| Chương 3 
 Giải Đáp Cho Những Vấn Đề Bí Hiểm Của Đời Người
 
 Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bịnh để cứu độ thế gian, ông  Cayce đã cứu chữa cho hằng mấy muôn nghìn bịnh nhân, và điều này càng  xác nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông.Với năng khiếu thần  thông này, ông Cayce nhìn thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người  bịnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường  hợp thông thường người ta không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau,  người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể  con ngươòi, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ càn  khôn để nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm  sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc đó đã xảy ra  trong trường hợp sau đây:
 
 Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà  in lớn ở Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự với ông nói  chuyện về ông Caycẹ Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi ông bèn lên  đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu  bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ. Sau khi đã quan sát những  cuộc khán bịnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới  nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông này. Ông Lammers là  một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng nếu một  người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn dấu đối với cặp mắt phàm,  thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về vũ trụ  và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan  hay bộ máy tiêu hóa của người bịnh mà thôi đâu. Thí dụ như: Trong tất cả  mọi nghành triết học và tôn giáo, thì nghành nào gần nhất với Chân Lý?  Mục đích của đời người là gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất  diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về  đâu? Thần Nhãn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề  ấy chăng?
 
 Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề  ấy. Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời,...  Không hề thoáng qua trong ý của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm  những giáo lý mà người ra giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc  so sánh những giáo lý đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác  đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông.
 
 Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn  dụ trong những giấc ngủ thôi miên là vì do lòng mong muốn giúp đõ những  kẻ bịnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên đã nghĩ đến việc dùng  Thần Nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bịnh cho nhân loại, và  điều này càng làm tăng gia lòng hứng khởi của ông Caycẹ Trong những giấc  thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông đã luôn  luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy thì không có lý  do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về  các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bịnh.
 
 Ông  Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở  Selma, nên ông yêu cầu ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài  tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng Thiên Liêng muốn  kêu gọi ông vào những công việc phụg sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có  chú ý đến khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với  Chân lý, thì đó có thể là một nghành khoa học nối liền con người và vũ  trụ mà chúng ta có thể hiểu được rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí  nghiệm Thần Nhãn của ông Cayce về khoa này.
 
 Một ngày nọ vào  tháng 10, năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một  gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy  lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những  lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá  số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối  hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: "Thuở xưa y  là một tu sĩ." Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người  đã từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng  về nhân sinh và định mệnh con người, câu nói ấy làm cho ông giựt mình  chẳng khác nào như bị điện giựt!
 
 Phải chăng câu ấy có nghĩa là  Thần Nhãn của ông Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả  thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi?
 
 Thay vì làm thỏa mãn sự tò  mò của ông Lammers, cuộc khán nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch  muốn biết thêm. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammmers đang bàn  luận sôi nổi với cô nữ bí thơ Linden Shroyer về những lời nói của ông  vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng minh thuyết  Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả  những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học!  Nếu ông Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta  thấy rõ ràng luật Luân Hồi hành động bằng cách nào. Thí dụ như những mối  liên hệ giữa Luân Hồi và khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên  đây sẽ giải thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời  sống con người?
 
 Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce  lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc  khán nghiệm. Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một  cách đứng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng  những vấn đề bí hiểm của đời người mà ông bắt đầu khảo cứu tìm tòi. Theo  những cuộc khán nghiệm đó, khoa Chiêm Tinh có chứa đựng một phần nào sự  thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn đang tiến hóa một cơ hội học  hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thâu thập kinh  nghiệm ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở xưa người ta  gọi bằng tên các cầu hành tinh làm trung tâm điểm cho những cõi ấy. Tuy  nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời  buổi hiện tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là  hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám  phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn.
 
 Những điều đó thật là lạ  lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc  khán nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự nghĩ rằng những tài liệu mà  họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi  lấy một "Lá số, " và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn.  Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hãy đưa  ra một lối dẫn dụ thích nghịVà đây là lối dẫn dụ mà ông Cayce đã đưa ra:
 
 "Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh  ngày... Tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai  trò của y trong vũ trụ là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả  năng của y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của y  ra sao với những chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải  qua những tiền kiếp đó.Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào  trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa của y trong kiếp  này."
 
 Từ đó những cuộc khán nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những  tiền kiếp của đương sự. Những cuộc khán nghiệm này được gọi bằng danh từ  soi kiếp, để phân biệt với danh từ khán bịnh, chỉ nhằm khán nghiệm thể  xác của bịnh nhân vì mục đích chữa bịnh mà thôi. Đối với hai loại khán  nghiệm kể trên, ông đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một  chi tiết này, là mỗi khi ông Cayce tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên  tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội. Chính ông cũng tự  khán nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên nhân sự chóng mặt, thì ông được  cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay đấu về hướng bắc, chân về  hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi  chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy nói rằng đó  là một vấn đề thuận giòng "Từ điển."
 
 Những cuộc soi kiếp cho  chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một  vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có nhiều quyền phép thần thông,  nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một  tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị  thương trong một trận chiến tranh trên sa mạc và bị bỏ sót lại trên bãi  cát, vì những người đồng bọn tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình,  không có nước uống, không lương thực và không một mái che ông đã chịu  khổ rất nhiều trong ba ngày và ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất  lớn để xuất thần ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và  chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có cái khả năng tự thoát  ly ra khỏi những giới hạn của xác thể.Tất cả những đức tánh và thói xấu  của ông hiện thời đều được cân nhắc đứng đắn và đều có thể truy nguyên  ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại là một sự  thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự nhân loại một  cách vị tha, để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói kiêu  căng, đắm mê vật chất và ưa thích điều sắc dục.
 
 Ông Lammers  nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất  lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về  vấn đề này. Ông yêu cầu ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở  Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia  đình ông, gồm cả bà Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys  Davis, cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia dình ông. Cả  gia đình đều bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự gì  xảy ra, thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce: Lúc đầu họ  còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự  thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mệ Ông Cayce bèn  soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm  tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết  rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tánh tốt đều có nguyên nhân trong  những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai ông, ông  nói: "Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đã trở  nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người nên có óc  duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người con khác ông nói:  "Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều điều bất lợi  trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp nầy con nên tập lấy  sự tự chủ và tánh kiên nhẫn."
 
 Những sự diễn tả tánh tình đó  đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người  thân thích hay những người xa lạ như ông Lammers, cơ Linden Shroyer và  những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm  phần hứng khởi và tin tưởng.
 
 Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc  về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã  tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết. Sau cùng ông đi đến kết luận  rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhãn của mình, bằng những  cuộc khán bịnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự chánh đáng  và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những điều  tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... "Phản đạo,"  làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?
 
 Sự  băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh trưởng trong  một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết  một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong  lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa  đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức  cái ánh sáng đạo lý nó chiếâu diệu trong những ngọn đèn khác hơn là ngọn  đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn Giáo  và Phật Giáo nói về vấn đề Luân Hồi.
 
 Hơn nữa, danh từ này đối  với ông, không được hấp dẫn cho lắm, vì người ta thường có một quan niệm  sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng theo thuyết ấy thì những  người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại làm kiếp thú, như  làm thân trâu ngựa... Chính những cuộc soi kiếp đã giải tán những sự  nghi ngờ này cho ông Caycẹ Trong những cuộc khán nghiệm các tiền kiếp,  ông Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú  vật; và không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn  bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người  trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách  sáng suốt thông minh, và lấy đó làm nền tảng cho mọi cách xử thế trong  đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở  các nước Á Châu cũng chủ trương thuyết Thoái Bộ Luân Hồi  (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó  chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo cũng  có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho  những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một  điều Chân Lý căn bản và trọng đại.
 
 Ông Lammers có thể bổ túc  những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng  Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của linh hồn con người trải  qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần, khi thì đầu thai làm đàn  ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa;  kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác... Cho  đến khi linh hồn đạt tới mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như  một anh tài tử sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y  phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái  áo bằng vải trong một thời gian, và khi nó đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy  một cái áo khác. Nhiều bậc Hiền Triết và các nhà thông thái, trí thức  siêu việt của Âu Tây cũng đã chấp nhận thuyết Luân Hồi và đã viết nhiều  sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin,  Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer.
 
 Ông Cayce bày tỏ ý kiến: "Những điều đó hẳn là đúng sự thật hiển nhiên  rồi; nhưng còn đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết Luân Hồi thì  phải chăng điều đó có nghĩa là tôi là phủ nhận đấng Christ thì rõ. Một  luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho đấng  Christ, và Ngài đáp rằng: Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết  lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi  cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của  các nhà Tiên Trị" (Mathieu 22:35-40.)
 
 Những lời dạy giản dị và  sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến hóa và  thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo  nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: "Ngươi đừng làm hại kẻ khác nếu  ngươi không muốn cho kẻ khác làm hại mình." Và những Thánh Kinh của Ấn  Giáo cũng dạy rằng: "Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi  không muốn người khác làm cho ngươi."
 
 Ấn Giáo cũng như Phật  Giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt, dị đồng giữa luật bác ái và  luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy  chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không cho rằng hai  luật ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm  lên 10 tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất  lấy làm say mệ Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần,  suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong  sách đó có chữ Luân Hồi. Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan  trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này?
 
 Ông Lammers nghĩ rằng: "Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề Luân Hồi."
 
 Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các vị môn đồ  nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho  Ngài có dạy thuyết Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng  trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến  thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đương thời và do sự phiên  dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy  của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh,  người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề Luân Hồi. Đấng Christ có lần nói  với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là Elie tái sinh (Mathieu  17:12-13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh, nhưng Ngài lại nói  một cách rõ ràng không úp mở, rằng "Elie đã trở lại... Và khi đó các môn  đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về Thánh Jean-Bastistẹ" Trong một đoạn  khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: "Bạch Sư Phụ, ai đã gây tội  lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh ra đã  bị mù?" Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm xúc ý  nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, Chương mười ba,  câu thứ mười: "Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử  dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao."
 
 Câu ấy ám chỉ rằng có một  định luật quả báo hành động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc  chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã lần lần góp nhặt và tu chỉnh  những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn đề Luân Hồi;  nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc của  phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và  không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ,  người ta thấy có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong  những tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như  Origene, Jutin Thánh Jerome, Clement d' Alexandrie, Plotin và nhiều vị  khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của  đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo  lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho 12 vị  tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?
 
 Theo ông Lammers, thì đức  giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết Luân hồi, nhưng đã tuyên  bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia  Tô.
 
 Những điều kể trên đã giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn  khoăn của ông Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ  lùng của mình một cách trái Đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của  ông. Ngoài ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền  năng của mình, nhưng điều này lại có một tánh cách khoa học. Một thí dụ:  Làm sao giải thích sự gia tăng dân số lớn lao trên thế giới hiện nay  nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những linh hồn đều đã có sống trên  mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà rả Tất cả gia đình ông  Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và Linden Shroyer  đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy.Khi  tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự khán  nghiệm bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và  khi những cuộc khán nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham  khảo tài liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia.
 
 Nói về  vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm ra câu giải đáp cũng không  phải là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng dầu sao, chúng ta  có chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khán  nghiệm đã qua có nói về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu  Atlantide nay đã biệt tích. Ở Cao Miên, Mễ Tây Cơ, Ai Cập và ở các xứ  Đông Phương, những tàn tích khảo cổ đã xác nhận rằng những nền văn minh  lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày  nay chỉ còn là những bãi sa mạc. Như thế người ta có thể quan niệm được  rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sở, có những lúc mà dân số  trồi sụt không đồng đều, nhưng vẫn không hề thay đổi linh hồn trong vũ  trụ.Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn phảng phất trên các cõi vô hình  trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện cho họ đầu thai xuống  cõi trần.
 
 Tuy ông Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài  lòng về câu giải đáp hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantide cũng lại  là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu  Atlantide là có thật? Hay đó chỉ là chuyện hoang đường? Những cuộc khán  nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy  một cách tường tận tỉ mì và với rất nhiều chi tiết:
 
 Nhà triết  học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật sự hiện diện  của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương. Và mặc dầu  quần chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng  đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì  phủ nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantidẹ Dầu sao có  một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và  đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn  cho nhau. Ông Cayce đã đọc một quyển nhan đề "Châu Atlantide, một thế  giới của thời kỳ tiền sử" của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc  nhiên mà nhận thấy rằng nhữõng cuộc khán nghiệm của ông đã diễn tả đúng y  như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy.
 
 Những  cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học,  tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lý của  khoa thôi miên, là những vấn đề đã được nêu ra trong các cuộc khán  nghiệm bằng Thần Nhãn, đã giúp cho ông Cayce có được một tầm kiến thức  rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót. Lần lần, ông bớt sợ  hãi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên,  ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật.  Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối óc phê bình, ông bắt đầu phân  tách những cuộc khán nghiệm để kiểm soát cho nó được hoàn toàn đúng đắn.  Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khán nghiệm ấy đều có mạch lạc  và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khán nghiệm này lại tương  phản với một cuộc khán nghiệm khác, dầu là cách nhau bao xa cũng vậy.  Bởi đó, một người có thể được khán nghiệm một lần thứ nhì, nhiều tháng  hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất: Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và  nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật  một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu saün, để đọc tiếp theo đoạn  sách đã bỏ dở kỳ trước. Phần nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài  liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide.
 
 Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy  rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bỏ khuyết lẫn nhau và trở  nên hoàn bị hơn: Mỗi cuộc soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói  ra trong một lần trước, hoặc thêm vào một chi tiết mới cho toàn thể câu  chuyện.
 
 Không cuộc soi kiếp đều hòa hợp lẫn nhau, mà còn xác  nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch  sử, dầu đó là những sự việc bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Thí  dụ: Một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người nọ, trong một tiền  kiếp, đã từng làm một người "Phóng ghế." Ông Cayce không hề biết "Phóng  ghế" nghĩa là gì, và khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó  ám chỉ một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ: Người ta trói những mụ  phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận  chìm họ xuống ao nước lạnh.
 
 Một thí dụ khác: Trong cuộc soi  kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước, y  đã sống ở bên Pháp, tại đây y gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ  Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát  minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng ông không tin rằng  ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau khi tra cứu một  quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông Fulton đã có  ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và  khuyến khích trong nghành hoạt động của ông.
 
 Ngoài ra những sự  xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất nhiều  bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách  tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với  ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn  toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khán  bịnh, dầu cho đương sự có quen biết hay không đối với ông Cayce, điều đó  không có quan hệ gì cả. Họ ció thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở  bất cứ nơi nào trên thế giới: Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh  và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn  những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ.  Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng cùng những khuyết điểm của  họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp.
 
 Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce đã có  thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lô về tánh chất và  khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con: Một cuộc soi kiếp  ngày sinh của một đứa trẻ tai. Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là  một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính  nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không  thể làm cách nào để sửa đổi được.
 
 Trong trường hợp lý thú hơn  nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau y có  thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp trước cũng  đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích thú đặc biệt về  nghành y học. Vào năm tám tuổi, y đã bắt đầu mổ xác những con thú đã  chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, y  đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai  tuổi, y cho cha mẹ biết rằng y có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John  Hopkins để theo nghành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh  thương mại ở New York; mẹ y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ y đều phản  đối ý định học Y khoa của y và khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ  cương quyết giữ lập trường và sau cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay y  đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa Sinh tai. một trường Đại Học lớn ở  miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu Thần  Nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ  và chắc chắn rằng những khả năng đặc biết của y sẽ biểu lộ ra ở kiếp  này.
 
 Những thí dụ kể trên chỉ rằng những cuộc soi kiếp của ông  Cayce có một giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của  trẻ sơ sinh mà cũng của những người lớn. Một cô điện tín viên ở nhà Bưu  điện thành phố New York lấy làm vô cùng ngạc nhiên về những bức điện  tín lạ lùng mà cô đã đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi  thăm về ông Cayce và quyết định yêu cầu ông soi kiếp cho cộ Nhờ đó, cô  biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện tín viên, và tốt hơn cô nên  học về nghành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước, cô đã là một nghệ  sĩ có tài về nghành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo đuổi một nghệ  thuật nào, dầu là kỹ nghệ họa hay bất cứ nghành nào khác, nhưng cô ấy có  đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô  cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau  chóng với nghành kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều  về nhân cách của mình.
 
 Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng  nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều  người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông  làm là chánh đáng vì nó gây nên những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người  được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ; những người khác  nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự khó khăn trong đời sống  gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình  một cách thích nghi với đời sống xã hội.
 
 Những điều kể trên đã  lần lần thuyết phục ông Cayce về tánh cách chân thật và xác đáng của  những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của sự giải thích mà nó đưa  ra về định mệnh của con người. Nhưng điều nó làm cho ông tin tưởng hơn  hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà  cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô  giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ  của thuyết Luân Hồi.
 
 Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu  ra một đoạn sách trong Thánh Kinh hay một điều giảng dạy của đấng  Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng  Christ như sau: "Ngươi gặt hái những gì ngươi đã gieo" và "Hãy làm cho  kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi." Đôi khi đó là những  câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng  theo nguyên văn, chẳng hạn như:
 
 "Ngươi chớ lầm lạc: Không ai  có thể kiêu ngạo Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy." Và:  "Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều  lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được  những điều tội lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác."
 
 Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bịnh tật đau  khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp  trước.
 
 Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu,  thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về  những điều đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ  muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn  trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Nhiều người lại có chung một bối  cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại, những điều diễn tả trong các  cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp  thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại Atlantide, Đế quốc  La Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đấu thời kỳ khai mở  thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: Châu Atlantide, Ai Cập, La Mã,  nước Pháp thời Louis 14, 15 và 16, và Giặc Phân Ly (Secession) ở Hoa  Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ,  Cao Miên, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bổn,  và nhiều xứ khác; nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một  khuôn khổ lịch sử như nhau.
 
 Theo ông Cayce, lý do của sự kiện  trên là vì những linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau  thường chuyển kiếp đầu thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong  những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những nhóm linh hồn khác lại chuyển kiếp  xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự thay phiên đầu thai từng nhóm  một một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống như sự thay phiên  từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều những linh  hồn đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với nhau một  lượt ở những thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có  sự liên lạc gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã  cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước.
 
 Một  câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu đó do đâu mà có?" Câu trả lời  là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài  liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi  kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm  mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn  những kinh nghiệm ở những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước  được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm  thức, ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa Tâm lý học hiện đại.
 
 Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò bằng tiềm  thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác nào  như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ  này đến chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau  chóng hơn là bằng những phương tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó,  trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn  đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải thích này có thể  được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một phần nào,  với những sự phát minh của khoa phân giải tâm lý (psychanalyse) về cuộc  đời và trạng thái vô thức.
 
 Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã  giúp tài liệu cho ông Cayce, thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi  kiếp gọi đó là những " ký ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như  thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh  vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh từ; Akashique:  Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau:
 
 Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa  căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay  một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rõ ràng không  bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con  người và tất cả mọi sự gì ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ  đó sự ghi nhận trong ký ức của không gian đó mà những bị có Thần Nhãn có  thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc một quyển sách phơi bày từng trang trước  mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa hằng bao nhiêu thời gian  trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi như một cái máy chụp ảnh vĩ  đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Thiên Nhiên trên chất Akasha  đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi mực độ nhậy cảm  của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng thái  thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến  trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce  không có thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng  luồn sóng" như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông  có thể làm được điều ấy.
 
 Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông  Cayce đã thốt ra trong giấc thôi miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ  lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông  đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống  nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông  nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là "Ký  ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách Thiên nhiên."
 
 Ông Cayce cũng  đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akashạ  Nền Triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư  không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng  nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách cảm: Và  những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao  chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng  của chất Akasha, cũng là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải  thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp  cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng này là ông  Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn một cách dồi dào  như suối chảy trong những cuộc khán nghiệm sưu tầm về những thời đại cổ  xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa Jesus?
 
 Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã  từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những  người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó  trong ký ức của Lịch Sử, được ẩn dấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn  trong những cõi vô hình huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp  nhận quan niệm về chất Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt  đối về đều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc khán  nghiệm bằng Thần Nhãn; và những cuộc khán nghiệm của ông về tất cả mọi  vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy.
 
 Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá  khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ  trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự  thật về chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng  gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh  chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ Óc  con người, và sự truyền cảm của bộ Thần kinh hệ. Dầu sao, những cuộc soi  kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là một sự thật  hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi là  năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khán bịnh bằng Thần Nhãn, cho đến  năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả độ 2.500 người.  Cũng như những cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều  được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thơ từ  văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi  có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ.  Những người nào muốn tìm biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể  chất vấn nhiều người hiện nay còn sống và đã từng được ông Cayce soi  kiếp cho họ.
 
 Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tánh  cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp  của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay  một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có  một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về luật Luân Hồi, là một nguyên tắc  tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những yếu tố kể trên cũng  chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhứt nó cũng đáng để  cho chúng ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao  nhiêu những cuộc phát minh lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ  trên những giải thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học  Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết Tương Đối luận, ông  đáp:
 
 - Tôi chỉ thử đặtt một nghi vấn về một định lý.
 
 Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý  và triết lý, nó d8em đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn  về cuộc đời.
 
 Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao  nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn  sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ  bị đủ thứ đau khổ bịnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn  tìm sự giải đáp cho câu hỏi sau đây:
 
 " Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?"
 
 " Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ này?"
 
 Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng.  Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp  này, vì không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay  nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh  hiện thời của họ là cái kết tinh của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn  nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ nhiều thế kỷ  trước. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bịnh tật, thống khổ  của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự hành động của một  định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.
 
 Những gì họ đã nghe và  học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài  học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cùng tìm thấy sự thăng bằng  và an tịnh của tâm hồn.
 
 Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân  thật của những cuộc soi kiếp, người ta cũng phải nhìn nhận sự kiện này  là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan  trọng của sự việv kể trên không phải là nó đem đến cho ta một giả thuyết  mới: đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng  của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả địa cầu. Những  cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều này:
 
 Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đã có được những  bản phúc trình đúng đắn mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp  trước của một số nhiều người.
 
 Điều thứ hai: đây là lần đầu  tiên trong lịch xử thế giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và  sắp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người có thể tra cứu,  sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã hợp nhứt triết  lý Đông Tây càng thêm phần sinh sắc.Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng  hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông Phương  và Tây Phương.
 
 Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông  Cayce cũng đã tổng hợp khoa học cà tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy  rằng cõi giới tinh thần được cai quản bởi những định luật Nhân Quả một  các đúng đắn cũng y như cõi giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau  khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ theo quan niệm  duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động sai lầm trong quá  khứ. Nó chỉ rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh  và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng  Đế hay là do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết  quả của những hành động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.
 
 Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích giáo  hóa chúng ta về đướng xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta  đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại  đau khổ đều là những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học  lớn của thế gian, ngõ hầu trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục  đích Minh Triết và Toàn Thiện.
 |