nàng biết ngay và nói: “Đây là dấu hiệu chúng ta sẽ có bốn đứa con trai, chúng sẽ đạt giác ngộ ngay trong đời này”.

Như tiên tri, Drolma sinh bốn con và mỗi người đó đều được điểm đạo. Drolma và chồng cũng có nhiều đệ tử và trở thành đạo sư có tiếng. Lúc đứa con thứ tư đến tuổi trưởng thành, Drolma đưa các con và một số đệ tử về lại hang Tidro, là nơi đạo sư Liên Hoa Sinh đã từng sống và giáo hóa cho các nữ thần Dakini.Khi Drolma đến nơi thì hang động sù sì bỗng biến thành một cửa thành dẫn vào thiên giới. Người ta nhìn thấy một phong cảnh như bằng ngọc quý dựng lên, thiên nhiên tuyệt đẹp hàng đoàn, hàng đoàn xuất hiện. Drolma căn dặn mọi người đừng quên rằng cảnh đẹp tuyệt vời này cũng chỉ là ảo giác. Dù chân như rất gần với chúng ta, gần hơn tất cả nhưng chúng ta luôn luôn chỉ thấy ảo giác của một đời sống bị trói buộc. Với những lời đó Drolma bắt đầu lễ điểm đạo.Nhiều giờ trôi qua, sau nghi lễ Mật tông, Drolma đã cho giới đệ tử thâm nhập được thiên giới, ngộ hiểu các vị thiên nhân và Phật tính uyên nguyên của các vị đó. Trong thời gian ngắn ngủi này, nhiều đệ tử đã chứng ngộ được nhiều khả năng siêu nhiên mà tu tập thông thường phải mất hàng năm. Drolma dặn dò những thần thông đó không phải là mục đích tu học, chúng chỉ là kết quả tự nhiên trên đường liễu ngộ chân như.Cuối cùng Drolma đặt cuốn Kinh lên bàn thờ trong động và tuyên bố trách nhiệm của nàng trong thế gian này đã hoàn thành. Nàng long trọng thệ nguyện rằng sẽ cứu độ mọi người tầm đạo trong vài ngàn năm tới, một khi người đó nghĩ, nhớ hay nhắc đến tin nàng. Sau đó nhiều điều xảy ra không ai còn nhớ rõ. Drolma chết trong động Tidro của Liên Hoa Sinh, mỗi người hiện diện thấy sự việc một cách khác nhau. Truyền rằng, nàng lên một con ngựa sắc xanh bay về cõi thần Dakini, có thiên nhạc vang lừng tiếp đón. Các con nàng chỉ mỉm cười khi nhắc đến cái chết của mẹ, làm ta biết rằng lúc chết cũng như lúc sinh, nàng không hề đau đớn mà đó là một biến cố hỉ lạc.

Drolma và con cháu nàng đã đi vào lịch sử của Tây Tạng, là các vị đạo sư quan trọng. Cháu của Drolma là vị đạo sư Jigten Sumgon cao trọng. Đến ngày nay, dòng giáo hóa Drigung Kagyu của Drolma vẫn còn, một dòng lấy các lời khai thị của nàng trong động núi cách đây trên 900 năm làm cơ sở. Người Tây Tạng tin rằng, nếu có ai nhớ, nghĩ tới nàng thì sẽ được nàng nghe đến và tiếp dẫn. Và ai làm theo lời khai thị của nàng, sẽ sớm được giác ngộ hơn người khác.

50. Mộng và thực

Trên sườn ngọn Everest, cao khoảng sáu ngàn mét so với mặt biển, tu viện Thubten Choling nằm cheo leo, xem như một tu viện Phật giáo nằm trên nóc nhà của thế giới. Viện trưởng là Trulshik Rinpoche, ngày nay là một vị Lạt-ma và đạo sư đã già của trường phái Nyingmapa (30). Người Tây Tạng tôn sùng ngài và xem ngài là một bậc giác ngộ, là người đã vượt qua mọi ảo giác. Đó là thứ ảo giác chồng chất nhiều tầng làm con người không tri kiến được tâm thức mình, làm con người không thể liễu ngộ chân như.

Hàng chục năm trôi qua mà Trulshik Rinpoche hầu như không bao giờ rời khỏi tu viện. Thế nhưng năm 1991, ngài nhận lời cùng đi với Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, vị đứng đầu Tây Tạng đến New York để nói chuyện tại Madison Square Garden và giảng giáo pháp về tự tính giác ngộ trong mỗi con người. Trong những năm tu học, chàng thanh niên Trulshik luôn luôn nghĩ trong đầu mình sẽ đuợc gặp đạo sư Gyalwa Karmapa(31) để được học hỏi thêm. Gyalwa Karmapa thứ 16 là chưởng môn của trường phái Kagyu (32), là người nắm giữ một bí quyết lâu đời. Bí quyết này dành cho các học trò đã chín muồi, chỉ cần một hành động thân khẩu nào đó là giải thoát cho học trò khỏi sai lầm tự tạo.

Suốt năm này qua năm khác, chàng Trulshik chỉ mong tạo cơ hội để gặp Gyalwa Karmapa. Chàng lên đường đi từ Tibet qua Sikkim để gặp Karmapa tại đó nhưng sau thời gian khó nhọc đến nơi vị này đã đi Ấn Độ để dạy phép Mahakara bí truyền. Trulshik  vội đi Ấn Độ nhưng Karmapa lại đi nước khác trước. Làm cách nào, Trulshik cũng không gặp được vị đạo sư này cả.Chàng không còn cách nào khác hơn là tự mình tìm hiểu lý do sâu xa nào đã gây ra chuyện này. “Phải chăng có năng lực xấu ác gì, xui ta phải xa thầy, để thử thách ta? Hay nội tâm ta còn che đậy, có một ác nghiệp hay một tri kiến sai lầm?” Chàng tự đặt cho mình những câu hỏi và sau đó thực hiện mọi phép như sám hối, thiền quán hay nuôi dưỡng lòng từ bi. Chàng thực hành bố thí, ra sức tu tập chính kiến, tụng đọc thần chú, giữ hạnh hiếu sinh và cứu độ chúng sinh.Khi cầu nguyện chàng chỉ còn mong cầu được Gyalwa Karmapa điểm cho phép Mahakara trước khi ngài nhập diệt. Nhưng sau đó Gyalwa Karmapa mất năm 1981 mà Trulshik không hề được gặp.Nghe tin đó, Lạt-ma Trulshik tuyệt vọng. Đó là nỗi thất vọng lớn nhất đời ông vì không còn ai giúp ông vào thánh đạo một cách nhanh chóng. Người ta kể rằng ông phải mất hàng năm mới chấp nhận được thực tế này, đời này ông không còn đạt được mục đích lớn nhất nữa.Sau đó, trong một trạng thái vô sở cầu thì một phép lạ xảy ra cho Trulshik. Một đêm nọ, hoàn toàn bất ngờ, Gyalwa Karmapa đã chết lại hiện ra trong giấc mơ. Tâm trí của Trulshik lúc đó đã rỗng không thì hình ảnh đó hiện ra rực sáng và không thể nào quên. Ngày xưa lúc ông còn mong cầu tha thiết thì không được, bây giờ không còn mơ ước gì thì Gyelwa Karmapa lại đến: vị Phật sáng rực trong dạng Karmapa cho ông hay, sẵn sàng truyền cho ông phép Mahakara.Trulshik hỏi câu hỏi đầu tiên; “Cái gì có thực, cái gì không có thực?”

Đạo sư đáp: “Tất cả đều có thực tất cả đều không có thực. Đúng là một nghịch lý. Từ phương diện tuyệt đối thì tất cả mọi thứ nào được tạo thành, thứ đó có đặc tính, mọi thứ đó đều vô thường và không thực. Chỉ cái đó, cái tạo nên mọi thứ trong vũ trụ thì lại là thực, nhưng cái đó lại phi tính chất, phi hình thể, không ngăn ngại. Cũng chính vì thế mà cái đó lại hết sức diệu dụng, toàn năng. Từ phương diện tương đối mà nhìn thì mọi sự, dù nhỏ nhặt nhứt cũng xuất phát từ cái đó, từ cái duy nhất và không hề rời nó”. Gyalwa Karmapa bắt đầu khai thị như thế. Khi tướng trạng của ngài hòa tan trong Không, nơi mà dạng đó xuất phát, thì Phật tính trong tâm của Trulshik thức tỉnh, thức tỉnh từ một giấc mơ.

Kể từ đó thì Lạt-ma Trulshik không thấy có sự khác nhau giữa giấc mơ ban đêm và giấc mơ ban ngày, thứ mơ mộng làm người ta tưởng rằng có một cái tôi riêng rẽ, hiện diện tách riêng khỏi một cái toàn thể. Tất cả những cái vô thường này chỉ nằm trong một giấc mơ lớn mà ngày nào đó mỗi chúng ta sẽ thức tỉnh cho dù con đường đến đó còn có khó nhọc bao nhiêu đi nữa.

51. Nhà khổ hạnh và người nuôi chó

Tu sĩ khổ hạnh Kukkuripa Ấn độ sống hàng chục năm trên một hòn đảo của một cái hồ nhiễm độc. Trần như nhộng, râu tóc mọc dài, gầy như que củi, ông sống trong một hang đá với khoảng năm trăm con chó. Ông thương yêu đàn chó hết mực và xem chúng là thiên nhân hiện hình. Nhiều người tầm đạo tìm đến ông, đến người nuôi chó và xin ông vài lời khai thị cũng như xin truyền ít năng lực. Kể cả Marpa, “nhà dịch thuật”, cũng được ông điểm đạo. Về sau, lúc đắc đạo Marpa ca tụng ông như sau: “Thầy dạy ta đã chỉ rằng, ngay cả những xúc động thấp kém nhất của loài xúc sinh dục giới cũng còn quý hơn cả vàng ngọc, vì thật ra chúng là – như tất cả mọi thứ khác – đã vô thủy vô chung hoàn toàn thanh tịnh, không hề uế nhiễm, không hề xấu ác. Tất cả đếu là hiển hiện của một cái tuyệt đối, bất sinh bất tử, của Đại Ấn quyết, của ánh sáng rực rỡ của Chân như; ngay cả bóng tối cũng chính là ánh sáng”.

Có một tu sĩ khổ hạnh nọ tên là Nagpo Tschopa thực hiện được nhiều tiến bộ, đạt được một số khả năng siêu nhiên. Ông giữ nguyên tắc bất di bất dịch từng ngày là sống loã thể, đi công nhiên ngoài phố để chứng tỏ mình đã rũ bỏ mọi ràng buộc thế gian. Lần nọ, Nagpo Tschopa gặp một bà dệt vải ngoài chợ nhìn mình từ đầu đến chân và hỏi: “Nào, nhờ tu tập, ngài đã đạt thần thông nào chưa? Một tu sĩ không thần thông cũng như cây không có trái. Phép tu của ngài sinh ra quả nào nói thử.”

Nagpo Tschopa liền đưa mắt nhìn một cây đang trổ hoa bên vệ đường. Trong chớp mắt, cây liền rụng hết lá. “Thân của ta trần trhuồng, không che đậy”, Nagpo Tschopa nói, “cũng thế, tâm của ta đã thoát khỏi tâm dục và vô minh.” Bà dệt vải xem ra không thán phục: “Nếu đã hủy phá được thì ngài cũng có cách biến chúng thành lành lặn được.” Vừa nói xong, bà dẹp đồ nghề dệt vải qua một bên và đưa tay chỉ các ngọn lá nằm rải rác. Trong chớp mắt, lá bay về lại cây và cây tiếp tục trổ hoa. Người tu sĩ cúi mình thán phục khả năng bà dệt vải và đi tiếp. Trong mùa trăng sau, Nagpo Tschopa thực hành một buổi lễ thệ nguyện phức tạp. Ông đem mọi thứ cúng dường như thực phẩm, trái cây và vàng bạc lên bàn thờ, lạy cả trăm lần khắp tám hướng. Sau đó ông nhập định và cầu thiên nhân xuất hiện. Như bao lần, thần Dakini chủ trí tuệ xuất hiện dưới dạng một nữ thần. Nhưng thay vì thu nhận đồ cúng dường, thần Dakini cho hay tối nay thiên nhân bận việc khác: “Tối nay chúng ta bận phải đến với người tu sĩ nuôi chó, đồ cúng dường của vị ấy cao quý hơn cả.” Nói xong, nữ thần rút lui ngay. Nhưng người tu sĩ nọ không dễ như thế, ông kêu lên nóng nảy: “Tên quái vô kỉ luật đó có gì mà ta không có gấp ngàn lần hơn? Ta là người áp dụng gắt gao mọi qui định của Mật tông cũng như hành trì mọi lễ nghi!”

Bỗng nhiên nữ thần Dakini lấy dạng của người đàn bà dệt vải và dùng giọng của bà đó mà nói: “Đúng như thế đó, hỡi con người lập dị! Ngươi là người bám vào qui định. Ngay cả sự lập dị của ngươi cũng bị qui định. Kukkuripa không hề có qui định nào cả. Y không có dự định, không có chủ trưong gì cả. Không một kế hoạch nào làm mờ mắt y, y không nhai lại điều gì do ai dạy bảo cả. Và vì y không có đạo sư nào khác hơn chính là đạo sư nằm trong người y, chúng ta lại cần tìm đến y hơn cả”.

Trước khi nhà đạo sĩ khổ hạnh kịp phản đối điều gì, nữ thần Dakini đã biến mất để cùng với Kukkuripa hoan hỉ và năm trăm con  chó hòa nhập với ánh trăng.

52. Phép chuyển hóa tâm thức

Ngày nọ, một Lạt-ma đi du hành qua một vùng cô quạnh, đầy gió lạnh tại miền Bắc Tây Tạng. Nơi đó chỉ có ít gia đình sống với đàn trâu, xa tất cả mọi tu viện, đạo tràng. Vị Lạt-ma đi bộ, toàn thân lẫn trong đống áo quần xác xơ, ăn tạm lá cỏ qua ngày. Thỉnh thoảng có vài kẻ chăn cừu ném cho vài miếng thức ăn.

Ngày nọ, vị Lạt-ma thấy một người đàn bà chạy từ trong một lều đá ra, kêu ngoắt dữ dội. Ông dừng lại và người đàn bà hỏi: “Ông chỉ là một kẻ ăn xin thông thường hay một Lạt-ma có tu học?” Người khách trả lời dửng dưng: “Cả hai đều không.” Người đàn bà bắt đầu lên tiếng khóc: “Cha tôi vừa mất và chúng tôi đang cần một vị Lạt-ma biết phép chuyển tâm thức để đưa thần thức ông vào cõi Tịnh độ. Lúc tôi mới thấy ông thì tưởng ông đến có chủ ý, tưởng có người đã đưa ông đến đây để giúp gia đình chúng tôi! Thôi hãy vào nhà đi và tìm cách chỉ cho hồn vía cha tôi biết phương hướng rời bỏ đời sống trần gian này mà đi vào cõi Phật”.

“Tiếc thay tôi chỉ là kẻ còn non tay”, vị Lạt-ma nói thật, “bản thân tôi cũng chỉ là kẻ tìm đạo, còn học tập chính kiến và tìm cách định tâm. Chưa ai dạy tôi cách chuyển thần thức người chết cả, đó là phép tu ẩn mật, là một nghệ thuật, có lẽ là nghệ thuật lớn nhất trên cõi đời này. Tôi còn chưa biết đọc biết viết và mới học thuộc vài bài Kinh thôi”.

Trước cặp mắt khẩn cầu của người đàn bà, Lạt-ma nói thêm: “Nhưng tôi có được một khả năng đặc biệt, đó là lòng tin kiên định và tha thiết nơi sức mạnh của Lạt-ma Karmapa, bà có biết ngài không? Đó là một vị Phật sống, ngay phút này đang ở trên trái đất này, lấy dạng của một người Tây Tạng, mặc áo của một Lạt-ma. Nhưng đó là một vị Phật sống”.

Người đàn bà nói: “Thế thì cầu ngài đi để tiếp dẫn cho cha tôi”. Bà cầm tay Lạt-ma kéo thẳng vào nhà, cả gia đình đang ngồi quanh xác chết.Tại giường, vị Lạt-ma quì xuống và ông không biết làm gì hơn là giơ hai tay lên và gọi: “Karmapa Kjenno, Karmapa, hãy nghe!”, ông cũng đọc hoài câu đó, cứ như đọc thần chú.Với làng thiết tha và sự tôn kính sâu xa từ trái tim mình, ông kêu gọi sự cứu độ của Karmapa dễ cả trăm lần. Sau lần thứ một trăm thì như có ai bảo, ông lấy tràng hạt bằng gỗ gõ nhẹ vào đầu người chết và ra lệnh thần thức người chết hãy kiếm cõi Tịnh độ Dewachen để tái sinh tại đó và nhất quyết không vào bất cứ cõi nào khác, hữu sắc hay vô sắc.

“Karmapa Kjenno, Karmapa Kjenno”,  Lạt-ma gõ nhẹ tràng hạt, ra lệnh thần thức, nhân danh Karmapa mà tái sinh trong cõi Phật, không dừng lại với bất cứ hiện tượng nào, “Karmapa Kjenno”, cứ thế ông niệm hàng giờ.Trời đã tối, khi những kết quả đầu tiên của phép chuyển hóa tâm thức (người Tây Tạng gọi là Phowa) bắt đầu rõ nét thì một mùi thơm dịu xuất phát từ đầu người chết và tóc trên đỉnh đầu bắt đầu rụng bớt và đầu người chết dường như sưng lên, ngay tại chỗ thỏm đầu. Ai cũng biết, đó là dấu hiệu chắc chắn khi thần thức thoát ra khỏi thân và người cha đã về lại đất Phật với đầy đủ sự tỉnh giác.Tất cả mọi người đều vui mừng, thậm chí reo lên, sung sướng quên mình như ta thường thấy nơi những con người đơn giản. Họ chúc tụng vị Lạt-ma, cảm tạ và xin ông nán ở luôn tại vùng đó. Họ sẽ xây cho ông một căn nhà đá, xin ông trở thành đạo sư của toàn làng để có thể trao truyền phép chuyển tâm thức Phowa, cùng với một đại sư Karmapa vô hình.Vị Lạt-ma ở lại với dân làng một thời gian và mọi người đều tin vị đại sư Karmapa chính là một cánh cửa vào đất Phật Dewachen dù ngài không trực tiếp hiện diện. Cả gia đình đó đều cầu khẩn tới ngài vì họ biết rằng cõi Dewachen không phải đợi người ta lúc chết mới mở mà ngay tại đây và bây giờ, ai cũng có thể tìm kiếm được.

Một ngày nọ, tin tức bay tới miền Bắc Tây Tạng xa xôi: vị Karmapa hiện đang ở miền Nam và đang truyền bá giáo pháp. Vị Lạt-ma nọ nghe tin, vội vã từ giã dân làng và đi về phía Nam.Vài tháng sau, ông quì trước Gyalwa Karmapa và nhận phước lành của ngài, sau lưng là một hàng dài tín đồ, Tăng sĩ, tầm sư từ mọi nơi của đất Tây Tạng. Ông nhìn thẳng vào mắt Karmapa không nói một lời. Trên mặt vị Phật sống bỗng xuất hiện một nụ cười rạng rỡ. Ngài cúi mình, nói nhỏ vào tai vị Lạt-ma du sĩ: “Lần đó trên miền Bắc, làm phép chuyển tâm thức cũng mệt lắm nhỉ?”Sau đó Karmapa lấy vòng cầu nguyện đeo cổ, cầm trên tay, gõ vài cái vào đầu Lạt-ma và nói thêm: “Nhưng lần đó, chúng ta cũng làm được việc rồi… Tất cả đều tốt cả chứ?”

“Tốt cả”, Lạt-ma du sĩ trả lời, nước mắt đầy tròng. Bây giờ ông đã biết rõ, một tâm thức giác ngộ như Karmapa không hề chịu sự ngăn ngại của thời gian hay không gian, vượt qua mọi trở ngại tưởng chừng có thực, để gần học trò của mình, dù người học trò đó đi tới cõi nào, sắc giới hay vô sắc giới.

53. Đạo sư đốt trầm

Cách đây vài ngàn năm có một vị thánh tên là Vipasyi, sống tại Ấn Độ. Lúc còn tại thế, ông đã ngộ Niết-bàn và từ đó không hề quan tâm đến đời sống vật chất, thân thể. Ông không quan tâm mình đói hay no, không cần biết mùa mưa có mái nhà che thân hay không, cũng không cần biết mình đang sống hay chết. Lúc giác ngộ, ông đã đạt điều đáng mơ ước nhất và vì thế ông ngồi yên trên một tảng đá, không kể mưa nắng, không động đậy một ngón tay ngón chân, không chịu làm gì cả.

Từ Vipasyi phát ra một năng lức êm dịu, một trí huệ rực sáng và lòng từ bi mà ai cũng cảm thấy, nên có nhiều người đến với ông. Vì Vipasyi cho phép ai cũng được tới gần, không phân biệt tốt xấu hay dở, nên nhiều người quý trọng ông, dâng tặng nhiều thứ như thực phẩm, y phục, thậm chí cho cả lâu đài để ở, cho nên cuối cùng cái gì ông cũng sẵn có mà không cần phải làm gì cả.Một thương nhân giàu có tên Njemy đến với Vipasyi, mang theo thức ăn hảo hạng và nói: “Con xin mời ngài và các đệ tử ở trong nhà con ba tháng, mỗi ngày xin cúng ba bữa ăn nóng. Xin hãy cho con làm điều nhỏ mọn này, vì được nhìn vào mắt ngài thì cái gì con cũng sẵn sàng cả”.

Vipasyi, người vô sở cầu, gật đầu chấp nhận. Lúc đó có một vị sứ giả của nhà vua vừa đến  và nói: “Khoan đã, hỡi ngài Vipasyi. Hoàng thượng gửi con đến để đưa ngài vào cung điện. Nơi đó ngài và hàng trăm đệ  tử có thể vui sống và thiết lập cả một tu viện nếu ngài muốn. Ngài sẽ được tiếp đãi một cách vương giả, ăn mặc sang trọng. Hãy đi với con, kỵ mã đang chờ”.Vipasyi mỉm cười lắc đầu: “Hãy báo Hoàng thượng, ta xin cảm ơn, nhưng ta hứa sẽ ở với thương gia nọ ba tháng rồi. Hãy báo rằng, lòng hào hiệp của nhà vua sẽ tác động lại tốt đẹp, không kể giúp cho ta hay ai khác”.Nghe lời này, vua có cảm giác bị thương nhân nọ cạnh tranh. Ông gọi các cận thần và hỏi: “Có một thần dân nhanh tay hơn ta. Tên thương nhân Njemay đã lấy mất cơ hội được phục vụ bậc giác ngộ Vipasyi, khiến ta mất dịp vun trồng công đức. Ta phải làm sao bây giờ?”

Một cận thần gian xảo hiến kế: “Thần có một giải pháp rất hữu hiệu. Với sự đồng ý của bệ hạ, thần cho cấm ngay việc buôn bán củi gỗ. Tên thương nhân nọ sẽ không có củi đâu mà nấu bữa ăn nóng của nó. Còn hoàng gia chúng ta sẽ sẵn củi lửa, nấu ăn cho cả đạo quân còn được”.Vua nói: “Thật là ý kiến hay. Ta chỉ lo, không biết làm như thế có tạo được công đức hay khong”. Các vị thần khác cũng lắc đầu lo ngại. Một vị khác nói: “ Tại sao chúng ta không làm như Vipasyi căn dặn, hãy tìm một vị đắc đạo khác, ta sẽ cúng dường cho vị đó thì công đức nhà vua cũng được vun bồi vậy”.Cuộc thảo luận diễn ra sôi nổi nhưng tính lại trong cả nước chỉ có Vipasyi xem ra là đắc đạo nhất, nên cuối cùng ngay đêm đó vua ban lệnh cấm không được buôn bán củi gỗ.

Một thời gian sau, khắp nơi đều đồn đại rằng nhà vua đã mất trí mới ra lệnh cấm buôn bán củi gỗ. Và mọi người cũng nhận thấy thấy rằng chỉ có thương nhân Njemay là bị binh lính nhà vua canh gác cẩn mật. Khắp nơi, người ta cứ đốt lửa nấu ăn như thường, chỉ có Njemay và khách mời là Vipasyi phải ăn rau cải sống. Đối với vị Phật đắc đạo này thì điều này không đáng vui, chẳng đáng buồn; ông không có ý kiến gì cả, nhưng Njemay lại có sáng kiến độc đáo. Njemay ra chợ và mua của một bà già toàn bộ trầm hương. Chồng bà này chết trước đó không lâu. Ngoài ra, ông còn đặt hàng, nhờ bà cung cấp thật nhiều trầm, bao nhiêu cũng được. Ông sẽ mua hết trầm đến hết đời của bà và trả giá rất cao. Bà già hầu như muốn khóc trước hạnh phúc to lớn này và ca tụng tên tuổi Njemay, đến nỗi các thương nhân khác cũng tụ tập quanh Njemay và không tiếc lời ca ngợi ông.Bị binh lính nhà vua theo dõi với cặp mắt nghi ngờ, Njemay về nhà và dùng lửa trầm hương nấu ăn. Ông đốt từng thỏi trầm lớn và nấu một bữa ăn tuyệt diệu, dọn ra trong lá chuối cho Vipasyi và đệ tử. Sau khi đọc lời cầu nguyện dùng bữa, Njemay nói: “Thật là một vinh dự cho con, được phục vụ bữa ăn cho đạo sư. Nhưng con mong tới ngày, không phải chỉ dọn bữa mà ngày đó đạt được chính tri kiến, và giúp được mọi loài hữu tình chỉ với sự hiện diện và trái tim nhân hậu của mình”.

Ngày qua ngày, khói trầm hương bay khỏi bếp của Njemay, truyền đi khắp nơi, lan cả qua thành phố bên cạnh, ngày nay trở thành một thành phố hành hương.Khi nhà vua nghe tiếng lành của thương nhân này, ông nghĩ lại và cho vị cận thần thôi việc, người đã khuyên răn ông những điều không hay. Ông  cũng nhường lại ngôi cho con, không trị vì nữa. Còn Njemay thì học hỏi được rất nhiều nơi vị Phật đã sống trong nhà ông ba tháng và được phục vụ các bữa ăn nóng. Njemay được tái sinh trong một cõi trời mang tên là A-la-hán Anga, “đạo sư đốt trầm”. Tranh tượng thường vẽ ngài trên tay cầm trầm hương. Người ta nói rằng ai thấy hình ngài, đụng tới tượng ngài hay chỉ nhắc đến tên ngài là đã được lợi ích. Kẻ nào tha thiết theo con đường tu học mà ngài đã đề ra, kẻ đó sẽ luôn luôn hưởng một mùi trầm nhẹ nhàng.

54. Gặp gỡ Bồ-tát trí tuệ

Yahden Tulku là tái sinh của một Lạt-ma Tây Tạng, trở lại trần gian để  hoàn thành việc tu học. Trong đời trước, ông đã thông thạo kinh điển Ấn Độ, Tây Tạng và đã được điểm đạo. Bây giời ông theo học môt vị đạo sư để tiến thêm một bước nữa trên đường đạo. Khi nhập diệt, vị đạo sư nọ để lại cho ông môt cuốn bí lục (50) và môt bản đồ chỉ đường đến một ngọn núi với năm đỉnh cao miền Tây Trung Quốc. Ngọn núi này là Ngũ Đài Sơn (33), được xem là trú xứ của Bồ-tát Văn-thù, vị Bồ-tát chủ trí tuệ. Văn-thù có hàng ngàn tên và ngài cầm lưỡi kiếm bén cắt màn tối của vô minh. Người ta nói rằng, ai thành khẩn đến Ngũ Đài Sơn thế nào cũng gặp ngài, trong một dạng hình nhất định, đó là điều chắc chắn.Tuy thế chỉ có những người có căn cơ, với cặp mắt trong sáng, mới nhận ra được Văn-thù. Vì thế Yahden trên đường đi Trung Quốc, luôn luôn thiền định và chính niệm. Nếu không thiền định thì ông cũng đọc danh hiệu của Văn-thù hàng nghìn lần.

Sau sáu tháng, Yahden Tulku mới tới Ngũ Đài Sơn. Sau đó ông leo 108 bực thang để lên tới đền thờ đức Văn-thù trên đỉnh núi. Ba con chim đậu trên bảo tháp trắng như tuyết thờ tóc Văn-thù. Chim kêu réo đòi thức ăn, xung quanh không một bóng người. Trên đỉnh núi hầu như tĩnh lặng, không có dấu hiệu nào của thiên giới, vị lạt-ma miệng tụng niệm từ từ leo lên đỉnh.Trên cao, một con chó già nằm phơi nắng. Nó đã quá già. Không còn đủ sức để sủa. Mái điện thếp vàng chói ánh mặt trời vào mắt Yahden như một tấm gương. Ông nhìn xuống bàn chân mình đã sưng lên vì cuộc hành trình.Trong điện bỗng vang lên ba tiếng chuông, có một vị đệ tử nào của Văn-thù vừa đánh lên. Như được tiếp thêm sức mạnh. Yahden lại tiếp tục leo lên.Khi sắp lên bậc cuối cùng bỗng một người ăn xin cụt chân xuất hiện. Lão nhìn Yahden bằng cặp mắt đầy gân máu, bò xuống bậc thang và thò tay ra xin bố thí.“Đáng tôn thờ thay, cái duy nhất trong thiên hình vạn trạng”, lão ăn xin nói, nhưng xem ra lão không hiểu mình nói gì. Yahden vội lấy một ít thức ăn trong túi cho lão. Ông thấy một nụ cười rạng rỡ trên nét mặt người ăn xin mà từ ngày thầy mất đến giờ ông chưa thấy lại.“Đáng tôn thờ thay, cái duy nhất trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng trong cái duy nhất. Thứ nhỏ mọn này ta không cần đâu”, người ăn xin kêu lớn và vẫn cười rạng rỡ, nụ cười làm vị Lạt-ma bỗng tràn đầy hi vọng và tin tưởng. “Ta không can thứ nhỏ mọn này, ta cần tâm thức trọn vẹn của ngươi”.

Bây giờ thì Yahden biết rõ ai trước mặt mình. Trong phút giây đó thì hiện thân của Văn-thù đã biến mất.Yahden nhìn quanh và nhảy từng bực thềm. Một lần nữa chuông điện lại gióng lên 108 tiếng. Yahden không biết làm gì hơn là quì lạy bay nhiêu lần trước tượng thờ Văn-thù. Trên mái điện chim kêu chiêm chiếp như muốn cười nhạo Yahden.

55. Tursi về nhà

Khenpo Yonga là viện trưởng viện Gemang ở Kham thuộc Tây Tạng và sống vào thế kỷ thứ 19. Trước khi nhận nhiệm vụ này, ông đã được nhiều đạo sư điểm đạo trong đó được vị đại sư Patrul Rinpoche, một đại sư xuất chúng của trường phái Đại Thành hướng dẫn. Đại Thành là giáo pháp dạy cách trực nhận Chân như, vì vậy thực ra cũng không thể gọi là giáo pháp, mà đúng hơn là một kinh nghiệm đảo lộn tận gốc rễ, chỉ có hành giả thấy cái điều mà thật ra chẳng có gì bí ẩn cả.

Sau khi đắc dạo, Khenpo Yonga có nhiều học trò, phần lớn là các vị Lạt-ma thông thái hay các bạn đồng tu nam giới. Cũng có nhiều chuyện đáng kể xung quanh các vị này nhưng không có chuyện nào kỳ lạ bằng chuyện của Tursi.Tursi là một cô gái đến nghe Khenpo giảng pháp. Sau đó nàng hay đến tu viện Gemang nghe giảng rồi một ngày kia nàng mang một cái lều đóng trước cửa tu viện, ngủ tại đó để sáng hôm sau kịp thời nghe giảng đạo.Nàng rụt rè đứng xa trong điện, trong lúc các bạn nam giới tranh nhau đặt câu hỏi để được Khenpo Yonga hay Tulku Mura trả lời mà các vị này cũng là một đạo sư đắc đạo. Tursi quá rụt rè đến nỗi các Lạt-ma hay hỏi han, chuyện trò hóm hỉnh để làm cho nàng mạnh dạn thêm. Nhưng mỗi lần như thế nàng lại khóc, làm ai cũng nghĩ nàng quá yếu đuối hay ít ra nàng cũng không có đầu óc hóm hỉnh khôi hài. Nhưng nhờ lòng thiết tha kiên trì với hai đạo sư Khenpo và Tulku Mura mà nàng vẫn tiếp tục học hỏi trong tu viện được.

Một buổi sáng nọ, lúc Khenpo Yonga vừa giảng đến Tính Không mênh mông vô hạn thì bụng Tursi đầy hơi phát ra tiếng. Tất cả mọi người đều co người lại mà cười về cách trả lời bình phẩm của con người đối với đạo pháp. Tursi tay ôm mặt khóc, xin Khenpo tha tội. Vị đạo sư nhân từ tha thứ, lại khuyên rằng muốn hiểu và truyền bá đạo pháp cần có một tâm hồn khoan khoái, không vướng điều gì cả. Ngài lại còn hóm hỉnh cảm ơn Tursi về cách đóng góp ý của nàng cho buổi sáng.Sau buổi đó như thường lệ, Tursi rút vào núi để tham thiền. Tu viện không tiếp tế hay cung cấp cho nàng thực phẩm. Thế nhưng nàng cũng chẳng cần cả gia đình giúp đỡ, vốn cha nàng là một thương gia giàu có. Nàng hầu như thoát ly khỏi gia đình, mỗi lần về thăm nhà, nàng chỉ đóng lều ngay trước nhà mà ngủ.

Một lần nọ trở về, nàng tắm sông trước khi vào nhà, lần đó có một người chăn cừu thấy nàng tắm. Nàng rửa sạch thân thể theo đúng nghi lễ. Mẹ nàng nghe nàng tắm trần truồng ngoài sông lấy làm lo ngại, bảo: “Con ta sống quá lâu xa gia đình, thật đáng lo cho lối suy nghĩ của nó”.Cha mẹ nàng nghiêm khắc hỏi chuyện: “Con nghĩ sao khi mọi người biết con tắm ngoài sông, mà không về nhà để tắm”. Tursi trả lời nhẹ nhàng: “Hôm nay con tẩy sạch thân thể vì sẽ vào nhà cha mẹ lần cuối”.Mẹ nàng ngạc nhiên khắc hỏi chuyện: “Con bảo sao, hôm nay con vào nhà sau bao năm không chịu vào, chuyện gì thế?” Người cha vui mừng: “Con có lý do của con. Bao nhiêu năm nay ta không mong gì hơn là con trở về nhà”.

Tursi vào nhà, ở với gia đình suốt ngày. Tới tối nàng rút trong túi ra một cuốn sách, đặt lên bàn thờ. “Sách này chứa nhiều lời khai thị quan trọng. Ngoài ra sách này đã được Khenpo Yonga và Tulku Mura tự tay ban phép, nó chứa đựng nhiều năng lực huyền bí”.Cha mẹ nàng đưa mắt nhìn nhau vì Tulku Mura vừa mất trước đó vài ngày, hai ông bà muốn giấu tin này sợ nàng đau buồn. Tursi thấy cái nhìn đó và nói: “Con đã biết Tulku Mura nhập diệt cách nay không lâu, chuyện đó con không thể không biết. Cha mẹ sợ con biết chăng? Cha mẹ chưa biết thực tế thế nào. Tulku Maru sống hay chết hoàn toàn như nhau. Ngài hiện diện trong tâm thức sâu kín của con”.

Cha mẹ nàng gật đầu, hai ông bà biết lời này nghe ra là phải nhưng  họ chưa thâm hiểu. Tulku nhắc lại về cuốn sách: “Không có gì quý hơn cuốn sách này. Hãy để trên bàn thờ và quỳ lạy mỗi ngày để nhận được phước lành từ đó. Trước khi con ra đi, cha mẹ mỗi người hãy để sách lên đầu và tha thiết cầu nguyện, cha mẹ sẽ thấy không có gì mà không thực hiện được”.Cha của nàng vui vẻ làm ngay, nhưng mẹ nàng lấy cớ đã nhận phước lành của hai vị đạo sư rồi nên không muốn làm. Người cha thuyết phục, bà mẹ mới chịu làm. Sau đó Tursi đặt lại cuốn sách trên bàn thờ, với một ấn quyết khó hiểu. Nàng ra khỏi nhà ngủ trong lều.Trong đêm đó, tuyết rơi mạnh. Sáng hôm sau, cha mẹ tìm thì nàng đã biến mất. Cha nàng tìm mãi chỉ thấy áo trong áo ngoài của nàng. Cuối cùng, trên một ngọn đồi nay tuyết, người ta thấy nàng ngồi nhập định, trần truồng, tay bắt ấn của nữ thần Tara. Nàng đã chết.Người cha lấy làm lạ rằng mình không hề buồn rầu mà lại có một niềm cảm khái vô biên. Con gái của ông đã chết với ý thức toàn vẹn và đã vượt ra khỏi vòng tử sinh, nàng ngồi đó với khuôn mặt khinh an và tỏ rõ khả năng của một kẻ đắc đạo, như kinh sách thường mô tả.Xét kỹ thì người ta thấy vùng ngực nàng còn hơi ấm trong lúc tay chân đã lạnh giá, đúng y như trong kinh sách Mật tông Tây Tạng viết. Đó là dấu hiệu của sự hòa lẫn thần thức với Linh quang rực rỡ, ánh sáng này là hiện thân của Pháp thân xuất hiện lúc thần thức vừa ra khỏi tấm thân xương thịt. Người cha để nguyên xác con ngồi như thế trên đồi.Đúng lúc ấy, Khenpo Yonga đi cùng với một nhóm người đến một tu viện gần đó. Người cha bắt gặp đoàn này và kể chuyện đêm qua. Khenpo vội đến nơi thì Tursi đã ngồi trong tuyết trắng hơn 12 tiếng, như một tượng Phật. Tới bây giờ mà da dẻ của nàng còn trắng hồng hào. Vị đạo sư và nhiều dân làng dựng lều quanh đồi để theo dõi. Đến ngày thứ ba thì xác nàng gục xuống và không còn dấu hiệu gì của hơi ấm và sức sống. Khenpo Yonga nhờ các Tăng sĩ cho lập một bản thảo và bia đá tại chỗ, thường thì nghi lễ này chỉ dành cho các Lạt-ma cao cấp nhất.Cuối cùng Khenpo Yonga chủ trì buổi lễ hỏa táng và giải thích: “Thật ra thì từ ba năm qua, Tursi đã chuẩn bị nhập tâm thức mình với Pháp thân. Bây giờ chắc chúng ta đều biết, sự ngây thơ của nàng không phải là sự yếu đuối. Chỉ ai hoàn toàn tự nhiên và trong sáng mới có thể nhập được với Pháp thân. Nàng chết tức là nàng trở về nhà. Đáng ca ngợi thay, hiện thân của Tara, bạn đồng tu đã giác ngộ của chúng ta. Hãy đi theo nàng!”

Trong tro của Tursi, các vị lạt-ma tìm thấy một đốt xương sống nguyên vẹn, có hình như nàng ngồi trong dáng điệu của nữ thần Tara sắc trắng. Từ đó, đốt xương này được thờ trong tu viện Gemang. Song song người ta lấy tro nàng bắt thành một bảo tháp tí hon hình cái chuông và cũng được thờ tại đó.

56. Trừu, bò và dê xin qui y

Ngày xưa có một con trừu mập mạp, cùng với một con bò, một con dê và một số thú vật nuôi lấy thịt khác, đang ăn cỏ trong sân một tu viện. Đúng lúc đó thì tu viện có khách: một đoàn Lạt-ma ăn chay từ miền Nam đến nay và được tiếp đón niềm nở.Sau đó, các vị khách nhận ra rằng trong tu viện này các vị Tăng sĩ ăn thịt, như thế là không giữ đúng luật cấm sát sinh rồi. Cuối cùng hai bên tranh luận kịch liệt, từ giờ này qua giờ khác. Con trừu tò mò đứng nghe bên cửa sổ.

Một lão lạt-ma chủ nhà vừa nêu ý kiến: “Vùng miền Bắc lạnh lẽo này không trồng trọt gì được, chúng tôi sẽ chịu chết đói nếu chỉ sống bằng cây cỏ. Đúng là đức Phật không cho ta giết hại, nhưng nay chúng tôi chỉ ăn thịt thôi”. Lạt-ma của phe kia liền đáp: “Nhưng các vị cũng thấy rằng nếu không giết động vật thì thịt đâu mà ăn!” Vị Lạt-ma ăn thịt phản đối: “Thế thì các vị mang áo quần giày dép cũng bằng lông thú này. Đó là không kể các vị mặc quần áo sang trọng bằng tơ lụa, trang hoàng bàn thờ cũng bằng tơ lụa. Bộ tơ lụa không phải là nước mắt của hàng trăm kén tằm hay sao? Rồi các tràng hạt bằng ngà voi của các vị, bao nhiêu voi chết cho đủ để các vị làm tràng hạt?” Lý luận này buộc các vị Lạt-ma ăn chay phải chịu thua. Phấn khởi, các vị ăn thịt nói tiếp: “Các vị hãy nghĩ đến vô số côn trùng phải mất mạng dưới lưỡi cày bừa. Hay lúc tưới tiêu, hay lúc gặt hái, để cho chúng ta vài can gạo hay ít hoa quả. Nên thà hy sinh mạng sống của con vật duy nhất để duy trì đời sống của nhiều sinh vật còn hơn là để hàng triệu tỉ sinh linh khác chết vì một miếng bánh mì?”

Con trừu nghe đến đây lấy làm lo ngại. Tất nhiên nó không hiểu hết toàn bộ cuộc tranh cãi này, nhưng tâm lo sợ của nó làm bật lên tiếng kêu be be. Ngoài tiếng trừu kêu, con bò con dê cũng chạy lại và đứng dưới cửa sổ nghe ngóng.Một Lạt-ma nói: “Nỗi đau khổ của loài hữu tình thật vô biên. Phần  lớn người ta không ai hiểu được tâm thức thú vật khi chúng bị giết để ăn thịt. Nhưng con người phải chịu mọi hậu quả nó gây ra, dù nó không hiểu hết những gì nó làm”. Đến đây thì một Lạt-ma trẻ tuổi đến bên cửa sổ, lẩm nhẩm: “Con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng”. Các con vật đã nghe câu chuyện này nhiều quá và cảm thấy phần nào yên tâm với lời này. Các con bò, trừu, dê tự nhủ: “Con xin qui y với kẻ nào không sát hại con”. Chúng đã nghe nhiều lời thề nguyện và bộ óc đơn giản của chúng thấm nhuần đôi chút.

Sau đó các vị Tăng ăn chay ra đi. Vị Tăng trẻ tuổi nọ bước ra sân, nhưng các con vật bây giờ không sợ sệt gì cả. Bên cạnh vị Tăng đó có ông con trai nhà nông đi cùng là người chuyên giết thịt, thế nhưng các con vật đó không lo lắng gì.Vị Lạt-ma  lầm bầm: “Án ma ni bát mê hồng”, mắt nhìn đàn thú dò xét. Nghe sáu tiếng này, các con vật lấy làm yên dạ vì đó là thần chú đại bi, đó là một tư tưởng vĩ đại, xuyên suốt mọi thứ.Con trừu tự nhủ: “Cầu cho các vị an lạc, nhờ các vị mà ta được qui y Tăng, qui y với các đệ tử của Phật”. Bỗng nhiên vị Tăng tuổi trẻ nọ đi thẳng vào con trừu và quay người đi. Tên đồ tể liền chụp con trừu, cột bốn chân, lôi đi làm thịt.Con bò và dê hoảng hồn. Chúng bắt đầu nghi ngờ vị Lạt-ma miệng tụng "Án ma ni bát mê hồng”, chúng bắt đầu nghi ngờ pháp Phật. Sau một lúc, con bò nghĩ lại, tự nhủ: “Tên trừu có lẽ quá hấp dẫn vì bộ lông và thịt ngon của nó. Nó cũng đâu xứng đáng được qui y Tăng. Chắc vì thế mà vị Lạt-ma nọ phải hy sinh nó. Còn ta nay chắc không nỗi nào, ta đã giúp các vị cày cấy năm này qua năm khác. Ta không qui y Tăng đâu, trong Tăng cũng có đồ tể. Ta qui y Pháp, giáo Pháp của đức Phật”.

Hồi sau, vị Lạt-ma nọ lại ra sân, lần này ông chỉ thẳng vào con bò, miệng niệm chú đại bi không ngớt. Con bò bị kéo đi làm thịt, kêu la thảm thiết. Con dê bắt đầu suy nghĩ vè số phận của mình, về giáo pháp do các vị đang trao truyền.“May thay, ta là kẻ hoàn toàn vô dụng. Sữa của ta thì cạn, da ta đầy sẹo, thịt ta đắng, đầy gân. Kẻ nào vô dụng, kẻ đó may mắn. Ta xin qui y Phật, ngài là người cứu độ tất cả chúng sinh, không phân biệt hữu dụng hay vô dụng”.Lạt-ma nọ lại ra sân và lần này tới phiên con dê. Trong nhà làm thịt, ba con vật kêu la thảm thiết làm một con dơi phải tỉnh giấc ngủ. Dơi treo mình trên sàn nhà, nhìn xuống đất đầy máu thịt và tự nhủ một cách tỉnh giác: “Phật tính có sẵn trong ta là cái duy nhất cần qui y”.

Sau đó dơi nhắm mắt ngủ tiếp.

57. A-đề-sa giác ngộ

A-đề-sa(Atisha) là con trai một lãnh chúa, sống trong một vương quốc tí hon tại miền Đông Bangale. Ông sinh năm 980 và khi còn nhỏ đã nằm mơ thấy nữ thần Tara sắc lục hiện ra và nói bằng một thứ tiếng không lời: “A-đề-sa (34), ngươi sinh ra không phải để vướng bận đời sống thế gian. Trong 552 kiếp vừa qua, kiếp nào ngươi cũng tìm kiếm chính quả. Trong đời này ngươi sẽ thành công. Ngươi sẽ giác ngộ và cứu độ vô số kẻ tầm đạo”.

Không bao lâu sau, A-đề-sa thệ nguyện làm Tăng sĩ và theo học với nhiều vị đạo sư thời bây giờ. Đạo sư Mật tông Rahula đưa ông tới mức độ của một vị Acharya (giáo thụ).Người giáo thụ trẻ tuổi này nổi tiếng là một nhà hùng biện, nhưng chàng biết rõ rằng, ăn nói lưu loát và lối suy nghĩ có qui định sẽ không mang lại gì cả, nên chàng lên đường tìm kiếm con đường ngắn nhất dẫn đến giác ngộ. Chàng tự nhủ: "Theo Bồ-tát đạo thì muôn ngàn kiếp sau ta cũng không đắc đạo được. Bồ-tát lúc nào cũng quên mình, chỉ lo tìm ánh sáng giác ngộ noi chúng sinh khác. Nếu thế thì ngàn năm sau ta cũng còn quanh quẩn mãi trong vòng trói buộc của ảo giác”.

Chàng thanh niên cảm thấy buồn rầu mệt mỏi. Chàng nằm trên ghế định ngủ thì bỗng nhỏm dậy, nghe tiếng gọi của đạo sư. Chàng liền vội đến Rahula.Rahula nói: “Nghe này, ta đã gọi con. Bất cứ sự đeo bám nào nơi cái ngã sẽ ngăn con không được hòa với cái đó, với cái vô cùng đó, cái đã sản sinh ra từng cái ngã nho nhỏ. Dù cho con có những thần thông ghê gớm, đầu óc con có phát triển một cách thiên tài, con có thâm nhập thiền định sâu sa, và con có chứng được Niết-bàn, thì chúng cũng chỉ là những con đường vòng, con đường gián tiếp. Con phải ngộ ra rằng, cái gọi là cái tôi đó chỉ là một sự nhầm lẫn của tri thức, sự nhầm lẫn này đã lặp đi lặp lại quá nhiều kiếp rồi. Sau đó con cũng thấy cái ngã nơi người khác chẳng qua cũng là một sự nhầm lẫn của tri thức. Nhận ra thế nhưng cũng đừng có coi trọng nhận thức đó, nếu không con lại rơi vào cái bẫy của ngã. Hãy nhận ra cái vô cùng đó trong mỗi hiển hiện của . Con sẽ thấy ở đâu cũng là nó. Hãy quên cái không thật để cái thật phơi bày. Con chính là những gì con tìm thấy nơi người khác. Hãy thấy ánh sáng giác ngộ nơi người khác, đó là con đường ngắn nhất để đạt giác ngộ của mình”.

A-đề-sa gật đầu và cám ơn vị đạo sư. Thật ra thì chàng đã nghe qua lời này, nhưng khi nghe nó từ lời một vị đạo sư, và biết rằng Rahula đã thấy ánh sáng nơi mình, lòng chàng tràn ngập một tình thương không diễn tả được.

“Ai là người thoát khỏi sự ràng buộc của ảo giác, ai là người nhập Niết-bàn”. Rahula nói tiếp: "Cái người đó, người từ chối chuyện này để chạy theo chuyện kia, người đó chỉ là kết quả tri thức đang tưởng tượng. Hãy nhớ rằng tri thức đó, đang sử dụng một thứ nhị nguyên không bao giờ có thật. Cái an lạc nội tâm đang hiện hữu từng giây phút trong con, trong tự tính của con. Kẻ nào cứ tìm tòi, dòm ngó, kẻ đó đang quên những gì nó đang có, đang cùng nhìn ngó với nó”.

A-đề-sa lại gật đầu hiểu ngộ như ngàn lần trước đó… nhưng lần này, chàng tự thấy thêm rằng, kinh nghiệm là những gì chúng đến rồi đi, và vì thế chúng không phải là cái gì thường hằng, không thể là cái gì đưa đến tri kiến về tự tính.Rahula trả lời: "Không có gì để tìm cả. Tất cả điều đáng làm đang tự xảy ra trước mắt con. Nhưng nếu con cứ muốn tìm một cái gì thì ta cho con lời khuyên như sau: Hãy tự đồng hóa mình với đức Quán Thế Âm và hiểu rằng Ngài và con cũng chỉ là một”.Nhưng tri thức là thứ không hề yên nghỉ, A-đề-sa vẫn cứ tìm con đường ngắn nhất. Chàng thực hiện mọi phép thiền quán và siêng năng lui tới Giác Thành, là nơi Phật Cồ-đàm thành đạo, đi nhiều vòng quanh tháp.Chàng vừa đi vòng thứ một trăm quanh tháp xong và tự đồng hóa mình với Quán Thế Âm thì có hai phụ nữ ở đâu lại gần, ngồi xuống và trò chuyện với nhau.Một bà nói: "Bà nghĩ sao, làm sao đạt được giác ngộ nhanh nhất?” Chỉ nhìn thoáng qua, A-đề-sa đã biết hai người này không phải tầm thường. Khuôn mặt rực sáng như được chiếu ánh sáng và thái độ của họ biểu hiện một sự cao quý, chỉ có thể xuất phát từ một tâm hồn an lạc sâu xa. A-đề-sa biết họ là sứ giả của một thế giới cao hơn, và họ nói với nhau là để cho chàng nghe.Bà kia cười đáp: “Quên mình là con đường ngắn nhất, còn đường nào khác? Bà bỏ quên cái ngã và bỏ quên cái khổ. Chỉ còn một điều duy nhất đáng làm trên thế giới này, đó là hãy hết mình phụng sự người khác”.

Ngày hôm sau, A-đề-sa đang thiền định dưới gốc cây Bồ-đề trong Giác Thành thì một bà già ăn xin xấu xí đến. Một kẻ cùi đi cà nhắc tới và bắt đầu chuyện trò với người ăn xin. A-đề-sa không muốn nghe nhưng nội dung câu chuyện vẫn bám vào óc chàng: người ăn xin giảng cho kẻ cùi nghe rằng, từ bi là con đường thoát khổ. “Hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, thay vì mong chờ người ta thông cảm và giúp đỡ ngươi. Ngươi đang bị lòng ích kỷ của chính ngươi kiềm tỏa”, người ăn xin nói.

“Thật là lạ”, A-đề-sa nghĩ, “ ở đây xem ra ai cũng biết con đường giác ngộ và cũng phù hợp với lời thầy. Chỉ có ta, có ta là còn nghi hoặc”.

Hôm sau, A-đề-sa đi vòng xung quanh bảo tháp ở Giác Thành, tay lần chuỗi hạt, bỗng nghe chim hót ríu rít. Chim vừa đậu xuống tổ được làm bên cạnh đầu gối của tượng Quán Thế Âm. Chàng có cảm tưởng tiếng chim hót như nhắc lại thắc mắc của mình. Và ngước nhìn tượng Quán Thế Âm, chàng nghe nét mặt bức tượng hầu như nói: "Muốn nằm yên trong tự tính, ngươi hãy rũ bỏ mọi vướng mắc, mọi thành kiến. Sau đó, dù nghe qua có mâu thuẫn, ngưoi hãy mang tất cả gánh nặng của chị em ngươi, nếu thấy họ có lỗi thì hãy tha thứ hết cho họ. Chỉ có thế ngươi mới tự giải thoát ra khỏi ảo giác của một cái ta, cái ta tưởng chừng nay tội lỗi”.

A-đề-sa đứng yên như tượng, lòng tràn đầy tri kiến, thứ tri kiến chàng đã biết nhưng lần này không còn một thứ nghi hoặc nào cản đường. Trong tâm chàng bỗng hiện lên một linh ảnh: một người lạ nói với tình thương vô biên. Trên một vùng đất xa lạ, người đó ngồi dưới bóng dừa và giơ tay vẫy A-đề-sa ngồi xuống bên cạnh.Một thời gian sau A-đề-sa lên đường đi Sumatra, một hòn đảo nhiệt đới, nơi đó đạo sư giác ngộ Serlingpa, vị thầy sau cùng đã đợi sẵn. Chàng ở tại đó 12 năm và được Serlingpa truyền đạo cho, thường bằng tâm truyền tâm.Sau khi Serlingpa nhập diệt, A-đề-sa trở thành truyền nhân, nắm giữ một phép bí truyền của Đại Thừa Phật giáo. Đó là phép tonglen, được dịch là chuyển hoá. Đó là phép trong đó hành giả chấp nhận cái năng lực tối tăm, thô bạo của sự ích kỷ của người khác, rút năng lực đó vào trong tâm mình và biến nó thành con đường của lòng từ bi rực sáng. Tonglen, một khi được hành giả thượng căn áp dụng là một phép chữa bệnh vô song, nhưng đó là một phép tu khó khăn nên đến giữa thế kỷ 20 vẫn còn bí truyền.

Trong những năm sau đó, A-đề-sa trở về Ấn Độ và giảng dạy tại đại học Vikramaschila. Hàng ngàn ngưòi đã được gặp ông và còn nhớ ông là người có những tri thức lạ lùng về con người của chính họ. Lời tiên tri của nữ thần Tara đã thành sự thật và một ngày kia, nhà vua Tây Tạng nghe đến tên tuổi và lòng từ bi rộng khắp của ông. Nhà vua cử một đoàn sứ giả qua Ấn Độ, dâng cúng nhiều vàng bạc để mời cho được A-đề-sa qua Tây Tạng.Mới đầu A-đề-sa xin cho được suy nghĩ, nhưng thực tế ông không suy nghĩ gì cả, chẳng tìm lời câu trả lời gì trong tri thức của mình, mà liên hệ với Quán  Thế Âm và Tara để xin các ngài hướng dẫn.Tara bằng cách nói không lời, cho biết Tây Tạng bây giờ và mai sau rất cần sự hiện diện của A-đề-sa. Nhưng Tara nói thêm, nếu đi Tây Tạng A-đề-sa chỉ sống đến 72 tuổi, còn nếu ở lại Ấn Độ thì thọ 92 tuổi. Sau đó A-đề-sa lên đường đi Tây Tạng, không chút ngần ngừ.

Nhờ con ngưòi này mà Phật giáo Tây Tạng được phục hưng, nhất là phép tắc quy luật của cả một xã hội được chỉnh đốn lại từ gốc. Tại Tây Tạng, A-đề-sa được xem là vị đạo sư của quy y, vì nhờ ông mà vô số người thoát khỏi được vòng vây hãm của ảo giác. Năm 72 tuổi, ông rời thế giới này, trở về sứ xở của vô biên, đúng như Tara đã tiên đoán.

58. Khu rừng đầy nữ thần Tara

Cách nay hàng chục đại kiếp có người đàn bà tên là “Ánh trăng trí tuệ”. Là một nữ Bồ-tát, trong thời trẻ tuổi, bà đi rất xa trên thánh đạo, nhưng có nhiều vị tu sĩ nghĩ rằng vẫn nên giảng dạy cho bà, mặc dù bà không hề muốn.

Một buổi sáng nọ, Ánh trăng trí tuệ vừa ra giếng múc nước cho gia đình thì nhiều tu sĩ trờ tới, nói: “Ánh trăng trí tuệ, người đàn bà thông minh đó và có nhiều khả năng hứa hẹn. Vì vậy chúng ta khuyên ngươi cầu nguyện làm sao cho đời sau tái sinh thành đàn ông để được giác ngộ hoàn toàn”.Ánh trăng trí tuệ lắc đầu nói: “Cách phân biệt giữa nam-nữ hay giữa ta-người là đặc trưng của đầu có biết phân biệt, nhưng không thoát khỏi tính chất nhị nguyên. Các ngưoi được gọi là tu sĩ, hành giả đạo học, mà sao còn nói với ta điều đó được?”Nói xong, với cử chỉ của một bậc thánh, nàng giơ hai tay lên trời, tự nguyện chỉ sinh làm nữ giới và sẽ truyền bá giáo pháp cho đến lúc toàn bộ loài hữu tình thoát khỏi suy nghĩ nhị nguyên.

Vài ngàn năm trôi qua, Ánh trăng trí tuệ cứ tái sinh làm nữ giới cho tới một lúc bà đạt giải thoát hoàn toàn và đạt cấp giác ngộ vô thượng. Kể từ đó bà được mang tên “Tara”, dịch nghĩa “tinh tú”.Dân Tây Tạng gọi Tara là “mẹ của tất cả các vị Phật” và gọi bà là “Đạo sư giải thoát”. Người ta cho rằng chính Tara, trong thời kiếp hiện nay là người đã giúp một vị nam giới thành chính quả, vị đó trở thành đạo sư được truyền tụng nhiều nhất. Người Ấn Độ gọi đó là Quán Thế Âm, người Tây Tạng gọi là Chenrezig. Trong truyền thuyết Tây Tạng thì Chenrezig, sau khi đắc đạo, lòng biết ơn Tara đến nỗi ngài thần đọc thần chú Tara đến mười  triệu lần, nhằm dùng âm điệu của thần chú Tara để giúp chúng sinh trong khắp cõi xứ.Vì thế từ đó Tara được xem là nữ thần cứu độ "tám lỗi lo và nguy hiểm”. Người ta kể ra hàng ngàn câu chuyện liên quan đến mật chú Tara, với sự rung động cứu độ của ngài ban phát. Một thương nhân Tây Tạng kể một bức tượng Tara nhỏ ông thường mang theo đã cứu ông khỏi bị trâu húc. Một Lạt-ma khác kể, hình của Tara đã có lần cứu ông thoát chết vì một viên đạn.

Một chuyện khác kể về thành phố Mathura ngày xưa, trong đó có khoảng 500 tăng và ni tu học tại đó. Điều này làm một tên quỉ sứ không vui và y tìm cách phá các hành giả thiền định.Tên quỉ này bắt đầu nghiên cứu nhược điểm từng ngưòi một và y sẽ hiện ra trong dạng mà mỗi hành giả sợ hãi nhất. Đối với các trí thức học giả thì quỉ nhỏ to rằng thiền định sẽ dẫn tới điên loạn và mất trí nhớ. Một vị Tăng sĩ rất dễ thương hiền hậu thình lình trở lên cộc cằn thô lỗ. Các vị khác thì sa vào thói rượu chè hay ác kiến. Các vị kiên trì nhất thì bệnh hoạn, thiếu tinh tấn. Không bao lâu sau, không còn ai trong Mathura thực hành thiền định, tu học Phật pháp mà không bị những hiện tưọng kỳ dị theo đuổi.Sau đó, một vị sư già bỗng nhớ lại ngày xưa thầy mình có dặn dò một điều. Lời dặn đó khuyên rằng, khi tói một mức sâu của thiền định thì phải nên tự buông mình và đồng thời cầu xin Tara giải thoát ra khỏi ác kiến của ma quỉ.Vị sư thực hành điều dặn dò đó và được Tara hiện cho thấy linh ảnh và khuyên phải làm các phép. Vị sư liền tụ họp các bạn đồng tu, yêu cầu các bạn đó mang lại tranh tượng của Tara, gồm 21 dạng khác nhau. Từ mọi đền đài, tu viện tranh tượng của Tara được dồn lại và cả hàng trăm vị tu sĩ đi vào rừng, treo tranh tượng đó lên cây.Kết quả không phải chờ lâu: kể từ lúc đó tên quỉ muốn hiện hình gì thì hiện, nhưng các vị hành giả thiền quán không hề lay động, các vị đó cứ xem mọi hoạt động của ma quỉ đều là một dạng xuất hiện của Tara. Với cách đó thì họ không bao giờ phải sợ hãi và không có hậu quả nào xảy ra. Tên quỉ nọ cũng không làm gì hơn được, vì trong tự tính sâu xa nhất, nó cũng chỉ là một dạng xuất hiện của Tara thật, của một Tính Không viên mãn hoàn toàn. Cũng nhờ đó mà tâm thức tên quỉ cũng từ từ rời bỏ tính chất quỉ của y, không còn tự đồng hóa với dạng hình của quỉ và dạng quỉ đó chết đi, để tâm thức tái sinh trong một cõi khác và để vùng rừng vĩnh viễn an vui.

Sau đó không ai ngạc nhiên khi cuộc sống dân chúng trong Mathura phồn vinh hẳn lên. Trong vùng đó người ta còn ca bài “hai mươi mốt bài ca dành cho Tara”. Đến ngày nay mà các bài ca trung cổ đó còn được hát trong các đền đài hay tu viện nữ giới. 

 59. Người con mù của vua A-dục

Hai trăm năm sau ngày Phật Cồ-đàm nhập diệt, một viên tướng tên là A-dục (Ashoka) nắm quyền lãnh đạo Ấn Độ. Là một vị vua nay uy quyền, ông thống nhất sứ xở chia năm sẻ bảy, cho xây đường xá, đào giếng, bệnh viện nhà nghỉ và nhất là bảo tháp, đền miếu, mà ngày nay người ta vẫn còn xem là một trong những công trình to lớn của con người. Mới đầu A-dục vương (35) là một con người hiếu chiến, nhưng về sau ông được một Tăng sĩ Phật giáo khuyên nên theo chủ trương hòa hiếu, bất bạo động. Nhà vua gặp vị Tăng sĩ này lần đầu trên đường đầy bụi bặm và thấy xót thương. Nhưng khi tới gần, ông nhận ra ánh sáng an tịnh trên khuôn mặt vị tu sĩ, và ông thấy nơi người du khất này một cái gì mà một quốc vương như ông tìm kiếm lâu ngày chưa được.

A-dục gia nhập tăng đoàn và bắt đầu thiền định. Ông đi sâu vào giáo lý của Phật và nhiều lần hành hương đến thăm cây Bồ-đề tại Giác Thành, một gốc cây thánh vì đây là nơi Phật Cồ-đàm thành đạo. Trước đó không lâu, vua A-dục lấy vợ, nàng tên là Tisja Rakscha. Vị hoàng hậu này không vui khi thấy nhà vua cứ đến tham vấn Tăng đoàn, không quan tâm đến nàng.Tisja Rakscha cảm giác bị bỏ bê và ghen tức đến mức nàng sai cận thần ghi chép giờ giấc nhà vua đến Giác Thành bao nhiêu và thời gian dành cho nàng bao nhiêu. Cuối cùng khi so sánh, nàng giận dữ tới mức sai cận thần cho đốn chặt cây Bồ-đề. Cây đó bị chặt thật nhưng lạ lùng thay, qua ngày mai nó lại mọc lên như cũ.Sau đó Tisja tìm mọi cách quyến rũ người con trai lớn của A-dục. Thái tử Kunala là con ghẻ của nàng và là người thừa kế ngôi cha. Nhưng Kunala biết rõ âm mưu của nàng lên thẳng thừng từ chối. Vị hoàng hậu trẻ tuổi hậm hực và quyết báo thù hai cha con.Nhân dịp nhà vua lại đi thăm đền ở Giác Thành, hoàng hậu âm mưu với triều đình bắt tội Kunala nhốt vào ngục, bộ hạ của nàng lẻn vào ngục khoét mắt chàng.Không ai cứu chàng kịp, chàng trở thành mù lòa. Trong cơn tuyệt vọng, chàng nhớ lời một vị hiền nhân đã già nói cách đó nhiều năm: “Không có gì trên đời này là thường hằng. Bất cứ điều gì ngươi sẽ có, rồi nó cũng sẽ mất. Vì vậy hãy giữ những gì mà ngươi là, và lúc đó những cái mất lớn nhất sẽ trở thành những cái được lớn nhất”.

Cai ngục lấy mất ánh sáng của mắt chàng thì ngay lúc đó ánh sáng trí tuệ bùng lên và Kunala thấy tất cả sự vật đúng như chúng là, vượt ra ngoài thông thường cảm nhận của thế gian. Bây giơ chàng biết vị hiền nhân nọ đã biết trước số phận của chàng nhưng không ra tay cứu giải.Càng lúc, Kunala càng đi sâu vào thế giới bên trong và để mặc cho trời đất muốn xử sao với người có tội cũng được. Chàng không cần khai báo gì cả vì A-dục không bao lâu sau đã biết ai là người gây tội khoét mắt con mình và cho Tisja Rakscha hưởng hình phạt xứng đáng.

Kunala rời bỏ ngai vàng và nhường ngôi cho con trai làm vua Ấn Độ. Sau đó ông rút vào rừng miền Tây Bắc, sống như một tu sĩ và an nhiên tu tập thiền định. Cuối cùng, chàng đối trị được lòng sân hận luôn luôn quay trở về trong tâm và hoàn toàn xả bỏ. Rồi cũng tới ngày mà chàng cảm tạ Tisja Rakscha về hành động xấu ác đó, vì cũng nhờ đó mà chàng mở được con mắt trí tuệ và lên ngôi vua của sứ xở nằm ngay trong tâm mình. Từ một con người mù loà Kunala đã sinh ra một bậc A-la-hán có thiên nhãn, một bậc hiền nhân. Vô số con ngưòi đã tìm được an ủi và sự cứu độ với vị đó.

60. Đạo sư với khẩu súng

Cách nay khoảng trăm năm có một đại hội gồm toàn các vị Tăng sĩ và tu sĩ cao cấp tại  Đông Tây Tạng để cùng nhau cầu nguyện. Các vị đó cử hành một nghi lễ Mật tông quan trọng ngoài trời, bên cạnh một khu rừng rậm. Tất cả mọi người đều nhìn theo vị chủ lễ, ông tụng niệm và đọc thần chú, sau đó mọi người lặp lại.Bỗng một tiếng động khả nghi làm một vị lạt-ma đứng hàng sau cùng phải xoay người lại. Ông nín thở, trong lúc đó thì cả nhóm người cảm giác bất an khó chịu. Tất cả đều quay người nhìn phía cánh rừng, hầu như họ bị một năng lực gì hấp dẫn mạnh mẽ, hơn cả năng lực muốn hoàn thành buổi lễ.Giữa các cành cây là một người đàn ông mặt mày khó chịu, trên tay cầm một khẩu súng cũ, mắt nảy tia máu nhìn trừng trừng các vị Tăng sĩ. Sau lưng ngưòi đó là lố nhố một số người, tay cầm súng, mặt mày khó ưa.Vị chủ lễ nghe ai kêu một tiếng nhỏ. Ông đứng dậy đi về phía người đầu đảng rồi bỗng nhiên phủ phục năm dài xuống đất ba lần, tỏ dấu tôn quý nguời đó. “Doe Khyentse Rinpoche”, ông kêu lớn, giọng đầy cảm phục. “May mắn thay, ngài đến với chúng con ở đây. Ngài có làm gì thì chúng con cũng biết từ nơi ngài toát ra trí huệ và từ bi. Xin đến ngay. Nhưng xin ngài và các vị hãy để súng xuống để ban phước lành cho chúng con theo cách bình thường”.

Vị chủ lễ quì xuống, cúi đầu về phía người đàn ông nọ để xin phước lành. Bây giờ thì cả nhóm đều biết đang hiện diện ở đây một vị đại sư xuất chúng, nhưng cũng đáng sợ nhất, đó là Doe Khyentse, một vị tu sĩ đắc đạo khác đời. Vị này giết thú vật, ăn thịt, uống rượu và dộng đầu học trò cho đến lúc họ giác ngộ mới thôi. Ngay cả Patrul Rinpoche, vị đại sư vô thượng của phía Đại Thành trong thế kỷ 19 cũng được đối xử như thế. Doe Khyentse đã chụp lấy chàng Patrul đúng lúc, tấn công chàng và cho chàng một kinh nghiệm giác ngộ không bao giờ quên.Cả đám Tăng sĩ hết sức hồi hộp không biết vị đạo sư khác đời này sẽ làm gì đây. Họ nín thở ngồi nhìn Doe Khyentse. Thay vì để tay lên đầu chủ lễ để ban phép, Doe Khyentse chỉa khẩu súng lên mây, bắn một phát.Tiếng nổ làm chủ lễ choáng người. Ông và cả đám co người lại, trong đầu trống rỗng, bị ném lui vào tự tính, vốn không hề có luật gì cả. Kẻ nào lưu trú được trong trạng thái này, kẻ đó có thể thấy sự vật không bị biến chiếu của đầu óc che đậy. Trạng thái này được gọi là Đại ngộ.Vị đại sư nhìn sơ qua đã biết ngay trong đám ai là kẻ đã tỉnh giác và giác ngộ, ai là người còn cần vài tiếng súng nữa. Vị chủ lễ vẫn quì, mắt nhắm nghiền và mỉm cưòi như một vị Phật. Một vị Tăng khác được đánh thức, cười mãi không thôi. Một vị thứ ba khóc vì sung sướng. Nhiều vị khác xem ra không thay đổi gì cả. Nhưng mắt một vị đại sư là mắt thánh nhân, Ngài thấy hết. Ngài xoay người đi thẳng vào rừng, không nói một tiếng, trước khi cả đám người làm ngài phiền nhiễu bằng những lời cám ơn.

Tại sao Doe Khyentse lại sống như một dị nhân trong rừng trong núi? Nhiều ngưòi trong đám đó tự hỏi như thế sau khi ngài bắn phát súng bỏ đi. Câu trả lời là câu hỏi ngược lại: Ai biết được điều đó. Đạo lộ của những thánh nhân thì không thể thăm dò tới nơi.

Xem mục lục