Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (14)


Xem mục lục

27. Patrul Rinpoche được cầu hôn

Trên miền cao nguyên Golok phía Đông Tây Tạng, Patrul Rinpoche gặp một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết với ba đứa con nhỏ, trên đường đi Dzatschuka. Người giác ngộ phiêu bồng này hỏi thăm người đàn bà và được biết ông chồng đã bị gấu ăn thịt, và cả gia đình bây giờ phải kéo về phố xa để xin ăn, nếu không cả nhà chỉ chờ chết đói. Patrul liền cõng một đứa bé trên vai, tay dắt đứa kia và nói: "Đường đi đến Dzatschuka còn xa, vì thế tôi phải đi cùng mà giúp đỡ cho bà”.

Người đàn bà mừng rỡ và cùng đi với Patrul suốt một vùng vắng người. Bà lo mang đứa bé mới  sinh và Patrul thì vai cõng đứa này, tay dắt đứa kia và cả nhà từ từ đi về phía Nam. Buổi tối Patrul bọc hai đứa nhỏ trong áo ấm của mình để chúng khỏi chết cóng trong đêm lạnh. Sáng tối hai người lớn nấu trà quanh  đám củi  và chia nhau ăn phần dự trữ ít ỏi của Patrul. Giữa đường họ gặp các người chăn trừu hay kẻ hành hương và mọi người đều xem đây là một gia đình hết sức bình thường đi lễ thánh địa. Không ai nghĩ ngợi gì về con người và đứa trẻ trên vai là ai, người đàn bà nọ thì lại càng không biết. Khi cả nhóm đến một nơi khá đông người thì người đàn bà cùng Patrul Rinpoche bắt đầu ăn xin, để mua các thứ như bột, bơ sữa chua mà sống. Nhóm người nhỏ bé này xem ra ngày càng bớt buồn trên đường đi vì niềm an lạc xuất phát từ một tâm thức giác ngộ như Patrul có thể xoa dịu  những tâm hồn sôi sục. Khi họ vừa đến ngoại ô của Dzatschuka thì gia đình ăn xin này hầu như cất được một bài ca, người đàn bà kiếm nơi ăn xin còn Patrul đi đâu mất. Một lúc sau Patrul về lại, mang theo nhiều thực phẩm nhưng mặt mày xem ra có chút ưu tư. Bà quả phụ hỏi thăm lí do ưu tư thì Patrul nói: "Chẳng có gì quan trọng. Tôi định làm chút việc, nhưng ở đây, các chuyện nhảm nhí lại được lan truyền nhanh như chớp”.

“Nhưng một người ăn xin nghèo khổ như ông lại quan tâm gì đến chuyện đó”. Người đàn bà ngạc nhiên.

“Thì…đúng như vậy, ta hãy đi tiếp”.

Một lúc sau cả nhóm đến tu viện nằm về phía Bắc của Dzatschuka. Dưới chân ngọn đồi của tu viện, Patrul nói với người đàn bà: "Tôi phải dừng ở đây vài bữa. Trong ba ngày nữa, bà sẽ gặp lại tôi và tất cả sẽ được chuẩn bị chu đáo”.

Người đàn bà quá đã có kế hoạch khác. Trong quãng đường đi, người bạn đồng hành đó đã gây niềm cảm mến. Bà thấy rằng đã vượt qua nỗi khổ đau mất chồng, một phần nhờ một cái gì rất êm dịu phát ra từ người đó. Bà vội nói: "Đừng làm thế, suốt một thời gian dài anh đã ở với chúng tôi, hãy ở lại. Nếu anh muốn, chúng ta sẽ thành vợ chồng, hay ít nhất cũng cùng nhau đi suốt cuộc đời này. Đừng bỏ rơi mẹ con tôi”. Nhưng vị đạo sư đã có một quyết định không thể dời đổi. "Tôi chỉ là một trong những người giúp đỡ bà. Hãy tin rằng mọi sự sẽ tốt lành. Ba ngày nữa bà sẽ trở lại và sẽ gặp tôi”. Nói xong, Patrul quay người leo lên đồi. Người đàn bà đành ở lại dưới thung lũng với các con và thực phẩm vừa kiếm được.

Ngày hôm sau người ta bắt đầu lan truyền tin “Đạo sư giác ngộ Patrul từ xa đến đây và giảng pháp cho chúng ta”. Mọi nguời đổ xô đến tu viện, dựng lều trước cửa và lo lắng tổ chức buổi lễ. Góa phụ kia nghe tin, có chút hy vọng "Sự có mặt của một đạo sư danh tiếng như thế quả thật là một điềm tốt. Ta sẽ kiếm ngài, dâng hiến tặng phẩm để cầu nguyện cho ông chồng xấu số”. Nàng gom góp mọi thực phẩm xin được, mang theo ba đứa con, tìm đường đến tu viện. Patrul Rinpoche là người không bao giờ nhận tặng phẩm. Nhưng lần này ngài ra lệnh cho các vị Lạt-ma hãy giữ mọi tặng phẩm lại "Ta đợi một người, người này sẽ được nhận các thứ”.

Các vị Lạt-ma ngạc nhiên, nhưng không có gì khác hơn là nghe lời Phật (Patrul) và dồn tất cả tặng phẩm trong một phòng riêng.Nàng góa phụ và các con vào trong chính điện, nơi Patrul giảng pháp, họ tìm được một chỗ đứng xa phía sau, không thấy mặt Patrul, chỉ nghe tiếng. Cuối buổi giảng, sau phần cầu nguyện kết thúc, mỗi người lần lượt đi ngang trước Patrul và được tận mắt nhìn vào mắt ngài. Đến lượt nàng góa phụ, bấy giờ nàng mới biết ai đã đi suốt một đoạn đường dài với mình. Nàng kêu lên một tiếng hốt hoảng, đưa tay bịt miệng. Patrul mỉm cười hiền từ và đưa tay đặt trên đầu nàng.

“Hãy tha lỗi cho con”, nàng nói, “con đã không nhận ra ngài suốt một thời gian. Trời đất! Ngài cõng con của con trên vai…và còn con thì lại đòi cưới ngài, một vị đạo sư tôn kính”.

Patrul cười và nói rõ lỗi tại ngài vì ngài chỉ muốn không ai biết mình để có thể tự do đi lại trong xứ này như một con chim trời. Sau đó ngài quay lại nói với các vị Lạt-ma: "Đây là người mà ta đợi. Cũng nhờ người này mà ta đến đây. Hãy tặng cho gia đình này tất cả tặng phẩm và hãy lo lắng cho họ. Hãy xem họ như chính ta”.

Các vị Lạt-ma hiểu rất rõ Patrul muốn nói điều gì: Ngài nói hãy xem họ như chính ta với nghĩa thật nhất.

28. Người đan giỏ

Tại Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau khi Phật nhập diệt, có một chàng thanh niên nguyện theo hạnh một vị tu sĩ Phật giáo và trở thành một tỳ-kheo. Chàng trở thành một người khất thực, nguyện diệt mọi dục vọng thế gian và luôn luôn chế ngự tâm, hướng tâm vào bên trong. Vị tỳ-kheo sống độc cư trong rừng, nhưng thỉnh thoảng cũng vào làng để nhận tặng phẩm của mọi người và cũng dùng năng lực của thiền định để hồi hướng công đức cho dân làng.

Lần nọ, có một nàng thôn nữ, chỉ nhìn thấy vị tỳ-kheo, thấy cách đi đứng và cặp mắt giác ngộ, nàng liền đem lòng yêu mến tức khắc, không sao cưỡng nổi.Nàng đánh bạo bày tỏ tâm tình với vị tỳ-kheo, nhưng vị này cũng nói rõ đã theo hạnh diệt dục, và sẽ không bao giờ lập gia đình. Thời gian trôi qua, nàng thôn nữ lẽ ra phải dần quên mối tình, nhưng thực tế lòng say mê ngày càng sôi sục hơn. Dần dần tình cảm này càng nồng cháy đến độ nàng không còn biết gì nữa. Bà con bạn bè tìm cách dỗ dành, các vị trưởng lão trong làng cũng như các vị tỳ-kheo đều cho thấy mối tình này là vô vọng. Tuy thế không ai có thể chữa trị nổi lòng đam mê của nàng. Ngày nọ, vị tỳ-kheo nghe tin nàng không còn thiết sống, muốn tự vẫn. Vị này liền vào làng và thấy nàng quả thật trong một tình cảnh bi đát, và không thể làm khác hơn là phải theo lời khẩn cầu của nàng và cha mẹ nàng, tức là cưới nàng làm vợ."Ta đã nguyện diệt mọi dục vọng thế gian. Đồng thời ta cũng đã nguyện theo hạnh Bồ-tát, tức là phải tìm cách giúp mọi loài hữu tình theo khả năng của mình. Trong tình cảnh này phải theo hạnh Bố-tát thôi”.

Không bao lâu sau, hai người cưới nhau. Trong buổi lễ kết hôn, chàng tự nhủ "Đã làm cái gì thì làm cho đến nơi đến chốn”. Tỳ-kheo đó trở thành một người chồng gương mẫu. Chàng đọc ngay trong mắt những ước muốn của vợ mình và cũng được trả lại bằng tình yêu đậm đà nhất. Hai vợ chồng tiếp nối công việc đan giỏ của cha ông và dạy dỗ các con trong nghề đan giỏ. Vị tỳ-kheo ngày xưa thực hành các động tác nghề nghiệp cũng với sự chăm chú của thiền định, tuy thế không hề tách biệt với người xung quanh.Hai vợ chồng ngày càng xây được sản nghiệp lớn lao. Tiếng đồn ngày càng xa, giỏ của gia đình này có chất lượng vượt xa và nhất là chúng mang lại nhiều may mắn cho người sử dụng. Vài chục năm, gia đình này trở nên giàu có và người đan giỏ nọ trở thành một người danh tiếng, nhiều người đến tìm ông xin ý kiến. Con cháu họ tiếp tục gia nghiệp và cái làng nhỏ bé nọ trở thành nổi tiếng với nghề làm giỏ.

Khi người đan giỏ nọ cao tuổi chết đi, người vợ chết theo không bao lâu sau đó. Cả hai được tái sinh trong cõi cực lạc phương Tây, một cõi tịnh độ của Phật A-di-đà.Phật A-di-đà, vị Vô Lượng Quang Phật, tiếp dẫn sự tái sinh và cho người đan giỏ biết rằng, ông đã làm đúng, khi từ bỏ cuộc đời tu sĩ để cứu mạng sống của một người khác. "Với lòng từ bi quên mình, ngươi đã thực hành đúng nghĩa nhất: hạnh diệt dục”, Phật nói như thế. « Vì thế, ngươi và những người liên hệ nghiệp lực chặt chẽ với ngươi sẽ được nhập Niết-bàn không bao lâu sau nữa”.

29. Tâm thức tự tại

Thời Phật còn tại thế, cách đây trên hai ngàn năm trăm năm, có một tu sĩ Ấn Độ tên là Khenpo. Khenpo không được vui khi thấy rằng nhiều đệ tử của mình bỗng nhiên bỏ mình để trở thành đệ tử của Phật Cồ-đàm.

Tới lúc Khenpo nghe vợ một người đệ tử quan trọng nhất cũng muốn theo học giáo pháp mới của Cồ-đàm thì ông thấy đã tới lúc ngăn cản. Ông cho gọi người đệ tử đến và bảo: "Pelbay thân mến, ngươi đang có mối nguy hiểm lớn. Tên hoàng tử Tất-đạt-đa hồi trước ngày nay tự xưng là Phật Cồ-đàm đang làm ra vẻ là tay đạt đạo. Thực tế y chỉ là một tên phù thủy ích kỷ và ngày nay nếu y khuyến dụ được vợ ngươi thì, chắc là ngươi không yên được đâu.”Pellbay đâm lo, vội chạy về nói với vợ nhưng nàng nhất quyết không để mất lập trường: "Em sẽ mời Phật và Tăng-già đến nhà ta dùng bữa trưa, lúc đó anh sẽ được chứng kiến sự thành tâm và trí tuệ vĩ đại của Ngài”.

Pelbay kể lại cho thầy mình nghe, Khenpo liền khuyến cáo: "Ngươi sẽ thấy, nếu ngươi cho vợ ngươi theo tên đạo sư tân thời này, điều gì sẽ xảy ra. Chỉ toàn là chuyện khốn khổ! Tên Cồ-đàm này cho mọi người biết rằng y là một nhà tiên tri, đại từ, đại trí! Nhung ta có thể đối trị điều này rất dễ, Pelbay. Cứ để cho vợ ngươi mời tên Phật đó đến. Ta sẽ thử thách cái tiên tri đại trí của y trước mắt mọi người”.

Sau đó Pelbay nghe lời thầy cho đào một cái hố trước cửa nhà để cho tên phù thủy mặc áo vàng này rơi vào đó làm trò cười cho thiên hạ. Mặt khác Peibay cho tẩm thuốc độc vào thức ăn và nhốt vợ trong nhà kho để nàng khỏi báo trước cho đức Phật. Phật nhận lời đến dùng bữa trưa và vợ Pelbay quả nhiên bị nhốt. Trước khi lên đường đến nhà Pelbay, Phật họp các tỳ-kheo lại và dặn đừng ai vào cửa trước ngài cả. Ngoài ra Ngài không nói gì thêm.Pelbay đứng đợi sẵn sau cánh cửa lúc đoàn tùy tùng của Phật vừa đến. Phật đi trước và bước lên tấm thảm đó không hề lún xuống mà lại biến thành một hồ sen và Phật đi trên đó. Sau cánh cửa, không gian như biến thành vô tận và bao bọc thân Phật đầy ánh sáng cùng đoàn tùy tùng.Thấy thế Pelbay quì xuống và kêu lớn: "Hãy tha thứ, bạch Thế Tôn. Con đã gây tội lỗi không thể tha được”. Phật nghe lời sám hối của Pelbay và trả lời bằng bài kệ:

“Tâm giác ngộ đã vượt lên

Mọi nhị nguyên.

Làm sao mà Thiện hay Ác còn đụng đến nó được nữa.

Tâm tỉnh giác xa lìa moị dục ái

của ba độc (tham, sân, si)

Làm sao cái khổ còn đụng đến nó được nữa?”

Phật Cồ-đàm cho phép mọi tu sĩ được thọ thực. Sau đó, ngài nhờ Pelbay thả vợ ra và đưa đến bàn ăn. Pelbay làm theo lời Phật rồi quì xuống đấm ngực: "Bạch Thế tôn, xin Ngài cùng đoàn đừng ăn xin đợi chúng con nấu món khác. Con biết Ngài là một đấng tiên tri và đã nhìn suốt con người của con. Lòng từ bi của Ngài là vô hạn, nhưng con sẽ không bao giờ được yên nếu Ngài hay bất cứ ai trong đoàn bị ngộ độc”.

Đức Thế Tôn lại trả lời bằng một bài kệ:

“Tâm giác ngộ là xa lìa

Mọi điều Phải hay Trái.

Làm sao mà nó còn quan tâm đến Đúng hay Sai.

Tâm tỉnh giác vượt lên mọi tác hại của ba độc

Làm sao chất độc thường tình còn đụng đến nó ?”

Thế rồi đức Phật cùng đoàn bắt đầu thọ thực, Pelbay sợ hãi kêu gào. Sau khi cám ơn lòng hiếu khách của gia chủ, Phật rời nhà và cũng là người bước lên tấm thảm trước và tấm thảm lại biến thành hồ sen. Còn Khenpo tuyệt vọng ngồi suốt buổi phía sau, ông ta đã nhìn thấy tất cả, trốn ra cửa nhà bằng cửa sau và không bao giờ xuất hiện nữa.

Xem mục lục