Hán dịch: Tam Tạng              Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn,              Trung Quốc 
                                                                                                                      		                                                                                                                                         		                    Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri                 Quyển Thứ                              Ba Mươi Hai                              NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG                              THỨ MƯỜI                              PHÉP ĂN CHUNG.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo cùng ăn chung bị                              người đời chê cười rằng:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              mà ngồi ăn chung giống như những kẻ dâm dật ở thế                              gian?                                                           Cho đến Phật bảo gọi nhóm                              sáu Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Các ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép cùng ăn chung. Cùng ăn chung nghĩa là cùng                              ăn một bát. Còn thức ăn thì có 5 món ăn chính và 5                              món ăn linh tinh nên đựng riêng ra mà ăn. Nếu không                              có bát thì nên dùng tô, chén để đựng. Nếu cũng không                              có tô, chén thì nên vò cơm thành viên bỏ trong bàn                              tay trái, dùng tay phải bốc ăn. Nếu cũng không thể                              được thì nên đặt bát trên cỏ, lá, rồi cùng bốc ăn.                              (485c) Không được dùng tay bốc ăn chung 5 thức ăn                              chính và 5 thức ăn tạp. Nhưng nếu là bột, bánh, rau,                              trái thì cùng ăn chung không có tội. Nếu cùng ăn                              chung trong một bát thì phạm tội Việt tỳ ni.                                                            Ðó là phép cùng ăn chung.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, đức Như Lai vì 5 sự lợi ích nên cứ 5 hôm đi                              thị sát phòng các Tỉ-kheo một lần. Thấy bàn ăn trong                              phòng của Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà được vẽ nhiều màu sắc,                              tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo:                                                           - Cái bàn ăn này của ai                              mà được vẽ nhiều màu sắc thế này?                                                           - Bạch Thế Tôn! Ðó là bàn                              ăn của Nan-đà, Ưu Ba Nan-đà.                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép ăn trên bàn ăn.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, đức Như Lai vì 5 sự lợi ích nên cứ                              5 hôm đi thị sát phòng các Tỉ-kheo một lần. Thấy một                              Tỉ-kheo bị mụt nhọt ở tay, tuy biết nhưng Phật vẫn                              hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              được điều hòa, an lạc không?                                                           - Bạch Thế Tôn! Con bị                              mụt nhọt ở tay khiến bát bị vỡ mà Thế Tôn chế giới                              không cho ăn trên bàn nên không được an vui.                                                           - Từ nay Ta cho phép                              Tỉ-kheo bệnh được ăn trên bàn nhưng không cho phép                              vẽ trên bàn nhiều màu sắc.                                                            Nếu bàn ăn của Tăng vẽ                              nhiều màu sắc thì không có tội.                                                            Nếu là bàn riêng thì chỉ                              nên dùng một màu. Tỉ-kheo bệnh ăn trên bàn, trước                              hết nên đứng chú tâm tưởng niệm rồi ăn thì không có                              tội.                                                            Nếu Tỉ-kheo không có bệnh                              thì hoàn toàn không cho ăn trên bàn.                                                            Nếu vì già bệnh, hoặc mụt                              nhọt trên tay ra máu, hoặc bát nặng, hoặc đầy, hoặc                              nóng, hoặc lạnh thì được ăn trên bàn không có tội.                              Nhưng nếu Tỉ-kheo không bệnh mà ăn trên bàn thì phạm                              tội Việt tỳ ni. Ðó gọi là phép ăn trên bàn.                                                           Kệ tóm tắt:                                                           Ăn tỏi và phú bát                               VÌ MÌNH MÀ NGƯỜI TA GIẾT                              SÚC VẬT.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đi du hành                              phương xa rồi trở về thành Xá-vệ. Ðến giờ khất thực,                              họ khoác y, cầm bát đi vào một nhà đàn việt quen                              biết cũ tên là A Bạt Tra. Ðàn việt thấy thầy liền                              chào:                                                           - Chào sư phụ! Vì sao mà                              đã lâu lắm không thấy sư phụ đến?                                                           - Này lão trượng! Ðã lâu                              ngày tôi mới đến, vậy ông định đãi tôi món ngon vật                              lạ gì đây?                                                           - Ngày mai con sẽ cúng                              dường trai phạn cho thầy!                                                           - Ông đừng có cúng thức                              ăn của bọn thợ dệt.                                                           - Thức ăn của thợ dệt là                              thứ gì?                                                           - Tức là cơm hẩm, canh                              đậu đó!                                                           - Con không cúng cơm hẩm,                              canh đậu cho thầy đâu, mà sẽ cúng cơm thịt.                                                           - Ông đừng có cúng cho                              tôi thịt nguội.                                                           - Con sẽ không cúng thịt                              nguội cho thầy, (486a) mà sẽ nấu nóng rồi mới cúng.                                                           - Tôi nói thịt nóng không                              phải kiểu nóng như vậy.                                                           - Vậy thì nóng như thế                              nào?                                                           - Nghĩa là thịt của con                              vật vừa mới chết.                                                           - Nếu thầy muốn như vậy                              thì ngày mai hãy đến sớm, con sẽ giết con vật trước                              mặt thầy rồi mới nấu nóng.                                                           - Vâng.                                                           Sáng sớm hôm sau, họ                              khoác y, cầm bát đi đến nhà ấy, đàn việt bèn đem dê,                              heo, gà ra để la liệt trước mặt Tỉ-kheo, rồi giết                              thịt cúng dường. Khi ăn xong họ ra về, đàn việt chê                              trách:                                                           - Sa-môn Cù Ðàm dùng vô                              số phương tiện chỉ trích việc sát sinh, ca ngợi                              không sát sinh, vậy mà vị Sa-môn này bảo người ta                              giết ngay trước mắt thì có khác gì mình tự giết!                                                           Các Tỉ-kheo đem sự việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo gọi Nan-đà,                              Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Này các Tỉ-kheo! Các                              ông có việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Này các Tỉ-kheo! Ðó là                              việc ác. (cho đến Phật nói) Vì sao các ông bảo người                              ta sát sinh ngay trước mặt? Từ nay về sau, Ta không                              cho phép thí chủ vì mình mà sát sinh. Vì mình mà sát                              sinh tức là vì Tỉ-kheo mà giết súc vật. Nếu thí chủ                              vì Tỉ-kheo mà giết súc vật thì tất cả Tỉ-kheo,                              Tỉ-kheo ni, Thức xoa ma ni, Sa di, Sa di ni, Ưu bà                              tắc, Ưu bà di đều không được ăn. Cũng vậy, nếu họ vì                              Ưu bà di mà giết hại thì tất cả Tỉ-kheo không được                              ăn cho đến Ưu bà di cũng không được ăn. Vì người                              khác mà giết có ba trường hợp: thấy, nghe và nghi.                              Thấy nghĩa là chính mắt mình thấy họ giết vì mình                              thì không được ăn. Ðó gọi là thấy. Nghe nghĩa là                              chính tai mình nghe, hoặc nghe từ người khác rằng họ                              giết vì mình thì không được ăn. Nếu người thuật lại                              là kẻ không đáng tin, chỉ vì muốn nhiễu loạn Tỉ-kheo                              thì không nên nghe họ nói mà nên nghe người đáng tin                              để xác định chắc chắn. Ðó gọi là nghe. Nghi nghĩa là                              Tỉ-kheo đến nhà đàn việt thường thấy con dê, sau đó                              đến thì thấy đầu, chân dê trên đất; thấy vậy tâm                              sinh nghi nên hỏi: "Con dê trước thấy ở đây bây giờ                              đâu rồi?" Nếu họ nói: "Tôi đã vì thầy mà làm thịt                              rồi", thì không nên ăn. Nếu họ nói: "Thưa tôn giả!                              Vì tôi giết để tế trời rồi ăn thịt mà ăn không hết                              nên cúng cho thầy", thì được ăn. Ðó gọi là nghi.                                                            Cũng thế, tất cả mọi sinh                              vật hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi cũng đều như vậy.                                                           Ðó gọi là vì mình mà                              người ta giết súc vật.                                                           THỊT NGƯỜI.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, trong thành Xá-vệ có một Ưu bà tắc                              tên Tủy Ti, bà vợ cũng tên Tủy Ti, lại có một                              Tỉ-kheo khách cũng tên Tủy Ti. Ưu bà tắc nghe thế                              liền suy nghĩ: "Sư phụ cùng tên với ta, ta hãy đến                              mời thầy thọ trai", bèn đi đến tinh xá mời về nhà,                              sửa soạn các thức ẩm thực cúng dường. Ðoạn, ông cúi                              đầu đảnh lễ dưới chân, quì gối chắp tay bạch rằng:                                                           - Kính xin tôn giả nhận                              (486b) bốn sự cúng dường của con, là: y phục, ẩm                              thực, sàng tọa và thuốc chữa bệnh.                                                           Tỉ-kheo nhận lời mời. Thế                              rồi, ông chồng phải theo khách buôn đi xa, bèn dặn                              dò bà vợ:                                                           - Tôi đi xa, bà ở nhà                              phải lo cúng dường sư phụ chu đáo, chớ để thiếu thốn.                                                           Sau khi ông đi rồi, vị                              Tỉ-kheo thấy trong người không điều hòa, muốn uống                              thuốc xổ, liền nói với Ưu bà di:                                                           - Tôi muốn uống thuốc xổ,                              bà có thể tùy thời theo thứ tự lo giúp thức ăn được                              không?                                                           - Dạ thưa được.                                                           Sau khi thầy uống thuốc                              xổ, theo thứ tự bà cho dùng những thức ăn phù hợp                              với bệnh như cháo lỏng, cháo đặc rồi đến thịt. Bà                              lấy một số tiền đưa đứa tớ gái bảo:                                                           - Ngươi cầm số tiền này                              đi mua thịt đem về.                                                           Ðứa tớ gái bèn đi ra chợ,                              nhưng hôm đó nhằm ngày ăn chay không có ai mổ thịt                              nên không mua được, phải về tay không. Lúc ấy, Ưu bà                              di lòng không vui, suy nghĩ: "Sư phụ uống thuốc, nếu                              không có thức ăn hợp với bệnh, sợ e bệnh nặng thêm".                              Nghĩ thế, bà lấy hạt cải đem nghiền, rồi tẩm với dầu,                              đoạn đi vào phòng, dùng dao bén cắt thịt bắp vế đưa                              cho nữ tì, bảo:                                                           - Ngươi dùng dầu hạt cải                              rửa sạch miếng thịt này, rồi nấu chín đem đến cho                              thầy, hỏi thầy ngày mai cần thức ăn gì nữa?                                                           Ðứa nữ tì theo lời dạy,                              nấu thịt chín đưa đến, rồi hỏi thầy:                                                           - Ngày mai thầy cần ăn                              món gì?                                                           - Thôi đừng đem đến nữa.                                                           Khi ấy, Ưu bà di bị vết                              thương đau đớn nên nằm nghỉ. Người chồng đi buôn trở                              về (không thấy bà vợ ra đón) liền nghĩ: "Thường khi                              ta đi xa về, bà vợ ra tận cửa thứ hai, thứ ba nghênh                              đón, hôm nay vì sao không thấy ra đón". Ðoạn, ông                              vào phòng, thấy bà vợ đang nằm trên giường liền nổi                              giận mắng:                                                           - Vì sao ngươi khinh ta                              không ra đón tiếp?                                                           - Ông đi lần này có công                              đức gì mà muốn tôi phải ra nghênh đón?                                                           - Ta đi chuyến này được                              cả trăm nghìn vạn bạc.                                                           - Ðó là thứ tài sản bên                              ngoài có gì là ghê gớm đâu! Còn tôi thì đã tự cắt                              thịt mình để cung cấp cho sư phụ.                                                           - Bà cắt ở chỗ nào vậy?                                                           Bà vợ liền vén y phục lên                              chỉ cho xem. Ông chồng thấy thế ngất xỉu, nằm sóng                              soải trên đất. Lúc ấy, quỉ thần thấy vậy liền báo                              với Tỉ-kheo, Tỉ-kheo nghe thế bèn nhập từ tam muội                              dùng định lực truyền cảm khiến bà vợ bình phục lại                              như trước. Ðoạn, bà nói với chồng:                                                           - Ðứng dậy! Ðứng dậy!                              Ðừng sợ, nhờ uy thần của sư phụ mà vết thương của                              tôi đã bình phục rồi.                                                           Người chồng đứng dậy thấy                              vết thương của vợ đã bình phục, lòng rất hoan hỷ,                              liền đi đến nơi thị tứ, nói như sau:                                                           - Bà vợ tôi tinh tấn bằng                              cách cắt thịt trên mình để cúng dường.                                                           Mọi người nghe thế, liền                              chê trách:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              ăn thịt người?                                                           Các Tỉ-kheo đem sự việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo                              ấy đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn! Vì con không nhập định (nên không biết).                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép (486c) ăn thịt người.                                                           Lại nữa, khi Phật trú tại                              vườn Lộc Dã Tiên Nhân ở Ba-la-nại, có một Tỉ-kheo                              mắc bệnh vàng da. Lương y nói với thầy:                                                           - Nếu tôn giả uống máu                              người thì có thể khỏi bệnh. Nếu không uống thì sẽ                              chết, không còn có phương kế nào khác.                                                           Lúc ấy, có một người phạm                              vương pháp, bị bắt trói ngoặt hai tay ra sau lưng,                              mình khoác vòng hoa Ca tì la, lính đánh trống tuyên                              đọc án lệnh, dẫn đến pháp trường. Tỉ-kheo đến chỗ                              tên đao phủ nói:                                                           - Này tráng sĩ! Cho tôi                              uống máu của người này nhé!                                                           Tên đao phủ nói:                                                           - Nếu thầy muốn ăn thịt                              tôi cũng cho huống gì là máu!                                                           Y liền đặt tội nhân ngồi                              dưới đất, lấy dao cắt mạch máu hai bên yết hầu cho                              máu chảy ra. Tỉ-kheo bèn dùng hai tay bụm lấy máu mà                              uống, bị người đời chê trách rằng:                                                           - Ðây không phải là                              Tỉ-kheo mà là quỉ uống máu người.                                                           Thế rồi, họ dùng gạch, đá,                              đất cục ném Tỉ-kheo đó đến què chân, khi ấy mới                              thoát được. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên                              Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy                              đến rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Này Tỉ-kheo! Ðó là việc                              ác, yêu quí mạng sống của mình đến như vậy sao? Từ                              nay về sau Ta không cho phép uống máu người, cho đến                              tủy người; tất cả đều không được uống. Nếu Tỉ-kheo                              mọc mụt nhọt trên đầu mà thầy thuốc bảo phải mài                              xương người thoa mới lành thì được thoa. Nhưng khi                              đã thoa thì không được ở trong chúng mà nên ở trong                              một căn phòng nhỏ bên cạnh; đến khi khỏi bệnh phải                              tắm rửa sạch sẽ rồi mới được vào trong chúng.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại Tì-xá-li, có một giống người chuyên ăn thịt rồng,                              các Tỉ-kheo cũng ăn thịt rồng. Vì thế mà rồng bị sát                              hại rất nhiều. Khi ấy có một Long nữ đến đứng trước                              giường của Thế Tôn, khóc lóc. Phật biết nhưng vẫn                              hỏi:                                                           - Vì sao mà ngươi khóc?                                                           - Bạch Thế Tôn! Có người                              ở Tì-xá-li này ăn thịt rồng, các Tỉ-kheo cũng ăn                              thịt rồng, vì thế mà rồng bị sát hại rất nhiều, kính                              xin Thế Tôn đừng cho các Tỉ-kheo ăn thịt rồng.                                                           Bấy giờ, Thế Tôn tùy                              thuận thuyết pháp chỉ dạy, khiến Long nữ hoan hỷ rồi                              cáo lui. Ðoạn, Thế Tôn đi đến chỗ đông đúc các                              Tỉ-kheo, trải tọa cụ ra ngồi, thuật lại đầy đủ sự                              việc trên với các Tỉ-kheo. Rồi Phật chế định:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép ăn thịt rồng, máu rồng, xương rồng, gân                              rồng, tủy rồng, nói chung tất cả đều không cho ăn.                              Nhưng nếu có các bệnh ngoài da cần xương rồng thì                              được dùng xương rồng mài thành bột để thoa, không có                              tội.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Vương Xá, lúc ấy, con voi của vua Bình Sa chết, có                              những bọn chiên đà la ti tiện đem ăn thịt, trong các                              Tỉ-kheo, có người cũng ăn. Bấy giờ, đồng tử Kỳ Cựu                              đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng                              hầu một bên, bạch với Phật:                                                           - Bạch Thế Tôn! Con voi                              của vua Bình Sa chết (487a) có những kẻ Chiên đà la                              ti tiện đem ăn thịt, các Tỉ-kheo có người cũng ăn mà                              Tỉ-kheo là người xuất gia được người ta kính trọng,                              vậy xin Thế Tôn đừng cho họ ăn thịt voi.                                                           Thế Tôn bèn tùy thuận                              thuyết pháp chỉ dạy khiến đồng tử được lợi ích, hoan                              hỷ liền cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật mà cáo lui.                              Khi ấy, Thế Tôn đi đến chỗ có đông các Tỉ-kheo, trải                              tọa cụ ngồi, thuật lại đầy đủ sự việc trên với các                              Tỉ-kheo. Rồi Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho ăn thịt voi cho đến tủy voi cũng không cho ăn.                              Nhưng dùng ngà voi, xương voi làm vật để kiền bát,                              làm khuy y thì không có tội.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Vương Xá, lúc ấy con ngựa của vua Bình Sa chết, cũng                              như trường hợp con voi đã nói ở trên. Nếu ở ngoài da                              có bệnh ghẻ nhọt cần máu ngựa để bôi thì dùng để bôi                              không có tội. Nhưng khi đã bôi thì không được ở                              trong chúng mà nên ở một căn phòng nhỏ ở bên cạnh                              phòng Tăng.                                                            Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, vì các Tỉ-kheo ăn thịt chó nên khi                              vào xóm làng bị các con chó chạy theo sủa vang. Các                              Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn cho đến                              Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép ăn thịt chó, tủy chó cũng đều không cho ăn.                              Nhưng nếu bị chó cắn cần đốt lông chó bôi vào vết                              thương thì được dùng, không có tội.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, có một Tỉ-kheo ăn thịt quạ. Lúc                              thầy vào xóm làng khất thực, hoặc khi đi kinh hành                              trong rừng thì bầy quạ bay theo kêu vang. Các                              Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến                              Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép ăn thịt quạ cũng như tủy quạ.v.v... đều                              không cho phép ăn. Nhưng nếu cần lông cánh dùng để                              trị bệnh ngoài da thì được dùng không có tội.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, có một Tỉ-kheo ăn thịt diều hâu.                              Lúc thầy đi kinh hành trong rừng bị bầy diều hâu bay                              theo kêu vang. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch                              lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép ăn thịt diều hâu, cũng như tủy diều hâu đều                              không được ăn. Nếu cần lông cánh trị bệnh ngoài da                              thì được phép dùng không có tội.                                                           Tóm lại, các loại thực                              phẩm kể sau không được ăn:                                                           1- Thịt người.                               Nếu cần dùng tỏi để bôi                              vết thương ở ngoài da thì được dùng. Nhưng khi đã                              bôi thì không được vào trong chúng mà nên ở một căn                              phòng nhỏ bên cạnh phòng Tăng. Khi bệnh lành phải                              tắm rửa sạch sẽ rồi mới được vào trong chúng. Ðó gọi                              là phép dùng thịt, tỏi.                                                           PHÉP DÙNG DA.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến nhà (487b)                              một người chăn trâu, ngồi trên giường. Bỗng có con                              trâu nghé mới sinh thấy màu y của Tỉ-kheo giống mẹ                              nó, nó liền chạy đến bên thầy. Tỉ-kheo dùng tay xoa                              trên đầu, vuốt nhè nhẹ nói như sau:                                                           - Da con này mềm mại, đẹp                              đẽ, có thể làm tọa cụ được.                                                           Lúc ấy, người chăn trâu                              suy nghĩ: "Vị Tỉ-kheo này vốn là chỗ quen biết của                              vua, đại thần quí hiển, có thế lực lớn đang muốn                              được tấm da con này", liền hỏi:                                                           - Thầy đang cần da sao?                              Tôi sẽ cho.                                                           - Hãy cho tôi tấm da con                              trâu nghé này đây.                                                           - Trong nhà tôi có tấm da                              khô của con trâu nghé cũng mềm mại, đẹp đẽ, tôi sẽ                              chải chuốt thẳng thớm rồi cho thầy.                                                           - Nếu ông muốn cho thì                              hãy cho tôi tấm da con này chứ tôi không cần cái                              khác.                                                           Lúc ấy, người chăn trâu                              liền suy nghĩ: "Vị Tỉ-kheo này có thế lực lớn, có                              thể gây ra điều bất lợi cho ta". Vì sợ tai họa, ông                              ta liền giết con nghé trước mặt Tỉ-kheo, rồi lột da                              cho thầy. Lúc con trâu mẹ đi ăn trở về không thấy                              con mình, đi quanh các bờ rào kêu vang. Người chăn                              trâu liền oán trách:                                                           - Sa-môn Thích tử mà                              không có lòng từ. Nếu Sa-môn ở vào hoàn cảnh con                              trâu mẹ thì tâm ý sẽ như thế nào?                                                           Các Tỉ-kheo đem sự việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,                              Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi:                                                           - Này các Tỉ-kheo! Các                              ông có việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                           - Này các Tỉ-kheo! Ðó là                              việc ác. Vì sao các ông                              bảo người ta giết sinh vật ngay trước mắt mình?                              Từ nay về sau, Ta không cho phép dùng da. Da gồm có                              các loại: da bò, da trâu, da cọp, da báo, da gấu, da                              nai; đại loại tất cả các loại da như vậy đều không                              được dùng để ngồi, chỉ cho phép dùng da dê ở biên                              địa thứ nô mà thôi. Da dê có hai loại: một là dê đen,                              hai là dê lang. Và dê đen, dê lang mỗi loại được                              chia làm mười thứ như trên kia đã nói. Nếu ngồi trên                              da thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu ngồi trên nệm bông                              đặt trên da thì phạm hai tội Việt tỳ ni. Nếu ngồi                              trên giày da thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu nằm trên                              giày da thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu nằm trên giày                              da từ đầu gối trở lên thì phạm tội Việt tỳ ni; nhưng                              nếu từ đầu gối trở xuống thì không có tội. Hoặc dùng                              da làm giường ngồi lên trên thì không có tội. (Ðó                              gọi là phép dùng da).                                                           VẬT LAU CHÂN.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà sắm các vật để                              lau chân, đệ tử ngoại đạo thấy thế suy nghĩ: "Chúng                              ta hãy cùng nhau quấy nhiễu kẻ ưu bà tắc kia" như                              trong vấn đề mạt vụn ở trên đã nói rõ cho đến Phật                              dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép dùng các vật để làm đồ lau chân. Ðồ lau                              chân hoặc vuông, hoặc tròn, nếu khắc trên chớp có                              hình hạt đậu ma sa, đậu môn cụ thì tất cả đều không                              cho dùng. Nếu dưới chân bị dơ bẩn thì được phép dùng                              cỏ vo tròn lại, (487c) hoặc dùng gạch, ngói để chùi.                              Ðó gọi là vật dùng để lau chân.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Vương Xá, lúc ấy, nhằm ngày lễ hội, trai gái ra khỏi                              thành đi du ngoạn, nhóm sáu Tỉ-kheo dùng màu xanh da                              trời và màu đen trang điểm đôi mắt nên bị người đời                              chê cười rằng:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              mà giống như những đồng tử quí hiển, dùng màu xanh                              da trời trang điểm đôi mắt?                                                           Có người thấy trang điểm                              màu đen thì nói:                                                           - Sa-môn Thích tử giống                              như sứ giả của kẻ hạ tiện, dùng màu đen bôi lên mắt                              mà đi. Ðây là hạng người bại hoại nào có đạo hạnh gì!                                                           Các Tỉ-kheo đem sự việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn cho đến Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép trang điểm mắt.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, ở trong vườn Am Bà La của đồng tử                              Kỳ Cựu. Bấy giờ, các Tỉ-kheo bị đau mắt, đồng tử Kỳ                              Cựu nói:                                                           - Tôn giả có thể dùng                              loại thuốc này để bôi mắt.                                                           - Ðức Thế Tôn chế giới                              không cho phép bôi mắt.                                                           - Tôi sẽ đến xin Thế Tôn                              cho phép việc này.                                                           Thế rồi, ông đến chỗ Phật,                              cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, bạch                              với Phật:                                                           - Bạch Thế Tôn! Các                              Tỉ-kheo là những người ăn mỗi ngày một bữa, mắt là                              bộ phận trọng yếu của con người, xin Thế Tôn cho                              phép các Tỉ-kheo bôi thuốc vào mắt.                                                           - Từ nay về sau, Ta cho                              phép dùng thuốc bôi mắt, chỉ trừ thuốc màu xanh da                              trời. Nhưng nếu thầy thuốc nói: "Thưa tôn giả! Bệnh                              đau mắt này nếu được thuốc có màu xanh da trời bôi                              vào thì mới lành, ngoài ra không có phương kế nào                              khác". nếu như vậy thì được bôi. Khi đã bôi thuốc                              thì không được ở trong chúng mà nên ở một căn phòng                              nhỏ cạnh phòng chúng Tăng. Khi bệnh lành phải tắm                              rửa sạch sẽ rồi mới vào trong chúng.                                                           Ðó gọi là thuốc bôi mắt.                                                           LỌ ÐỰNG THUỐC NHỎ MẮT.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, các Tỉ-kheo dùng lá cây đựng thuốc                              nhỏ mắt, Phật biết nhưng vẫn hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ðây là cái                              gì vậy?                                                           - Ðó là thuốc nhỏ mắt,                              bạch Thế Tôn!                                                            - Thuốc nhỏ mắt là vật                              quí nên dùng lọ mà đựng.                                                           Thế rồi, các Tỉ-kheo dùng                              vàng bạc làm lọ đựng thuốc. Phật dạy:                                                           - Ta không cho phép dùng                              vàng bạc và tất cả các vật báu làm lọ, mà nên dùng                              đồng, sắt, thiết, tre, lau, lông, cánh chim, ít nhất                              là làm bao da để đựng.                                                           Ðó gọi là lọ đựng thuốc                              nhỏ mắt.                                                           QUE BÔI THUỐC VÀO MẮT.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo dùng tre làm que bôi thuốc                              vào mắt, Phật biết mà vẫn hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ðây là cái                              gì vậy?                                                           - Bạch Thế Tôn! Ðó là cái                              que để bôi thuốc vào mắt.                                                           - Ðôi mắt là bộ phận mềm                              mại, nên dùng vật trơn để làm que.                                                           Thế rồi, Tỉ-kheo dùng                              vàng bạc để làm. Phật dạy:                                                           - Ta không cho phép dùng                              vàng bạc và tất cả những bảo vật để làm, mà nên dùng                              đồng sắt, răng, xương, chiên đàn, gỗ cứng để làm,                              rồi bào chuốt cho trơn tru ít nhất là dùng ngón tay                              để bôi thuốc. Ðó gọi là que bôi thuốc vào mắt.                                                           PHÉP DÙNG Ô DÙ.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Vương Xá, lúc ấy, nhằm ngày lễ hội của người đời,                              trai gái đi dự lễ, nhóm sáu Tỉ-kheo cầm dù ô nhiều                              (488a) màu sắc, có người còn cầm ô dù bằng vỏ cây,                              bị người đời chê bai rằng:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              mà giống như vương tử, đại thần cầm ô dù với nhiều                              màu sắc?                                                           Có kẻ thấy họ cầm dù bằng                              lá cây thì nói:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              mà giống như sứ giả của kẻ hạ tiện, cầm ô dù bằng lá                              cây mà đi? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo                              hạnh gì!                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép dùng ô dù.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, lúc ấy, trưởng lão A Na Luật, Kim                              Tỳ La an cư tại núi Tháp vừa xong, trở về thành                              Xá-vệ, lễ bái Thế Tôn. Phật biết nhưng vẫn hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Vì sao                              trên y bị muối đóng bẩn như vậy?                                                           - Vì Thế Tôn chế giới                              không cho phép đội dù, con đi khất thực bị mắc mưa                              nên mới ra nông nổi này.                                                           - Từ nay về sau, Ta cho                              phép đội dù. Các loại dù như dù bằng vỏ cây, dù bằng                              lá cây, dù tre, đại loại các thứ như thế đều cho                              phép dùng. Nhưng không cho phép dùng loại dù có                              nhiều màu sắc.                                                            Ðó gọi là phép dùng ô dù.                                                           PHÉP DÙNG QUẠT.                                                           Vào ngày lễ hội của người                              đời, trai gái đi du ngoạn đông đảo, nhóm sáu Tỉ-kheo                              cầm quạt được trang điểm bằng vân mẫu, có vị cầm                              quạt nan bị người đời chê cười rằng:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              mà giống như vương tử đại thần cầm quạt được trang                              điểm bằng vân mẫu?                                                           Có người thấy họ cầm quạt                              bằng nan liền phê bình:                                                           - Vì sao Sa-môn Thích tử                              mà giống như sứ giả của kẻ hạ tiện cầm quạt nan. Ðây                              là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc đó đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, Ta không                              cho phép cầm quạt.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại Tì-xá-li, vì bị muỗi quấy rối trong phòng thiền,                              các Tỉ-kheo dùng y để quạt phát ra tiếng kêu. Phật                              biết nhưng vẫn hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Các ông                              làm gì mà phát ra tiếng kêu giống như voi vẫy tai                              vậy?                                                           - Bạch Thế Tôn! Vì Thế                              Tôn chế giới không cho dùng quạt, các Tỉ-kheo bị                              muỗi cắn phải dùng y quạt muỗi nên phát ra tiếng kêu                              như vậy.                                                           - Từ nay về sau, Ta cho                              phép dùng quạt tre, quạt sậy, quạt lá cây, chỉ trừ                              quạt vân mẫu và quạt được vẽ nhiều màu sắc. Nhưng                              nếu quạt của Tăng thì vẽ nhiều màu sắc không có tội.                              Còn quạt riêng cá nhân thì phải hoại sắc. Nếu có                              người dùng hương thơm bôi trên quạt rồi đem đến cúng                              dường thì được phép chùi sạch rồi sử dụng.                                                           Ðó gọi là phép dùng quạt.                                                           PHÉP DÙNG PHẤT TRẦN.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Vương Xá, lúc ấy, nhằm ngày lễ hội, nam nữ đi du                              ngoạn, nhóm sáu Tỉ-kheo cầm phất trần bằng lông đuôi                              trâu trắng có cán nạm vàng bạc, bị người đời chê                              cười, cho đến Phật dạy:                                                           - Từ nay về sau, ta không                              cho phép cầm phất trần.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại Tì-xá-li, (488b) vì trong phòng thiền bị muỗi                              quấy rầy nên các Tỉ-kheo dùng phất trần bằng lá cây                              đập muỗi kêu ra tiếng. Phật biết nhưng vẫn hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ðó là                              tiếng gì vậy?                                                           - Bạch Thế Tôn! Vì Thế                              Tôn chế giới không cho phép cầm phất trần nên các                              Tỉ-kheo dùng phất trần bằng lá cây đuổi muỗi mà phát                              ra tiếng.                                                           - Từ nay về sau, Ta cho                              phép dùng phất trần. Phất trần gồm các loại: Phất                              trần bằng chỉ sợi, bằng vải tua, bằng cỏ rối, bằng                              vỏ cây. Trong đây chỉ trừ phất trần bằng đuôi trâu                              trắng, đuôi ngựa trắng có cán nạm vàng bạc, ngoài ra                              tất cả đều cho phép dùng. Nếu có màu trắng nên nhuộm                              cho hoại sắc thì được dùng. Khi cầm phất trần không                              được làm ra dáng ẻo lả như kiểu dâm nữ cầm phất trần.                                                           Ðó gọi là phép dùng phất                              trần.                                                           Kệ tóm tắt:                                                           Giết cho mình, ăn thịt                              người,                                PHÉP DÙNG DAO CHỮA TRỊ.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo mắc bệnh trĩ, nói với thầy                              thuốc:                                                           - Này lão trượng! Ông có                              thể dùng dao chữa trị bệnh cho tôi được không?                                                           - Thưa được.                                                           Thế rồi, y sĩ liền suy                              nghĩ: "Các Sa-môn này thông minh trí tuệ nếu họ thấy                              ta chữa bệnh thì sẽ học lóm, rồi không cần ta nữa".                              Ðoạn ông ta bảo các Tỉ-kheo đi hết, rồi ông định làm                              điều phi pháp, thì vị Tỉ-kheo này sinh nghi, liền                              gọi các Tỉ-kheo:                                                           - Các trưởng lão hãy đến,                              vị y sĩ này muốn làm điều phi pháp.                                                           Các Tỉ-kheo nghe thế liền                              đi vào. Y sĩ khi ấy hoảng sợ bèn bỏ dao mà chạy. Các                              Tỉ-kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn.                              Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến                              rồi, Phật hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Này Tỉ-kheo! Vì sao ông                              để cho y sĩ dùng dao chữa trị chỗ hệ trọng? Từ nay                              về sau, Ta không cho phép dùng dao chữa trị chỗ hệ                              trọng. Chỗ hệ trọng là nơi cách xung quanh hậu môn                              bốn lóng tay. Nếu bị bệnh ung thư, sảy càng thì Ta                              cho phép nhai gạo tiểu mạch trộn với phân gà đắp lên                              trên mụt để cho nung mủ, rồi nhờ bạn cùng Hòa                              Thượng, A xà lê chích lể ra. Nếu các nơi khác bị                              bệnh ung thư, sảy càng cần dùng dao chữa trị thì                              được phép dùng. Nếu ai dùng dao chữa trị chỗ hệ                              trọng thì phạm tội Thâu lan.                                                            Ðó gọi là dùng dao trị                              bệnh.                                                           TÚI CHỨA NƯỚC.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, có một Tỉ-kheo bệnh đau đầu bèn hỏi y sĩ:                                                           - Này lão trượng! Ông có                              thể rót nước chữa bệnh cho tôi được không?                                                           - Có thể được.                                                           Thế rồi, ông suy nghĩ:                              "Các Sa-môn Thích tử này thông minh, trí tuệ, nếu                              thấy ta rưới nước chữa bệnh thì về sau sẽ không gọi                              ta nữa". Cho đến ông bỏ túi đựng nước mà chạy. Các                              Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. (488c)                              Thế rồi, Phật khiển trách:                                                           - Vì sao ông dùng túi rót                              nước trị bệnh? Từ nay về sau, Ta không cho phép dùng                              túi chứa nước. Túi gồm có các loại: túi da bò, túi                              da trâu, túi da dê. Tất cả các loại túi da như thế                              đều không được dùng để chứa nước. Nếu y sĩ nói:                              "Bệnh này cần dầu để tẩm", thì nên lấy gỗ khoét đựng                              dầu vào dùng vải quấn lại đem đặt trong nhà tắm,                              ngồi lên trên, miệng ngậm mía. Hoặc dùng vải bông                              xếp lại rồi tẩm dầu vào, đặt trên một vật gì để chừa                              lỗ trống cho dầu nhỏ xuống chỗ bị đau thì không có                              tội. Nếu dùng túi da đựng nước thì phạm tội Thâu                              lan.                                                           Ðó gọi là túi chứa nước.                                                           PHÉP CẠO TÓC.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy có một khách buôn ở ấp Ðại Lâm thuộc                              một nước ở phương Nam lùa đàn trâu 8 con đến nước                              Câu Ða ở phương Bắc. Lại có một khách buôn khác cùng                              ông ta thả trâu ăn chung trong chằm. Lúc ấy, người                              Li xa bắt rồng ăn thịt, bắt được một Long nữ. Hôm                              ấy, Long nữ thọ Bố tát, không có tâm sát hại nên cứ                              để mặc người kia xỏ mũi dắt đi. Người khách buôn                              thấy hình dung Long nữ đoan chính khởi lòng từ, bèn                              hỏi đồng tử Li xa:                                                           - Ông dắt con rồng này đi                              đâu, định làm gì đấy?                                                           - Tôi định giết để ăn                              thịt.                                                           - Ðừng giết, tôi sẽ đưa                              ông một con trâu đổi lấy con rồng này để thả đi.                                                           Thế nhưng đồng tử Li xa                              không chịu, cuối cùng người kia chịu đổi 8 con trâu,                              Li xa mới nói:                                                           - Con rồng này thịt rất                              ngon, nay vì ông mà tôi phải thả nó.                                                           Ðoạn, y nhận lấy 8 con                              trâu, thả Long nữ đi. Bỗng chốc, khách buôn suy                              nghĩ: "Kẻ này là người ác, e rằng y sẽ đuổi theo                              Long nữ để bắt lại". Nghĩ thế, ông đi theo người ấy                              đến bên ao. Bấy giờ, Long nữ biến thành người, nói                              với khách buôn:                                                           - Ngài đã cứu mạng tôi,                              tôi muốn báo ân, ngài hãy xuống long cung, tôi sẽ                              đền ân ngài.                                                           - Không thể được! Loài                              rồng của các ngươi tâm tính hung bạo, giận dữ bất                              thường, biết đâu lại giết hại ta!                                                           - Không có chuyện đó! Kẻ                              kia cột tôi, tôi dư sức giết y nhưng vì tôi thọ Bố                              tát nên không có tâm giết hại, huống gì nay ngài đã                              cho tôi mạng sống mà tôi lại hại ngài sao? Nếu ngài                              không đi thì hãy dừng lại đây chốc lát để tôi vào                              trước trong cung tấu trình.                                                           Thế rồi, Long nữ đi vào                              cung. Lúc ấy, trông thấy hai con rồng bị cột tại một                              chỗ trước long môn, người khách buôn liền hỏi chúng:                                                           - Các ngươi vì việc gì mà                              bị trói?                                                           - Long nữ này trong nửa                              tháng thọ chay lạt ba ngày, anh em chúng tôi giữ gìn                              nó không cẩn thận khiến nó bị đồng tử Li xa bắt                              được, vì thế mà chúng tôi bị trói. Mong ngài từ mẫn                              hãy nói giúp để họ thả chúng tôi. Ở long cung có                              loại thức ăn, ăn vào đến lúc chết mới tiêu hóa, có                              loại ăn vào 20 năm sau mới tiêu hóa, có loại 7 năm                              mới tiêu hóa và có loại thức ăn của cõi Diêm phù đề.                              Nếu Long nữ hỏi ngài muốn ăn loại thức ăn nào thì                              nên đòi thức ăn của loài người cõi Diêm phù đề.                                                           (489a) Long nữ vào tấu                              trình xong, bèn gọi khách buôn vào ngồi trên giường                              nệm châu báu, rồi thưa:                                                           - Nay ngài muốn ăn thức                              ăn gì? Muốn ăn một lần đến lúc chết mới tiêu hóa...?                                                           - Muốn ăn thức ăn của                              loài người ở cõi Diêm phù đề.                                                           Long nữ dọn lên các thức                              ẩm thực. Khách buôn liền hỏi Long nữ:                                                           - Hai con rồng kia vì sao                              mà bị trói?                                                           - Ngài chỉ nên ăn thôi,                              chứ hỏi làm gì?                                                           - Không phải vậy, tôi                              muốn biết điều đó!                                                           Ông cứ hỏi mãi, Long nữ                              đành phải nói:                                                           - Kẻ này có lỗi, tôi muốn                              giết hắn.                                                           - Ngươi đừng giết.                                                           - Không thể được! Phải                              giết đi thôi.                                                           - Ngươi thả hắn ra thì ta                              mới ăn.                                                           - Không thể thả ngay được                              mà phải phạt hắn bằng cách đày lên cõi người sáu                              tháng.                                                           Thế là Long nữ phạt hắn                              lên nhân gian sáu tháng. Khách buôn thấy Long cung                              có nhiều bảo vật được dùng để trang hoàng cung điện,                              liền hỏi long nữ:                                                           - Ngươi đã được những thứ                              trang nghiêm quí báu như vậy, còn thọ Bố tát làm chi                              nữa?                                                           - Cái kiếp rồng của tôi                              có 5 sự khổ, đó là: Lúc sinh ra hiện thân rồng; lúc                              ngủ hiện thân rồng; lúc hành dâm hiện thân rồng; lúc                              giận dữ hiện thân rồng; lúc chết hiện thân rồng.                              Trong một ngày trải qua ba lần da thịt bị dính vào                              cát nóng thiêu thân.                                                           - Thế thì ngươi muốn cầu                              điều chi?                                                           - Tôi muốn cầu được sinh                              làm người. Vì sao vậy? Vì trong loài súc sinh đau                              khổ, không có chánh pháp.                                                           - Ta đã được thân người,                              vậy nên cầu điều gì?                                                           - Xuất gia rất khó được                              (vậy nên cầu xuất gia).                                                           - Nên theo ai xuất gia?                                                           - Ðức Như Lai Ứng Cúng                              Chánh Biến Tri hiện nay đang ở tại thành Xá-vệ,                              những kẻ chưa độ thì Ngài cứu độ, những kẻ chưa giải                              thoát thì Ngài làm cho giải thoát, ông nên đến đó                              xuất gia.                                                           - Ta muốn trở về.                                                           Long nữ liền cho ông 8                              bánh vàng rồi bảo:                                                           - Ðây là vàng của rồng đủ                              cho cha mẹ, bà con ông dùng suốt đời không hết. Giờ                              ông hãy nhắm mắt lại.                                                           Thế rồi, Long nữ dùng sức                              thần biến đưa ông trở lại cố quốc. Người bạn đồng                              hành của ông trước đây đã đến báo tin cho gia đình                              ông biết là ông đã xuống Long cung. Do thế, cha mẹ                              ông tưởng con mình đã chết cho nên quyến thuộc tôn                              thân tụ họp nhau một chỗ khóc lóc tiếc thương. Lúc                              ấy, người chăn trâu và những người đốn củi thấy ông                              trở về, liền vội vàng đến báo tin cho gia đình ông:                                                           - Mỗ giáp đã trở về rồi.                                                           Người nhà nghe thế vô                              cùng hân hoan, liền ra đón tiếp đưa ông về nhà. Khi                              về nhà rồi, gia đình mở hội ăn mừng việc ông được                              sống lại. Thế rồi, ông lấy 8 bánh vàng tặng cho cha                              mẹ, nói:                                                           - Ðây là vàng của rồng,                              cắt rồi liền nguyên lại, dùng suốt đời cũng không                              hết, xin cha mẹ cho phép con xuất gia.                                                           Nhưng cha mẹ không cho.                              Ông liền đi đến tinh xá Kỳ Hoàn, Tỉ-kheo bèn độ cho                              xuất gia. Cha mẹ sau đó đi đến cửa tinh xá hỏi các                              Tỉ-kheo:                                                           - Các vị có biết mỗ giáp                              đâu không?                                                           Tất cả đều đáp:                                                           - Không thấy, không nghe.                                                           Nhưng có một Tỉ-kheo nói:                                                           - (489b) Ông chỉ cần đứng                              nơi cửa này, nếu có thì trong chốc lát y sẽ ra vào!                                                           Nghe lời chỉ dẫn, người                              ấy đứng đợi một lát liền thấy con mình đi ra, bèn                              chê trách:                                                           - Sa-môn Thích tử nói                              dối, thấy mà nói không thấy, nghe mà nói không nghe.                                                           Người con khuyên cha mẹ:                                                           - Ðừng làm những việc                              không lợi ích. Con xuất gia ở đây ai cũng đều biết                              cả.                                                           Thế rồi, cha mẹ đi đến                              chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, ngồi sang một                              bên. Phật liền thuyết pháp dạy bảo khiến họ được lợi                              ích hoan hỷ, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Ðoạn, họ nói                              với con:                                                           - Chúng ta đều là những                              người được sống lại. Nay con xuất gia được lợi ích                              rất lớn.                                                           Các Tỉ-kheo nghe những                              lời chê trách của họ vừa rồi đem sự việc ấy đến bạch                              lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo đã độ người                              xuất gia đến. Khi thầy đến rồi, Phật hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Vì sao ông không bạch                              với chúng mà độ người xuất gia? Từ nay về sau, Ta                              không cho phép không bạch với chúng Tăng mà độ người                              xuất gia. Cần phải bạch khi cho xuất gia và khi cạo                              đầu. Bạch nghĩa là bạch với tất cả chúng Tăng, ít                              nhất là bạch với 8 thượng tọa. Và Thượng Tọa nên bảo                              làm cho đúng pháp. Nếu bạch cạo đầu mà không bạch                              xuất gia thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu cả hai đều có                              bạch thì không có tội. Nếu không bạch xuất gia cũng                              không bạch cạo đầu thì phạm hai tội Việt tỳ ni. Nếu                              ra ngoài cương giới độ người thì không có tội. Ðó                              gọi là cạo đầu.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại tinh xá Trúc Viên Ca Lan Ðà, thành Vương Xá, đức                              Như Lai độ người ở mọi nơi, nào là Tỉ-kheo, Tỉ-kheo                              ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, trưởng giả,                              ngoại đạo, Sa môn, Bà la môn. Bấy giờ, Phật nói với                              các Tỉ-kheo:                                                           - Từ nay về sau, các ông                              cũng nên độ người xuất gia, thọ Cụ túc.                                                           Thế rồi, các Tỉ-kheo cũng                              bắt chước đức Như Lai gọi "Thiện lai" khi độ người                              xuất gia nhưng râu tóc vẫn còn nguyên vẹn. Phật liền                              bảo các Tỉ-kheo:                                                           - Ðâu có phải tất cả đều                              được kim khẩu vô úy như Như Lai, (hễ khi gọi Thiện                              lai thì) râu tóc tự rụng. Từ nay về sau, phải cạo                              tóc.                                                           Thế rồi, khi cạo tóc, các                              Tỉ-kheo cạo tóc mà không cạo râu, hoặc cạo râu mà                              không cạo tóc. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch                              lên Thế Tôn. Phật dạy:                                                           - Phải cạo tất cả, khi                              cạo, trước nên cạo râu, sau cạo tóc. Nếu người được                              cạo khó tính thì cạo tóc trước không có tội. Ðối với                              người mới xuất gia không nên nói với họ rằng xuất                              gia sướng mà nên bảo rằng xuất gia khổ, nào là: ăn                              ngày một bữa, ở mỗi chỗ một đêm, ngủ một giấc, ăn                              ít, uống ít, ngủ ít, thức nhiều. Này lão trượng! Ông                              có làm được không? Nếu họ đáp: "Ðược", thì mới cạo                              tóc. Nếu đã là Tỉ-kheo thì cạo tóc trước, cạo râu                              sau không có tội.                                  DỤNG CỤ CẠO TÓC.                              Khi Phật du hành nước Câu                              Tát La đến thôn Bà la môn, (489c) lúc ấy có hai cha                              con ông già mang dụng cụ theo xin xuất gia, cho đến                              Phật dạy:                                                           - Vì sao người cạo tóc                              mang dụng cụ theo mà ông độ họ xuất gia? Từ nay về                              sau, Ta không cho phép độ người mang dụng cụ xuất                              gia. Nếu người cạo tóc mang dụng cụ theo muốn xin                              xuất gia thì nên bảo: "Ông hãy bỏ dụng cụ cạo tóc                              rồi tôi mới cho xuất gia. Sau khi xuất gia rồi nếu                              cần thì mượn của kẻ khác mà dùng". Ngoài thợ cạo,                              thì thợ rèn, thợ mộc, thợ kim hoàn, thợ da, thợ dệt                              và các thợ chuyên môn khác cũng thế, đều không cho                              phép độ họ xuất gia khi mang dụng cụ theo. Nếu ai độ                              trong trường hợp như vậy thì phạm tội Việt tỳ ni.                                                            Ðó gọi là dụng cụ làm                              việc.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy tôn giả Ưu-ba-li đi đến chỗ Phật, cúi                              đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, bạch với                              Phật:                                                           - Bạch Thế Tôn! Thế Tôn                              nói phá Tăng, thế nào là phá Tăng?                                                           - Này Ưu-ba-li! Như đại                              đức Tỉ-kheo như pháp như luật khéo hiểu nghĩa lý sâu                              xa thì Tỉ-kheo ấy xứng đáng được lễ bái tôn kính tùy                              thuận nghe theo lời dạy. Nếu có Tỉ-kheo nào cho rằng                              những lời nói của Tỉ-kheo ấy là phi pháp, không tùy                              thuận thì đó là sự xích mích giữa chúng Tăng, chứ                              không phải phá Tăng, cho đến khi nào Tăng trong một                              trú xứ cùng tụng giới, cùng Yết-ma (thì không phải                              phá Tăng). Ta đã chế định rằng nếu trong một cương                              giới, một trú xứ mà Tăng Bố tát, Tự tứ, làm Yết-ma                              riêng thì đó gọi là phá Tăng.                                                           - Bạch Thế Tôn! Phá Tăng                              phạm tội như thế nào?                                                           - Bị tội đọa vào địa ngục                              một kiếp.                                                           Ðó gọi là phá Tăng.                                                           TĂNG HÒA HỢP.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy tôn giả Ưu-ba-li bạch với Phật:                                                           - Bạch Thế Tôn! Thế Tôn                              nói về Tăng hòa hợp, vậy thế nào gọi là Tăng hòa                              hợp?                                                           - Ta đã chế định rằng nếu                              một đại đức Tỉ-kheo sống như pháp, như luật, khéo                              hiểu nghĩa lý sâu xa, thì Tỉ-kheo ấy đáng được lễ                              bái, tôn kính. Các Tỉ-kheo tùy thuận chấp hành các                              qui định, cùng sống trong một trú xứ cùng Bố tát, Tự                              tứ và thực hiện pháp Yết-ma, đó gọi là Tăng hòa hợp.                                                           Lại nữa, tôn giả Ưu-ba-li                              đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu                              một bên, rồi bạch với Phật:                                                           - Bạch Thế Tôn! Tăng hòa                              hợp có những công đức gì?                                                           - Này Ưu-ba-li! Ðược quả                              báo lành trong một kiếp.                                                            Ðó gọi là Tăng hòa hợp.                                                           NĂM TRĂM TỈ-KHEO KẾT TẬP                              PHÁP TẠNG.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Vương Xá, lúc ấy, vua A Xà Thế con bà Vi Ðề Hi có                              mối oán thù với người Tì-xá-li như trong Kinh Ðại                              Bát Nê Hoàn đã nói rõ, cho đến việc đức Thế Tôn xả                              thọ mạng bên tháp Phóng Cung Trượng, tại Tì-xá-li.                              Thế rồi, Ngài hướng đến thành Câu Thi Na, bên dòng                              sông Hi Liên Thiền, sinh quán của lực sĩ, trong rừng                              Kiên cố (490a) bát nê hoàn dưới cây Song thọ. Khi                              sắp hỏa thiêu nơi tháp Thiên Quan thì chư Thiên làm                              cho lửa không cháy để chờ tôn giả Ðại Ca Diếp. Lúc                              ấy, tôn giả Ðại Ca Diếp đang ngồi thiền trong hang                              Tân Bát La trên núi Kỳ Xà Quật, liền suy nghĩ: "Thế                              Tôn đã xả thọ mạng, không biết muốn nhập Niết-bàn                              tại nơi nào? hiện giờ ở đâu? có ít bệnh, ít phiền                              não và sống an lạc không?". Suy nghĩ thế rồi, liền                              nhập định, dùng thiên nhãn quan sát tất cả thế giới                              thì thấy Thế Tôn đang ở thành Câu thi na, bên sông                              Hi liên, sinh quán của lực sĩ trong rừng Kiên cố,                              giữa hai cây Song thọ, sắp được hỏa thiêu tại tháp                              Thiên Quan, (cho đến) lửa không cháy. Thấy thế, tôn                              giả buồn thảm không vui, lại suy nghĩ: "Ngay lúc xá                              lợi của Thế Tôn chưa phân tán, ta nên đến đảnh lễ".                              Ðoạn, tôn giả lại nghĩ: "Giờ đây ta đến để viếng                              thân tối hậu của Thế Tôn thì không nên dùng thần túc                              để đến mà nên đi bộ đến". Nghĩ thế, tôn giả nói với                              các Tỉ-kheo:                                                           - Này các trưởng lão! Ðức                              Thế Tôn đã Bát Nê hoàn, ai nấy đều mang theo y bát                              cùng đến Câu thi na kiệt lễ viếng Thế Tôn.                                                           Các Tỉ-kheo nghe thế, đều                              đáp:                                                           - Lành thay!                                                           Lúc ấy, tôn giả Ðại Ca                              Diếp cùng với các Tỉ-kheo đi đến Câu thi na kiệt.                              Trên đường đi, họ băng qua một thôn xóm. Trong thôn                              này có một Tỉ-kheo già đang sống. Tôn giả Ðại Ca                              Diếp liền bảo Tỉ-kheo già:                                                           - Thầy hãy đem theo y bát                              đến đây, để chúng ta cùng đến thành Câu Thi Na Kiệt                              lễ viếng Thế Tôn.                                                           - Trưởng lão Ðại Ca Diếp!                              Ðợi ăn bữa trước, bữa sau xong rồi chúng ta hãy đi.                                                           - Không nên chờ ăn xong.                                                           Tỉ-kheo già nài nỉ đến ba                              lần, Ðại Ca Diếp đều nói:                                                           - Không nên chờ.                                                           Khi ấy, Tỉ-kheo già nổi                              giận, nói:                                                           - Sa-môn có việc gì mà                              gấp gáp, vội vàng như thế, giống như quạ chết không                              đáng giá một đồng tiền. Hãy đợi trong chốc lát ăn                              rồi mới đi.                                                           Tôn giả Ðại Ca Diếp lại                              nói:                                                           - Hãy để đồ ăn đó đã. Ðức                              Thế Tôn nay đã Nê Hoàn, chúng ta phải đến gấp cho                              kịp lúc chưa hỏa thiêu.                                                           Tỉ-kheo già nghe tin Phật                              đã Ban nê hoàn, liền nói với tôn giả Ðại Ca Diếp:                                                           - Nay ta vĩnh viễn được                              giải thoát. Vì sao thế? Vì vị A la hán ấy lúc còn                              sống thường nói: "Việc ấy nên làm, việc kia không                              nên làm". Nay đã Nê hoàn việc gì nên làm hay không                              nên làm ta đều được tự do tùy ý.                                                           Khi nghe lời nói ấy, Ðại                              Ca Diếp sầu thảm không vui, liền gảy ngón tay phải,                              lửa phóng ra, đồng thời chân phải mím chặt trên đất.                              Tỉ-kheo già thấy thế hoảng sợ, bỏ chạy. Thế rồi, Ðại                              Ca Diếp đi đến chỗ Phật. Thế Tôn liền (490b) đưa hai                              chân từ trong kim quan ra ngoài. Khi tôn giả Ðại Ca                              Diếp thấy được chân Phật, liền trật vai áo bên phải,                              cúi đầu đảnh lễ, rồi đọc kệ:                                                           Chân Như Lai đầy đặn,                                                            Bấy giờ, các Tỉ-kheo bàn                              bạc: "Ai nên châm lửa thiêu đây?" Khi ấy, tôn giả                              Ðại Ca Diếp nói:                                                           - Tôi là trưởng tử của                              Thế Tôn, nên để tôi châm lửa thiêu.                                                           Thế là đại chúng đồng                              thanh nói: "Tốt lắm", liền hỏa thiêu. Khi hỏa thiêu                              xong, Ca Diếp nhớ lại lời nói của vị Tỉ-kheo già ở                              trong thôn, cho đến: "Muốn làm thì làm, không muốn                              làm thì thôi", tôn giả liền nói với các Tỉ-kheo:                                                           - Này các trưởng lão! Vấn                              đề xá lợi của Thế Tôn không phải là việc của chúng                              ta mà quốc vương, trưởng giả, Bà la môn, cư sĩ,                              những người cầu phước tự họ sẽ lo việc cúng dường.                              Việc của chúng ta trước hết là phải kết tập pháp                              tạng chớ để pháp Phật sớm diệt.                                                           Mọi người bàn:                                                           - Chúng ta nên kết tập                              Pháp tạng chỗ nào?                                                           Lúc ấy, có người bàn:                              "Nên đến Xá-vệ"; có người nói: "Nên đến Sa kỳ"; có                              người nói: "Nên đến Chiêm Bà"; có người nói: "Nên                              đến Tì-xá-li "; có người lại nói: "Nên đến Ca Duy La                              Vệ".                                                           Bấy giờ, Ðại Ca Diếp liền                              đề nghị:                                                           - Nên đến thành Vương Xá                              kết tập pháp tạng. Vì                              sao thế? Vì đức Thế Tôn đã di chúc rằng (490c):                              Vua A Xà Thế con bà Vi Ðề Hi ở thành Vương Xá là bậc                              có tín căn đệ nhất trong hàng Ưu bà tắc của các                              Thanh Văn. Vả lại, vị vua ấy có 500 chiếc giường nằm                              để cung cấp, nên đến chỗ vị ấy.                                                           Nghe thế, tất cả đều đáp:                                                           - Vâng.                                                           Ðức Thế Tôn trước kia có                              dặn tôn giả A Na Luật rằng: "Khi Như Lai ban Nê Hoàn                              ông nên giữ gìn xá lợi đừng để Chư Thiên đem đi. Bởi                              vì trong thời quá khứ đức Như Lai ban Nê Hoàn, Chư                              Thiên đem xá lợi đi, khiến người đời không thể đến                              đó chiêm bái được, nên mất công đức. Chư Thiên có                              thể đến nhân gian cúng dường, nhưng người đời không                              thể đến chỗ ho, ï ngoại trừ người có thần túc; vì                              thế phải giữ gìn cẩn thận".                                                            Bấy giờ, thị giả A-nan vì                              bận việc cúng dường nên không đến được. Ðại Ca Diếp                              cùng với 1000 Tỉ-kheo đi đến thành Vương Xá, tới                              trong hang núi Sát Ðế, trải giường nệm, trang trí                              tòa của Thế Tôn. Ở phía trước, bên trái tòa Thế Tôn                              đặt tòa của tôn giả Xá-lợi-phất, ở bên phải đặt tòa                              của tôn giả Ðại Mục Liên, kế đến đặt tòa của Ðại Ca                              Diếp, cứ như vậy lần lượt theo thứ tự bài trí giường                              nệm rồi chuẩn bị những nhu yếu cần thiết trong bốn                              tháng. Vì mục đích kết tập pháp tạng cho nên cắt đứt                              các ngoại duyên. Khi đại chúng tập hợp xong, trong                              số đó có người đạt được Tam minh, Lục thông giới đức                              tự tại. Trong những người này, có người trực tiếp                              thọ giáo với Thế Tôn, đọc thuộc một bộ Luật; có                              người theo chúng Thanh Văn đọc thuộc một bộ Luật; có                              người thọ giáo trực tiếp với Thế Tôn đọc thuộc hai                              bộ Luật; có người theo chúng Thanh Văn đọc thuộc hai                              bộ Luật. Thế rồi, đại chúng cùng bàn bạc:                                                           - Ở trong này nên chọn                              những vị đạt được Tam minh, Lục thông, có giới đức                              tự tại, từng thọ giáo trực tiếp với Thế Tôn tụng                              thuộc hai bộ Luật, từng theo chúng Thanh Văn tụng                              thuộc hai bộ Luật.                                                           Khi chọn lựa xong, đếm                              lại thì thấy thiếu hai người mới đủ số 500, đại                              chúng bàn tiếp:                                                           - Nên chọn đủ 500 người.                                                           Thế rồi, trưởng lão A Na                              Luật đi đến bổ sung thêm nhưng vẫn thiếu một người.                              Khi ấy, tôn giả Ðại ca Diếp làm Thượng Tọa thứ nhất,                              Thượng Tọa thứ hai tên Na Ðầu Lô, Thượng Tọa thứ ba                              tên Ưu Ba Na Ðầu Lô. Lúc ấy, tôn giả Ðại Ca Diếp tự                              lên ngồi tòa của mình, để trống tòa của tôn giả                              Xá-lợi-phất, Mục Liên và A Nan. Thế rồi, các Tỉ-kheo                              lần lượt ngồi theo thứ tự.                                                            Bấy giờ, tôn giả Ðại Ca                              Diếp bảo trưởng lão Lê Bà Ðề đệ tử đồng hành của tôn                              giả Mục Liên:                                                           - Ông hãy lên cõi trời Ba                              mươi ba gọi Tỉ-kheo Tủy Ðề Na đến, nói rằng: "Ðức                              Thế Tôn đã Ban nê hoàn, Tỉ-kheo Tăng đang tập họp                              định kết tập pháp tạng".                                                            Thầy liền vâng lệnh, đi                              đến cõi trời Ba mươi ba, bạch:                                                           - Thưa trưởng lão! Ðức                              Thế Tôn đã Ban nê hoàn, Tỉ-kheo Tăng đang tập họp                              định kết tập pháp tạng nên sai tôi đến gọi trưởng                              lão.                                                           Vị Tỉ-kheo này nghe xong                              sầu thảm, không vui, bèn hỏi:                                                           - Ðức Thế Tôn đã Ban nê                              hoàn rồi sao?                                                           - (491a) Thưa vâng.                                                           - Nếu đức Thế Tôn còn ở                              cõi Diêm phù đề thì tôi sẽ đến, nay Thế Tôn đã Ban                              nê hoàn thì con mắt của thế gian đã hoại diệt.                                                           Thầy nói xong, dùng thần                              túc bay lên hư không, nhập Hỏa quang tam muội tự                              thiêu thân. Vị sứ giả thấy vậy trở về, vào giữa Tăng                              thuật lại đầy đủ sự việc trên, cho đến đoạn: Nhập                              Hỏa quang tam muội. Thế rồi, Tăng lại sai thầy lên                              cung Thi lợi sa sí, cõi trời Ba mươi ba gọi Kiều                              Phạm Ba Ðề; lần lượt đến trưởng lão Thiện Kiến ở                              Hương Sơn; trưởng lão Phả Ðầu Tẩy Na ở Du Hí Sơn;                              trưởng lão Bạt Khư Lê ở Chiêm Ba Sơn; rồi đến trưởng                              lão Uất Ða La ở Tịnh Sơn; đệ tử của tôn giả Mục Liên                              tên Ðại Quang ở Quang Sơn; đệ tử của tôn giả                              Xá-lợi-phất tên Ma Tẩu Lô ở Mạn Ðà Sơn; tôn giả La                              Ðổ ở Ma La Sơn. Các vị ấy, khi nghe gọi đều Ban nê                              hoàn. Ðồng thời Tăng sai sứ giả đến Thiên cung Tì                              Sa-môn gọi Tu Mật Ða. Sứ giả đến nơi thưa:                                                           - Thưa trưởng lão! Ðức                              Thế Tôn đã Ban nê hoàn, Tỉ-kheo đang tập họp định                              kết tập pháp tạng, cho tôi đến gọi trưởng lão.                                                            Vị Tỉ-kheo ấy nghe xong                              sầu thảm, không vui, nói:                                                           - Ðức Thế Tôn đã Ban nê                              hoàn rồi sao?                                                           - Thưa vâng!                                                           - Nếu Thế Tôn còn ở cõi                              Diêm phù đề thì tôi sẽ đến, nay Thế Tôn đã Ban nê                              hoàn tức là con mắt của thế gian đã diệt mất.                                                           Nói xong, thầy dùng thần                              túc bay lên hư không, nhập Hỏa quang tam muội, tự                              thiêu thân, nhập vào Niết-bàn. Bấy giờ, sứ giả liền                              trở về vào giữa Tăng thuật lại đầy đủ sự việc trên                              cho chư Tăng nghe. Ðại Ca Diếp liền nói:                                                           - Này các trưởng lão! Hãy                              thôi, đừng gọi những người khác nữa. Những ai nghe                              gọi đều tự nhập Niết-bàn, nếu cứ gọi tiếp thì họ sẽ                              nhập Niết-bàn hết, như thế thì phước điền của cõi                              đời này sẽ thành ra trống không.                                                           Có một Tỉ-kheo nói:                                                           - Thưa các trưởng lão!                              Tôn giả A-nan là thị giả của Phật, từng thân cận thọ                              giáo. Hơn nữa đức Thế Tôn từng phú chúc rằng A-nan                              có ba việc đặc biệt, nên gọi thầy đến.                                                           Ðại Ca Diếp nói:                                                           - Không phải vậy! Nếu như                              người còn đang học này vào trong chúng Vô học có                              giới đức tự tại thì cũng như con chó ghẻ vào giữa                              bầy sư tử.                                                           Lúc này tôn giả A-nan sắp                              xếp việc cúng dường vừa xong, đi đến một thôn, rồi                              thầm nhủ: "Hôm nay ta nghỉ lại đây, ngày mai sẽ đến                              thành Xá-vệ". Thế rồi, có một vị trời đến nói với                              A-nan:                                                           - Ðại Ca Diếp nói rằng                              tôn giả là con chó ghẻ.                                                           A-nan bèn suy nghĩ: "Ðức                              Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, chính lúc này ta cần người                              để nương tựa, vì sao lại ví ta như con chó ghẻ?".                                                                                         Nghĩ thế nên lòng không vui, rồi thầy lại nghĩ:                              "Tôn giả Ðại Ca Diếp này biết quá rõ dòng dõi tên                              tuổi của ta, vì cho rằng ta chưa đoạn trừ hết kiết                              sử nên mới nói như vậy".                                                            Bấy giờ, tôn giả (491b)                              A-nan càng siêng năng gấp bội đi kinh hành không                              biếng nhác, mong hết sạch hữu lậu nên hành đạo cực                              khổ. Hơn nữa, vì Thế Tôn nê hoàn khiến thầy mang nỗi                              buồn da diết trong lòng, đồng thời những gì trước                              đây đã nghe và thu nhận thì chưa thấu triệt, nên lại                              nghĩ ngợi: "Ðức Thế Tôn đã phú chúc rằng đối với                              giáo pháp này tâm ta không phóng dật sẽ dứt sạch hữu                              lậu, vậy thì phải cực khổ quá làm gì!". Thế nhưng                              tâm thầy vẫn không xả định, nghiêng mình định nằm                              xuống, đầu chưa chấm gối thì sạch hết hữu lậu, đạt                              được Tam minh Lục thông có sức lực tự tại. Thầy liền                              dùng thần túc nương theo hư không mà đi, đến ngoài                              cửa hang Sát đế, đọc kệ rằng:                                                           Ða văn và biện tài,                                Thế nhưng, đại chúng vẫn                              chưa mở cửa cho thầy, nên thầy lại đọc kệ tiếp:                                                           Ða văn khéo biện tài,                                                            Bấy giờ, Ðại Ca Diếp liền                              đọc kệ:                                                           Ông nói mình đã chứng,                                                            A-nan vào xong, đảnh lễ                              tòa của Thế Tôn, rồi tuần tự đảnh lễ các Thượng tọa,                              đoạn, đến ngồi tòa của mình. Khi ấy, Ðại Ca Diếp nói                              với A-nan:                                                           - Tôi không tự cao cũng                              không khinh ông, chỉ vì ông cầu đạo không tiến bộ,                              muốn cho ông tinh cần diệt hết các hữu lậu cho nên                              mới nói lời ấy.                                                           - Tôi cũng biết! Chỉ vì                              tôi chưa hết kiết sử, muốn cho tôi tinh cần diệt hết                              các hữu lậu (nên tôn giả mới nói như vậy).                                                           Lúc ấy, tôn giả Ðại Ca                              Diếp liền hỏi chúng Tăng đang ngồi:                                                           - Giờ đây nên kết tập                              tạng nào trước?                                                           - Nên kết tập tạng Pháp                              (Kinh) trước.                                                           - Nên cử ai kết tập?                                                           - Nên cử trưởng lão A                              Nan.                                                           A-nan liền nói:                                                            - Không nên làm như vậy                              vì còn có nhiều trưởng lão Tỉ-kheo khác.                                                           Ðại chúng lại nói:                                                           - Tuy có nhiều trưởng lão                              Tỉ-kheo khác nhưng đức Thế Tôn đã phú chúc rằng thầy                              là người đa văn bậc nhất, do đó thầy nên kết tập.                                                           - Nếu các trưởng lão đề                              cử tôi kết tập thì điều gì như pháp nên hoan hỷ,                              điều gì không như pháp nên ngăn cản, điều gì không                              tương ưng cũng nên ngăn cản chứ đừng vì tôn trọng                              tôi mà không ngăn cản. Nói chung, điều gì đúng                              nghĩa, điều gì không đúng nghĩa đều xin chỉ giáo.                                                           - Trưởng lão A-nan! Thầy                              chỉ cần kết tập Pháp tạng, điều gì như pháp thì Tăng                              tùy hỉ, điều gì phi pháp (491c) thì đến lúc đó sẽ                              biết.                                                           Lúc ấy, tôn giả A-nan bèn                              suy nghĩ: "Bây giờ ta phải kết tập pháp tạng như thế                              nào đây?" Suy nghĩ thế rồi, thầy liền đọc lời Kinh:                                                            "Tôi nghe như vầy, một                              thời Phật ở tại Uất Tì La, bên dòng sông Ni Liên,                              nơi Bồ đề Mạn Ðà La".                              Khi tôn giả A-nan vừa nói lời ấy thì 500 vị A la hán                              có đức hạnh tự tại liền bay lên hư không đồng thanh                              khen ngợi:                                                           - Chúng con đã được tận                              mắt thấy Thế Tôn, giờ đây lại được nghe lời dạy, rồi                              cùng niệm: "Nam mô Phật", đoạn trở lại chỗ ngồi.                                                            Bây giờ, A-nan liền đọc                              kệ sau đây:                                                           Siêng tu tập thiền định,                                                            Siêng tu tập thiền định,                                                            Siêng tu tập thiền định,                                                            Siêng tu tập thiền định,                                                            Tôn giả A-nan đọc tất cả                              pháp tạng như vậy. Những câu văn dài kết tập thành                              Trường A Hàm. Những câu văn trung bình kết tập thành                              Trung A Hàm. Những câu văn linh tinh kết tập thành                              Tạp A Hàm, chẳng hạn như Căn tạp, lực tạp, giáp tạp,                              đạo tạp, đại loại như thế gọi là tạp. Từ một tăng                              lên hai, tăng lên ba cho đến tăng lên 100, tùy theo                              số loại tương tự nhau kết tập thành Tăng Nhất A Hàm.                              Tạp tạng bao gồm Bích Chi Phật, A La Hán, tự thuyết,                              bản hạnh, nhân duyên, các kệ tụng, đại loại như vậy                              gọi là Tạp tạng.                                                            Khi ấy, trưởng lão A-nan                              liền đọc kệ:                                                           - Ðây chính là tám vạn                              pháp tạng,                                Tiếp đến, đại chúng hỏi:                                                           - Ai có thể kết tập Luật                              tạng?                                                           Có người nói:                                                           - Trưởng lão Ưu-ba-li.                                                           Ưu-ba-li liền lên tiếng:                                                           - Không thể như vậy vì                              còn có những trưởng lão Tỉ-kheo khác.                                                           Có người lại nói:                                                           - Tuy có những trưởng lão                              Tỉ-kheo khác nhưng đức Thế Tôn đã phú chúc rằng                              trưởng lão thành tựu 14 pháp, trừ (492a) đức Như Lai                              Ứng Cúng Chánh Biến Tri ra thì trưởng lão là người                              trì Luật bậc nhất.                                                           Ưu-ba-li nói:                                                           - Thưa các trưởng lão!                              Nếu bảo tôi kết tập Luật tạng thì điều gì như pháp                              hãy tùy hỷ, điều gì không như pháp hãy ngăn cản; nếu                              điều gì không tương ưng thì nên ngăn cản chứ đừng vì                              tôn trọng tôi (mà bỏ qua); đồng thời điều nào đúng                              nghĩa, trái nghĩa cũng đều xin chỉ giáo.                                                           Thế rồi, tất cả đều nói:                                                           - Trưởng lão Ưu-ba-li chỉ                              lo việc kết tập, điều gì như pháp thì chúng tôi tùy                              hỷ, điều gì phi pháp thì lúc đó sẽ biết.                                                           Tôn giả Ưu-ba-li suy                              nghĩ: "Hôm nay ta kết tập Luật tạng như thế nào đây?                              Ðối với 5 pháp thanh tịnh mà như pháp, như Luật thì                              tùy hỷ, còn không như pháp như Luật thì nên bỏ ra                              ngoài. 5 pháp thanh tịnh:                                                           1- Hạn chế tịnh.                               1- Hạn chế tịnh:                              Tại trú xứ của các Tỉ-kheo đặt ra các hạn chế rằng                              điều gì tương ưng với bốn giáo lý cơ bản thì dùng,                              không tương ưng thì bỏ. Ðó gọi là hạn chế tịnh.                                                           2- Phương pháp tịnh:                              Ðối với những luật pháp của quốc gia, điều gì tương                              ưng với bốn giáo lý cơ bản thì dùng, không tương ưng                              thì bỏ. Ðó gọi là phương pháp tịnh.                                                           3- Giới hạnh tịnh:                              Khi ta thấy Tỉ-kheo mỗ giáp trì giới làm việc đó mà                              tương ưng với bốn giáo lý cơ bản thì dùng, nếu không                              tương ưng thì bỏ. Ðó gọi là giới hạnh tịnh.                                                           4- Trưởng lão tịnh:                              Nếu ta thấy trưởng lão Tỉ-kheo, tôn giả Xá-lợi-phất,                              Mục Liên làm việc đó mà tương ưng với bốn giáo lý cơ                              bản thì dùng, không tương ưng thì bỏ. Ðó gọi là                              trưởng lão tịnh.                                                           5- Phong tục tịnh:                              Không được làm những việc như khi còn thế tục, chẳng                              hạn ăn phi thời, uống rượu, hành dâm; tất cả những                              việc như vậy hợp pháp đối với thế tục nhưng không                              hợp pháp đối với người xuất gia. Ðó gọi là phong tục                              tịnh.                                                           Thưa các trưởng lão!                              Những điều như thế nếu đúng pháp thì xin tùy hỷ, nếu                              không đúng pháp thì xin lên tiếng.                                                           Bấy giờ, các Tỉ-kheo liền                              đáp:                                                           - Nếu tương ưng thì dùng,                              nếu không tương ưng thì lúc ấy sẽ ngăn cản.                                                           Thế rồi, tôn giả Ưu-ba-li                              nói với A-nan:                                                           - Trưởng lão có tội, phải                              sám hối với chúng Tăng thanh tịnh.                                                           - Tôi có những tội gì?                                                           - Ðức Thế Tôn đến ba lần                              chế định không cho phép độ người nữ xuất gia mà thầy                              xin Thế Tôn đến ba lần, thế là phạm tội Việt tỳ ni.                                                           Khi ấy, tôn giả Ðại Ca                              Diếp bèn ném một cái thẻ xuống đất, nói:                                                           - Ðây là thẻ thứ nhất.                                                           Tức thì chấn động cả tam                              thiên đại thiên thế giới.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại Tì-xá-li, Ngài nói:                                                            "Này A-nan! Ta ở Ban Lạc                              phóng cung trượng tháp tại Tỳ Xá Li này rất an lạc;                              nếu ai được bốn thần túc thì có thể kéo dài mạng                              sống đến một kiếp, hoặc hơn một kiếp; nếu Phật ở đời                              thì người đời sẽ được thấy", thì thầy nói: "Như vậy                              đó Thế Tôn! Như vậy đó Tu Già Ðà", mà không thỉnh                              Phật trụ thế nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục ném                              thẻ thứ hai.                                                           Lại nữa, khi may y Tăng                              già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng ngón chân phải đạp                              trên y, (492b) há thầy không biết rằng y Tăng già lê                              này là bảo tháp mà Chư Thiên, người đời nên cúng                              dường hay sao? Vì thế phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục                              ném thẻ thứ ba.                                                           Lại nữa, Phật nói: "Này                              A-nan! Hãy đi lấy nước", nói như vậy đến ba lần mà                              thầy không lấy nước cho Thế Tôn, nên phạm tội Việt                              tỳ ni. Tiếp tục bỏ xuống thẻ thứ tư.                                                           Lại nữa, Phật nói: "A                              Nan, khi Ta sắp nhập Niết-bàn nên nói với Ta, Ta sẽ                              vì các Tỉ-kheo bỏ những giới vi tế", nhưng thầy                              không bạch nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục bỏ                              xuống thẻ thứ năm.                                                           Lại nữa, khi Phật ban nê                              hoàn, thầy để mã âm tàng của Phật cho Tỉ-kheo ni                              xem, nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục bỏ xuống thẻ                              thứ sáu.                                                           Lại nữa, khi Phật ban nê                              hoàn, các lão mẫu của lực sĩ đến khóc khiến nước mắt                              nhỏ trên chân Thế Tôn, thầy là thị giả mà không ngăn                              cản nên phạm tội Việt tỳ ni. Tiếp tục bỏ xuống thẻ                              thứ bảy.                                                           Lúc ấy, A-nan không nhận                              hai tội, nói như sau:                                                           - Thưa trưởng lão! Chư                              Phật quá khứ đều có bốn chúng, vì thế tôi thỉnh Phật                              độ Tỉ-kheo ni đến ba lần. Còn khi Phật ở Tì-xá-li,                              ba lần báo cho biết mà tôi không thỉnh Phật trụ thế                              là vì lúc ấy tôi là người còn đang học, bị ma che mờ                              cho nên không thỉnh. Ở đây tôi chỉ phạm 5 tội Việt                              tỳ ni.                                                           Thế rồi, trưởng lão (sám                              hối) đúng như pháp.                                                           Bấy giờ, tôn giả Ưu-ba-li                              liền bạch với đại chúng:                                                           - Thưa các trưởng lão!                              Ðây là thứ tự của 9 pháp:                                                           1- Ba la di.                                Ðức Thế Tôn tại mỗ xứ vì                              Tỉ-kheo mỗ giáp, chế những giới này phải không?                                                           Bấy giờ, đại chúng cùng                              đáp:                                                           - Ðúng như vậy Ưu-ba-li!                              Ðúng như vậy Ưu-ba-li.                                                           Ưu-ba-li tiếp:                                                           - Trong Luật có ghi lại 5                              việc sau đây:                                                           1- Tu đa la.                               1- Tu đa la:                              chỉ cho 5 bộ Kinh.                                                           2- Tì ni:                              Tức hai bộ Luật rộng và hẹp.                                                           3- Nghĩa:                              Ý nghĩa của từng câu.                                                           4- Giáo: Bốn                              giáo lý cơ bản mà đức Thế Tôn đã thuyết giảng cho                              Sát lợi, Bà la môn và cư sĩ.                                                           5- Khinh trọng:                              Lấy trộm đủ 5 tiền là nặng, dưới 5 tiền là nhẹ, phạm                              tội Thâu lan giá.                                                           Ðó gọi là 5 việc mà Luật                              đã ghi lại. Các trưởng lão nên học như vậy.                                                           Lại có năm điều luật nữa                              là:                                                           1- Lược Tì ni.                               1- Lược Tì ni:                              Tức 5 thiên giới.                                                           2- Quảng Tì ni:                              Tức 2 bộ Luật.                                                           3- Phương diện Tì ni:                              Tại Thâu nô (492c) biên địa cho phép 5 thầy được                              truyền giới Tỉ-kheo.                                                           4- Kiên cố Tì ni:                              Khi thọ y Ca hi na được bỏ 5 việc, từ biệt chúng                              thực cho đến khi đi đâu không cần thưa với người                              cùng ăn chung với mình.                                                           5- Ứng pháp Tì ni:                              Trong đây Yết-ma đúng pháp và Yết-ma hòa hợp, đó gọi                              là làm đúng giới luật. Còn những cách khác là phi                              Yết-ma (Yết-ma phi pháp).                                                           Thưa các trưởng lão, đến                              đây là kết tập Luật tạng hoàn tất.                                                           Thế rồi, đại chúng bèn                              gọi 1.000 Tỉ-kheo ở ngoài vào, nói:                                                           - Thưa các trưởng lão!                              Như thế này là Tạng pháp (Kinh) đã được kết tập, như                              thế này là tạng Luật đã được kết tập.                                                            Lúc ấy, có Tỉ-kheo nói:                                                           - Thưa các trưởng lão!                              Ðức Thế Tôn trước kia đã nói với A-nan rằng Ngài                              muốn vì các Tỉ-kheo bỏ bớt một số giới nhỏ nhặt, vậy                              bỏ những giới nào?                                                           Có Tỉ-kheo nói:                                                           - Nếu đức Thế Tôn muốn bỏ                              bớt các giới nhỏ nhặt thì nên bỏ oai nghi.                                                           Có Tỉ-kheo nói:                                                           - Không những bỏ oai nghi                              mà nên bỏ pháp Chúng học.                                                           Có Tỉ-kheo nói:                                                           - Cũng nên bỏ luôn cả 4                              Ba la đề đề xá ni.                                                           Có Tỉ-kheo nói:                                                           - Cũng nên bỏ luôn cả 92                              pháp Ba-dạ-đề.                                                           Có Tỉ-kheo nói:                                                           - Cũng nên bỏ luôn cả 30                              pháp Ni tát kì Ba-dạ-đề.                                                           Có Tỉ-kheo nói:                                                           - Cũng nên bỏ luôn cả 2                              pháp Bất định.                                                           Khi ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo                              liền nói:                                                           - Thưa các trưởng lão!                              Nếu như Thế Tôn còn tại thế thì nên bỏ hết tất cả.                                                           Ðại Ca Diếp oai nghi                              nghiêm chỉnh giống như Thế Tôn, liền nói như sau:                                                           - Ôi! Ôi! Ðừng nói lời                              ấy.                                                           Tức thời tất cả đại chúng                              đều im lặng. Ðại Ca Diếp liền tiếp:                                                           - Này các trưởng lão! Nếu                              đã chế định rồi lại mở ra thì sẽ khiến cho người                              ngoài nói: "Khi Cù Ðàm còn ở đời nghi pháp hưng                              thịnh, ngày nay đã Nê hoàn, giáo pháp suy đồi". Thưa                              các trưởng lão! Những gì chưa chế thì đừng chế thêm                              nữa, những gì đã chế thì chúng ta nên tùy thuận học                              tập.                                                            - Thế nhưng các pháp này                              được nghe từ ai?                                                           - Ðược nghe từ tôn giả                              Ðạo Lực về Luật, Luận, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A hàm,                              Trung A Hàm, Trường A Hàm.                                                           - Thế thì Ðạo Lực nghe từ                              ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Phất Sa                              Bà Ðà La.                                                           - Tôn giả Phất Sa Bà Ðà                              La nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Pháp                              Thắng.                                                           - Pháp Thắng nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Tăng                              Già Ðề Bà.                                                           - Tăng Già Ðề Bà nghe từ                              ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Long                              Giác.                                                           - Long Giác nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Pháp                              Tiền.                                                           - Pháp Tiền nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Ðề Na                              Già.                                                           - Ðề Na Già nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Pháp                              Hộ.                                                           - Pháp Hộ nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Kỳ Bà                              Già.                                                           - Kỳ Bà Già nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Phất Ðề                              La.                                                           - Phất Ðề La nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Da Xá.                                                           - Da Xá nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Sai Ðà.                                                           - Sai Ðà nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Hộ                              Mạng.                                                           - Hộ Mạng nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Thiện                              Hộ.                                                           - Thiện Hộ nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả (493a)                              Ngưu Hộ.                                                           - Ngưu Hộ nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Cự Xá                              La.                                                           - Cự Xá La nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Ma Cầu                              Ða.                                                           - Ma Cầu Ða nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Ma Ha                              Na.                                                           - Ma Ha Na nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Năng                              Hộ.                                                           - Năng Hộ nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Mục Ða.                                                           - Mục Ða nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Cự Hê.                                                           - Cự Hê nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Pháp                              Cao.                                                           - Pháp Cao nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Căn Hộ.                                                           - Căn Hộ nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Kỳ Ða.                                                           - Kỳ Ða nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Thọ Ðề                              Ðà Bà.                                                           - Thọ Ðề Ðà Bà nghe từ                              ai?                                                           - Nghe từ tôn giả Ðà Bà                              Ba La.                                                           - Ðà Bà Ba La nghe từ ai?                                                           - Nghe từ tôn giả                              Ưu-ba-li.                                                           - Ưu-ba-li nghe từ ai?                                                           - Nghe từ Phật.                                                           - Phật nghe từ ai?                                                           - Ngài tự giác ngộ không                              có thầy, cũng không nghe từ ai cả. Phật có vô lượng                              trí tuệ, vì lợi ích cho chúng sinh nên Ngài trao                              truyền cho Ưu-ba-li. Ưu-ba-li trao cho Ðà Bà Ba La.                              Ðà Bà Ba La trao cho Thọ Ðề Ðà Bà. Thọ Ðề Ðà Bà lần                              lượt trao xuống tôn giả Ðạo Lực, rồi Ðạo Lực trao                              cho tôi và những người khác.                                                           Kệ tóm tắt:                                                           "Chúng ta nhờ thầy dạy,                                                            Ðó gọi là 500 Tỉ-kheo kết                              tập pháp tạng.
Kết khuy cùng đai lưng 
Ngồi xe, ngựa, ngồi chung 
Ngồi cùng giường, ăn chung,  
Bàn ăn nhiều màu sắc 
Kết thúc phần thứ tám.                             
2- Thịt rồng. 
3- Thịt voi. 
4- Thịt ngựa. 
5- Thịt chó. 
6- Thịt quạ. 
7- Thịt diều hâu. 
8- Thịt heo. 
9- Thịt khỉ. 
10- Thịt sư tử và tỏi gồm các loại sống, chín, vỏ,                              lá tất cả đều không được ăn.                             
Thuốc nhỏ mắt, lọ và que,  
Da trâu cùng đồ lau chân,  
Dùng ô dù và phất trần. 
Phẩm thứ chín đến đây hết.                             
Ðó gọi là cạo tóc.                             
Hiện bánh xe ngàn căm. 
Ngón dài nhọn mềm mại,  
Hình mạng lưới cấu thành. 
Vì thế hôm nay con 
Ðảnh lễ chân tối thắng. 
Chân mềm mại tối thắng,  
Từng du hành thế gian. 
Ðại bi cứu chúng sinh,  
Từ nay không gặp nữa. 
Vì thế hôm nay con 
Ðảnh lễ chân Như Lai. 
Như Lai cứu độ con,  
Ðạt Ứng chân giải thoát. 
Nay con nhìn lần cuối,  
Vĩnh viễn không gặp nữa. 
Ðã đoạn mọi nghi hoặc,  
Bậc Ly dục Tối thượng. 
Làm lợi ích mọi loài 
Tất cả đều hoan hỷ. 
Vì thế hôm nay con 
Ðảnh lễ chân Tối thắng. 
Ðức hạnh Phật như vậy,  
Khéo đáp mọi nghi ngờ. 
Ngày hôm nay đã qua 
Ánh từ quang vĩnh diệt. 
Vì thế hôm nay con,  
Ðảnh lễ chân Tối thắng. 
Con chứng bốn chân lý,  
Nói công đức của Phật. 
Ðọc kệ lễ kính xong,  
Hai chân liền thu vào.                             
Là thị giả Thế Tôn. 
A-nan con Cù Ðàm 
Giờ đang đứng ngoài cửa.                             
Là thị giả Thế Tôn. 
Ðã bỏ gánh kiết sử,  
Con Cù Ðàm ngoài này.                             
Ðã bỏ gánh phiền não. 
Con Cù Ðàm chưa vào,  
Vào đi con Cù Ðàm!                             
Thấy các pháp sinh diệt. 
Biết pháp từ duyên khởi,  
Lìa si, diệt phiền não.                             
Thấy các pháp sinh diệt. 
Biết pháp từ duyên khởi,  
Chứng các pháp diệt tận.                             
Thấy các pháp sinh diệt. 
Biết pháp từ duyên khởi,  
Nhiếp phục bọn ma quân.                             
Thấy các pháp sinh diệt. 
Biết pháp từ duyên khởi 
Ánh dương xua bóng đêm.                             
Các pháp này được nghe từ Phật. 
Ðây chính là tám vạn pháp tạng,  
Các pháp này nghe từ người khác. 
Các pháp này tôi giữ vẹn toàn,  
Chính Phật dạy đường đến Niết-bàn. 
Ðó gọi là kết tập Pháp tạng.                             
2- Phương pháp tịnh. 
3- Giới hạnh tịnh. 
4- Trưởng lão tịnh. 
5- Phong tục tịnh.                             
2- Tăng già bà thi sa. 
3- Hai pháp Bất định. 
4- Ba mươi pháp Ni tát kỳ. 
5- Chín mươi hai pháp Ba-dạ-đề. 
6- Bốn Ba la đề đề xá ni. 
7- Pháp chúng học. 
8- Bảy pháp Diệt tránh. 
9- Pháp tùy thuận.                             
2- Tì ni. 
3- Nghĩa. 
4- Giáo. 
5- Khinh trọng.                             
2- Quảng Tì ni. 
3- Phương diện Tì ni. 
4- Kiên cố Tì ni. 
5- Ứng pháp Tì ni.                             
Nghe từ Ðấng Vô Thượng. 
Giữ gìn đọc tụng Luật. 
Pháp Hiền Thánh tuân hành. 
Pháp tạng của Thế Tôn,  
Kế thừa sau Thích Ca. 
Mỗi người phải tuân thủ,  
Ðể chánh pháp còn mãi".