Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười Tám                                                                                              NÓI RÕ PHẦN THỨ BẢY CỦA 92 PHÁP ÐƠN ÐỀ                              44. GIỚI: BAO CHE NGƯỜI CÓ LỖI.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỉ kheo                              A Lợi Tra không bỏ ác kiến, bị chúng Tăng làm yết ma                              cử tội xong, thầy bèn đến chỗ tôn giả Nan Ðà, Ưu Ba                              Nan Ðà. Hai vị này thấy Thầy, liền tán thán: "Lành                              thay! (tôn giả) đến đây", rồi đứng dậy đón tiếp, đưa                              cho ghế ngồi và nước rửa chân, lại đưa dầu thoa chân,                              nước uống phi thời, chỉ cho căn phòng, giường nệm,                              dụng cụ để nằm, và cùng hưởng chung thức ăn chánh                              pháp và thức ăn vật chất.                               Thế rồi, Tỉ kheo                              A Lợi Tra đi đến trước cổng tinh xá Kỳ Hoàn, nói với                              các Tỉ kheo: "Này các trưởng lão, các ông tưởng làm                              yết ma cử tội Tỉ kheo A Lợi Tra này rồi thì tôi                              không có chỗ ở sao? Tôi vẫn được các Tỉ kheo phạm                              hạnh cho cùng ở chung, đưa cho phòng xá, giường, nệm,                              ngọa cụ, lại được hưởng chung thức ăn chánh pháp và                              thức ăn vật chất. Các ông càng sớm cử tội thì tôi                              càng sớm được chỗ ở tốt như vậy đó".                              Các Tỉ kheo nghe                              nói thế, cảm thấy hổ thẹn không vui, liền đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi Nan                              Ðà v.v... đến.                               Khi đến rồi, Phật                              liền hỏi Nan Ðà: "Các ông có việc đó thật như vậy                              không?".                               Ðáp: "Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                              - Ðó là việc xấu.                              Vì sao ông đã biết chúng Tăng làm yết ma cử tội rồi                              mà còn ăn chung thức ăn chánh pháp và thức ăn vật                              chất (với người khác)? Ðó là điều phi pháp, phi luật,                              trái lời Ta dạy; không thể dùng việc đó để nuôi lớn                              thiện pháp.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              biết Tỉ kheo khác có ác kiến không bỏ, Tăng đã làm                              yết ma cử tội, chưa làm như pháp, mà cùng [368a] ăn                              chung, cùng ở chung một nhà, thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Biết:                              Hoặc tự biết, hoặc nghe từ người khác (mà biết).                              Ác kiến:                              Như A Lợi Tra hủy báng khế kinh.                              Chưa làm                              như pháp:                              Tăng chưa giải tỏa pháp yết ma cử tội.                              Cùng ăn:                              cùng hưởng thức ăn chánh pháp và thức ăn vật chất.                              Cùng ở:                              Cùng ở trong cùng một cương giới.                              Cùng một                              nhà:                              Cùng ở trong một nhà có cùng một vách tường, cùng                              một mái.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu có một Tỉ                              kheo bị Hòa Thượng, A xà lê quở trách thì Tỉ kheo                              khác không được quyến rũ, nói: "Ta cho ngươi y bát,                              thuốc trị bệnh, giường nệm ngọa cụ, ngươi nên ở gần                              bên ta học kinh đọc kinh...". Nếu quán sát thấy tình                              huống của Tỉ kheo ấy chắc chắn sẽ xả giới hoàn tục,                              thì nên dỗ dành và dạy bảo như sau: "Ông phải biết,                              ân đức của Hòa thượng, A xà lê rất thâm trọng khó mà                              báo đáp. Ông nên trở về sống thân cận với (các ngài)",                              nói như thế thì không có tội.                              Nếu người bị cử                              tội mà tưởng là không bị cử tội, cùng ở cùng ăn với                              họ, thì phạm tội Việt tì ni.                              Người không bị cử                              tội mà tưởng là bị cử tội cùng ở cùng ăn chung với                              họ thì phạm tội Việt tì ni.                              Người bị cử tội                              tưởng là họ bị cử tội (mà cùng ở cùng ăn với họ) thì                              phạm tội Ba dạ đề.                              Người không bị cử                              tội tưởng là không bị cử tội (cùng ở cùng ăn với họ)                              thì không có tội.                              Thế nên nói (như                              trên).                                                                                        45. GIỚI: CHỨA CHẤP SA-DI BỊ ÐUỔI.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, A Lợi                              Tra có một Sa di tự là Pháp Dữ, nói như sau: "Này                              trưởng lão! Theo tôi biết pháp do đức Như Lai thuyết                              giảng, Ngài nói dâm dục làm chướng đạo, nhưng khi                              thực hiện sự dâm dục thì không có gì là chướng đạo".                              Lúc ấy, các Tỉ                              kheo liền nói: "Này Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế                              Tôn; hủy báng Thế Tôn là không tốt. Ngươi không khéo                              ghi nhớ lời dạy của Thế Tôn, vì thực hiện sự dâm dục                              quả thật là chướng đạo". Can gián một lần, hai lần,                              ba lần mà Sa di ấy vẫn không chấm dứt, nên các Tỉ                              kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn.                              Phật nói với các                              Tỉ kheo: - Nếu Sa di Pháp Dữ ấy nói rằng: "Theo tôi                              hiểu pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài nói sự dâm                              dục làm chướng đạo, nhưng khi thực hiện dâm dục                              không có gì là chướng đạo", thì các ông nên can gián                              ở chỗ vắng ba lần, can gián ở chỗ nhiều người ba lần                              và can gián ở giữa chúng Tăng ba lần, khiến cho bỏ                              việc ấy.                               Ở chỗ vắng nên                              hỏi: "Này Sa di, có thật ngươi nói như sau: - Theo                              tôi biết, pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài nói                              hành dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi hành dâm                              dục không có gì là chướng đạo. Rồi ngươi đã được can                              gián ba lần mà không chấm dứt phải không?".                              Nếu ông ta đáp: "Ðúng                              như vậy", thì bấy giờ nên can gián ở chỗ vắng: "Này                              Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn                              là điều bất thiện. Ngươi không khéo ghi nhớ lời dạy                              của Thế Tôn, hành dâm dục quả thật là chướng đạo.                              Nay ta vì lòng từ can gián ngươi là muốn cho ngươi                              được lợi ích. Vậy ngươi nên nghe lời ta. Một lần can                              gián đã xong còn hai lần can gián nữa, ngươi có bỏ                              việc đó chăng?".                               Nếu không bỏ, thì                              nên can gián đến lần thứ hai, thứ ba cũng như thế.                              [368b] Khi can gián ở chỗ nhiều người cũng như vậy.                              Nếu vẫn không bỏ thì nên làm yết ma cầu thính ở giữa                              Tăng như sau:                              - Xin đại đức                              Tăng lắng nghe! Ông Sa di Pháp Dữ này nói như sau:                              "Theo tôi hiểu, pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài                              nói rằng dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi thực                              hiện dâm dục không có gì là chướng đạo". Thế rồi, đã                              được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người                              ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian thích hợp đối với                              Tăng, nay Tăng nên can gián ba lần khiến cho ông bỏ                              việc ấy.                              Lúc bấy giờ, nên                              hỏi giữa Tăng: "Sa di, có thật ngươi nói như sau: -                              Theo tôi hiểu, pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài                              nói rằng dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi hành                              dâm không có gì là chướng đạo. Rồi đã được can gián                              ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà không                              bỏ phải không?"                              Nếu ông đáp: "Ðúng                              như vậy", thì ở giữa Tăng nên can gián như sau: "Này                              Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn                              là điều bất thiện. Ngươi không khéo ghi nhớ, chứ                              hành dâm dục quả thực là chướng đạo. Chúng Tăng vì                              lòng từ can gián ngươi, là muốn ngươi được lợi ích,                              vậy ngươi nên ghi nhận lời dạy của Tăng. Một lần can                              gián đã qua còn hai lần can gián nữa, ngươi nên bỏ                              việc ấy đi".                              Nếu ông không bỏ                              thì lần thứ hai, thứ ba cũng can gián như vậy. Thế                              nhưng, ông vẫn không bỏ. Do vậy, các Tỉ kheo bèn đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với                              các Tỉ kheo: "Nếu Sa di Pháp Dữ ấy nói như sau: "Ðức                              Thế Tôn nói dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng theo                              tôi biết hành dâm dục không có gì là chướng đạo".                              Rồi được can gián ở chỗ vắng ba lần, can gián ở chỗ                              nhiều người ba lần và ở giữa chúng Tăng ba lần, mà                              vẫn không bỏ, thì nên đuổi y ra khỏi đại chúng".                              Thế nhưng, sau                              khi bị đuổi đi, Pháp Dữ liền đến chỗ nhóm sáu Tỉ                              kheo. Nhóm sáu Tỉ kheo thấy ông, bèn tán thán: "Lành                              thay ông đến đây", rồi cho nước uống phi thời, chỉ                              phòng ở, đưa giường nệm ngọa cụ, đưa y bát, thuốc bổ.                              Sa di được cung cấp các vật dụng ấy rồi, liền đi đến                              cổng tinh xá Kỳ Hoàn, nói với các Tỉ kheo: "Này các                              trưởng lão, các ngài đuổi tôi ra khỏi Tăng chúng,                              tưởng rằng tôi sẽ không có được chỗ ở, nhưng nay tôi                              lại được ở chung với bậc phạm hạnh, ngài còn cho tôi                              phòng xá, giường nệm, ngọa cụ, cùng chia xẻ với tôi                              thức ăn chánh pháp và thức ăn vật chất, cho tôi y                              bát và thuốc bổ. Này các trưởng lão, các ngài càng                              đuổi tôi chóng, thì tôi càng chóng được sống an lạc                              như vậy đó!".                              Các Tỉ kheo nghe                              ông nói như thế, lòng không vui bèn đem sự việc ấy                              đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ                              kheo đến.                               Khi họ đến rồi,                              Phật liền hỏi: "Các ông có việc đó thật như vậy                              chăng?"                              Ðáp: "Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                              - Ðó là việc xấu.                              Vì sao các ông đã biết Sa di có ác kiến không bỏ,                              chúng Tăng đã như pháp trục xuất mà còn cho sống                              chung, chia xẻ thức ăn chánh pháp và thức ăn vật                              chất? Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy,                              không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, [368c] vì mười lợi ích                              mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                              - Nếu Sa di nói                              như thế này: "Theo tôi biết, đức Như Lai nói rằng                              dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi hành dâm dục                              không có gì là chướng đạo", thì các Tỉ kheo nên can                              gián Sa di ấy như sau: "Này Sa di, ngươi chớ hủy                              báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn là hành vi bất thiện.                              Thế Tôn nói hành dâm dục quả thật là chướng đạo.                              Ngươi hãy bỏ ác kiến ấy đi". Khi các Tỉ kheo can                              gián Sa di ấy mà ông vẫn cố tình không bỏ, thì nên                              can gián lần thứ hai, thứ ba cũng như vậy. Nếu ông                              bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì các Tỉ kheo nên nói như                              sau: "Từ nay trở đi, ngươi không được nói Phật là                              thầy của tôi, cũng không được ngủ chung với Tỉ kheo                              ba đêm. Ngươi đi đi, không được ở đây".                               -- Nếu Tỉ kheo                              biết Sa di không bỏ ác kiến, bị khu xuất, chưa giải                              tỏa pháp yết ma, mà dụ dỗ, nuôi dưỡng, cùng ăn                              chung, ở chung một phòng thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Sa di:                              Như Sa di Pháp Dữ.                              (Một số từ ngữ                              khác đã được giải thích trong các giới trước).                              Khu xuất:                              Ðuổi ra khỏi Tăng già lam.                              Chưa làm                              như pháp:                              Như trên đã giải thích.                              Nuôi:                              Cho y chỉ (cho phép nương tựa).                              Dưỡng:                              cho y bát, thuốc chữa bệnh.                              (Một số từ ngữ                              khác đã được giải thích ở các giới trên).                              Nếu Sa di bị Hòa                              Thượng, A xà lê khiển trách thì Tỉ kheo không được                              dụ dỗ gọi về cùng ở chung, nói rằng: "Ta sẽ cho                              ngươi y bát, thuốc men, sẽ dạy kinh cho ngươi".                               [369a] Nếu biết                              Sa di ấy nhân việc đó sẽ hoàn tục thì có thể nhỏ nhẹ                              dỗ dành, rồi nói với ông Ta: "Ân đức của Hòa thượng,                              A xà lê rất nặng, khó mà báo đáp. Ngươi nên trở về                              sống thân cận với ngài".                              Nếu (Sa di) bị                              đuổi mà tưởng không bị đuổi (rồi đem về nuôi), thì                              phạm tội Việt tì ni.                              Nếu không bị đuổi                              mà tưởng bị đuổi (rồi đem về nuôi), thì phạm tội                              Việt tì ni.                              Nếu bị đuổi và                              tưởng là bị đuổi (mà đem về nuôi), thì phạm Ba dạ                              đề.                              Nếu không bị đuổi                              và tưởng không bị đuổi (mà đem về nuôi), thì không                              có tội.                              Thế nên nói (như                              trên).                                                                                        46. GIỚI: MẶC Y KHÔNG HOẠI SẮC.                              Khi Phật trú tại                              thành Vương Xá, nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ                              kheo mặc y không được cắt may thành nhiều mảnh,                              ngoại đạo cũng mặc y không cắt may thành nhiều mảnh.                              Thế rồi, Ưu bà tắc muốn đảnh lễ Tỉ kheo mà đảnh lễ                              nhằm ngoại đạo, khi nghe chú nguyện rồi mới biết là                              ngoại đạo, nên trong lòng Ưu bà tắc cảm thấy hổ                              thẹn. Ðồng thời, đệ tử của ngoại đạo muốn đảnh lễ                              ngoại đạo mà đảnh lễ nhằm Tỉ kheo, khi nghe chú                              nguyện mới biết là Tỉ kheo, nên đệ tử của ngoại đạo                              cảm thấy hổ thẹn trong lòng.                               Các Tỉ kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy: "Từ                              nay về sau nên may y khác nhau, cắt may nhuộm có màu                              sắc".                               Tỉ kheo liền cắt                              may nhuộm làm thành màu sắc khác. Khi ấy, ngoại đạo                              dùng đá đỏ nhuộm y thành màu đỏ Lưu Châu La, cầm gậy                              có ba khấc để cho khác.                               Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              Tỉ kheo ở nơi hoang dã lượm được y Kiều xá da, nấu                              nước nhuộm định nhuộm, thì Thế Tôn đang dùng thần                              túc đi trên không đến chỗ Tỉ kheo, Ngài biết nhưng                              vẫn hỏi Tỉ kheo: "Ông định làm gì đấy?"                              - Nấu nước nhuộm                              định nhuộm y Kiều xá da.                              - Y Kiều xá da                              mỏng manh nếu nhuộm bằng nước nhuộm thô kệch như thế                              sẽ làm hại y. Từ nay về sau, y Kiều xá da nên tác                              tịnh (làm dấu cho hợp lệ) bằng hai cách: cắt (một                              miếng) may lên tác tịnh và làm cho xanh tác tịnh.                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              Tỉ kheo ở Tỳ xá li được một chiếc y Khâm bà la mềm                              mại, thầy bèn nấu nước nhuộm định nhuộm, thì gặp lúc                              Phật dùng thần túc đi tới chỗ Thầy. Phật biết nhưng                              vẫn hỏi: "Này Tỉ kheo, ông làm gì đấy?".                              - Nấu nước nhuộm                              để nhuộm y Khâm bà la.                              - Y Khâm bà la                              mềm mại mỏng manh mà nhuộm thuốc nhuộm thô kệch thế                              này sẽ làm rách y mất. Từ nay về sau, Ta cho phép, y                              Khâm bà la tác tịnh bằng hai cách: cắt may tác tịnh                              và làm cho xanh tác tịnh.                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              tôn giả Tôn Ðà LA Nan Ðà là con trai bà dì của Phật,                              do Ðại Aùi Ðạo sinh, có ba mươi tướng, với tướng                              bạch hào, và tướng trái tai thòng xuống. Sau khi                              thầy khất thực xong, từ trong thành Xá Vệ đi ra                              [369b], thì lúc ấy có tôn giả A Nan đi sau; đồng                              thời các Tỉ kheo cũng vừa ăn xong, đang ngồi thiền                              hoặc đi kinh hành trước cổng tinh xá Kỳ Hoàn. Từ xa                              trông thấy (Tôn Ðà LA Nan Ðà), họ tưởng là Thế Tôn,                              liền cùng nhau đứng dậy chắp tay, nói: "Thế Tôn đến,                              Thế Tôn đến". Tôn Ðà LA Nan Ðà cũng xoa tay chắp tay                              nói: "Các trưởng lão, tôi là Tôn Ðà LA Nan Ðà, tôi                              là Tôn Ðà LA Nan Ðà".                               Các Tỉ kheo nghe                              nói thế, ai nấy đều cảm thấy mắc cỡ, bèn đem sự kiện                              ấy đến bạch Thế Tôn. Phật dạy: "Từ nay về sau phải                              làm một dấu chấm trên y hoại sắc". Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              được y mới phải dùng ba thứ làm hoại sắc, hoặc dùng                              một thứ làm hoại sắc (các y ấy), đó là: màu xanh,                              màu đen và màu mộc lan. Nếu không dùng ba thứ ấy làm                              hoại sắc các y mà đem mặc thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              1. Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              2. Ðược:                              Ðược từ người nam, người nữ, tại gia, xuất gia.                              3. Y mới:                              Khi vừa mới may xong, như y Khâm bà la, y điệp, y Sô                              ma, y Kiều xá da, y Xá na, y gai, y Khu mâu đề.                               4. Ba thứ                              hoại sắc, hoặc mỗi một thứ hoại sắc:                              Ðó là màu xanh, màu đen, màu mộc lan.                              5. Màu                              xanh:                              Ðó là màu xanh đồng, màu xanh trưởng dưỡng và màu                              xanh đá.                              - Mầu xanh đồng:                              Ðem đồ đựng bằng đồng để lên trên rượu đắng (làm cho                              đồng sanh ten) rồi lấy ten ấy, đó gọi là màu xanh                              đồng.                              - Màu xanh trưởng                              dưỡng: Tức màu xanh của bã chàm, hay màu xanh lam.                              - Màu xanh đá:                              Tức màu xanh da trời.                              Nói chung, đem                              các màu kể trên điểm tịnh (làm dấu cho hợp lệ) trên                              y.                              6. Màu đen:                              Gồm hai loại: Danh tự nê và bất danh tự nê.                              - Danh tự nê:                              (Dùng bột của các loại) a lê lặc, tì ê lặc, a ma lặc                              đổ chung vào một cái tô; đó gọi là danh tự nê.                              - Bất danh tự nê:                              Ðó là bùn thật, bùn dưới hồ, bùn dưới giếng, nói                              chung các loại bùn như vậy.                              7. Màu mộc                              lan:                              Hoặc dùng a lê lặc, tì ê lặc, a ma lặc mài trên sắt,                              đem điểm tịnh; đó gọi là màu mộc lan.                              Tỉ kheo được y                              mới không tác tịnh (hay điểm tịnh) mà đem mặc, thì                              phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu được y Tăng                              già lê mới, tác tịnh thì tốt, không tác tịnh thì                              phạm Ba dạ đề. Cũng vậy, khi được Uất đa la tăng, An                              đà hội, y tắm mưa, y che ghẻ, tọa cụ (tấm trải ngồi)                              đem tác tịnh thì tốt, nếu không tác tịnh thì phạm Ba                              dạ đề.                              Y Khâm bà la tác                              tịnh bằng hai cách: cắt may "tịnh"và điểm tịnh màu                              xanh. Khi cắt may tịnh mà không điểm tịnh màu xanh                              thì phạm Ba dạ đề.                              Khi điểm tịnh màu                              xanh mà không điểm tịnh bằng cắt may thì phạm tội                              Việt tì ni.                              Không điểm tịnh                              màu xanh, cũng không điểm tịnh bằng cắt may, thì                              phạm một tội Ba dạ đề, một tội Việt tì ni.                              [369c] Vừa tác                              tịnh bằng cắt may, vừa tác tịnh bằng màu xanh thì                              không có tội.                              Y nhiều lớp phải                              tác tịnh bằng ba cách: tác tịnh bằng cắt may, tác                              tịnh bằng nhuộm và tác tịnh bằng màu xanh. Nếu tác                              tịnh bằng cắt may, tác tịnh bằng nhuộm mà không tác                              tịnh màu xanh, thì phạm một tội Ba dạ đề.                              Nếu tác tịnh màu                              xanh mà không tác tịnh bằng cắt may, không tác tịnh                              bằng nhuộm, thì phạm hai tội Việt tì ni.                              Không tác tịnh                              bằng cắt may, không tác tịnh bằng nhuộm, không tác                              tịnh bằng màu xanh, thì phạm một tội Ba dạ đề, hai                              tội Việt tì ni. Nếu tác tịnh bằng ba cách trên thì                              không có tội.                              Y sô ma tác tịnh                              ba cách giống như y nhiều lớp; y Kiều xá da tác tịnh                              hai cách như y Khâm bà la; y xá na, y ma, y Khu mâu                              đề tác tịnh bằng ba cách giống như y nhiều lớp, đó                              là tác tịnh màu xanh, màu đen và màu mộc lan cũng                              lại như vậy.                              Khi tác tịnh                              không được lớn, không được nhỏ, lớn tối đa bằng bốn                              ngón tay, nhỏ tối thiểu bằng hạt đậu. Hoặc dùng a lê                              lặc, tì ê lặc, a ma lặc để trên sắt ép lấy nước rồi                              tác tịnh; không được làm thành số chẵn, (mà làm                              thành số lẻ) hoặc một, hoặc ba, hoặc năm, hoặc bảy,                              hoặc chín; không được tác tịnh như hình đóa hoa. Nếu                              khi giặt, vá mà có bùn rơi lên trên, hoặc có dấu                              chân đất của chim, quạ dẫm lên trên, thì cũng được                              xem là đã tác tịnh.                              Nếu được nhiều                              phẩm vật tạp nhạp rồi đem để đống một chỗ, thì chỉ                              cần tác tịnh một chỗ. Nếu đổ thành nhiều đống thì                              mỗi đống đều tác tịnh.                              Nếu may tăng già                              lê mới thì phải tác tịnh tại một góc. Nếu chắp thêm                              nửa điều hoặc một điều cũng phải tác tịnh.                              Y Uất đa la tăng,                              An đà hội và tất cả các y khác khi mới vá cũng phải                              tác tịnh.                              Thế nên nói (như                              trên).                                                                                        47. GIỚI: CẤT GIỮ BẢO VẬT.                              Khi Phật an trú                              tại thành Vương Xá, nói rộng như trên. Bấy giờ vào                              ngày mười lăm trăng tròn, vua A Xà Thế, con bà Vi Ðề                              Hi tắm rửa xong, thoa dầu vào thân, mặc áo mới, cùng                              quần thần hội họp tại cung điện, vua nói với một Ðại                              thần:                              - Hôm nay là ngày                              trăng tròn, chúng ta nên đến chỗ Sa môn hay Bà la                              môn nào để trưởng dưỡng thiện căn?                              Vị Ðại thần nói:                              - Phất lan ca                              diếp đang ở trong thành Vương Xá là bậc đại Sa môn,                              lại có đồ chúng đông đảo, đại vương nên đến với ông                              ta, sẽ được trưởng dưỡng thiện căn.                              Vua im lặng không                              nói. Lại có một đại thần nói: "Tát già ni kiền tử                              đang ở trong thành Vương Xá là bậc đại Sa môn, nên                              đến với ông ta sẽ được trưởng dưỡng thiện căn". Như                              vậy, mỗi vị đại thần, vốn là đệ tử của ngoại đạo,                              ông nào cũng ca tụng Thầy mình, đều bảo nên đến vị                              ấy sẽ được trưởng dưỡng thiện căn. Bấy giờ, Kỳ cựu                              Ðồng tử đang cầm lọng đứng hầu vua A Xà Thế, vua nói                              với Ðồng tử: "Mọi người đều nói, vì sao ông im lặng                              không nói? Hôm nay trăng tròn nên đến nơi nào [370a]                              để được trưởng dưỡng thiện căn?". Ðồng tử tâu với                              vua: "Ðức Thế Tôn hiện giờ đang ở trong vườn Am bà                              la của hạ thần cùng với 1.250 Tỉ kheo, nếu đến đó                              thì có thể trưởng dưỡng thiện căn". Vua liền chuẩn                              thuận lời đề nghị ấy, rồi nói với Kỳ cựu Ðồng tử:                              "Ngươi hãy tức tốc trang bị năm trăm voi cái, cứ                              trên mỗi thớt voi chở một phu nhân".                               Khi ấy, Kỳ cựu                              Ðồng tử bèn theo lời vua mà trang bị, trang bị xong                              liền đến tâu vua: "Tâu đại vương, hạ thần trang bị                              xong rồi, Ðại vương hãy làm những gì mình cần".                              Thế rồi, vua A Xà                              Thế cùng với năm trăm phu nhân, được quân lính cầm                              đèn đuốc sáng choang, nhiễu hành trước sau, ra khỏi                              thành Vương Xá vào lúc nửa đêm, đi đến trước cổng                              vườn Am bà la. Lúc ấy các Tỉ kheo đang ngồi thiền.                              Vua cảm thấy hoảng sợ, quay lại nói với Ðồng tử:                              "Ngươi bảo có 1.250 Tỉ kheo đang ở trong vườn của                              ngươi, đại chúng đông đảo như vậy mà sao im phăng                              phắc chẳng có tiếng động gì hết chẳng phải ngươi                              định lừa dối Ta sao?".                              Ðồng tử đáp:                              "Thật đấy, hạ thần không dối vua đâu, cứ đi thẳng                              tới". Rồi Ðồng tử chỉ dẫn, nói: "Trong ngôi nhà lớn                              chỗ có đèn đốt sáng, Thế Tôn đang ngồi chính giữa uy                              đức đáng tôn trọng đặc biệt, cao cả không gì hơn,                              giống như trâu chúa ở giữa đàn trâu, như vua sư tử ở                              giữa muông thú, như vua voi trắng sáu ngà tại Tuyết                              Sơn đang ở giữa bầy voi, cũng như sông Hằng sâu                              thẳm, trong trẻo, im lặng không có tiếng động; đại                              chúng im lặng cũng như vậy. Lại giống như biển lớn                              vô lượng nước đều đổ về đó. Ðại chúng của đức Thế                              Tôn có công đức vô lượng cũng như thế".                              Bấy giờ, vua A Xà                              Thế xuống xe mặc thường phục đi bộ, dẫn đầu đoàn                              người tiến đến chỗ Phật, nhiễu quanh Phật và đại                              chúng ba vòng, rồi đứng lại, nói với Ðồng tử: "Thế                              Tôn cùng đại chúng công đức thành tựu vắng lặng                              thanh tịnh, mong sao con của ta là Ưu đà di bạt đà                              cũng thành tựu công đức như vậy". Phật nói: "Ðại                              vương, tùy theo sự cầu nguyện của đại vương đều sẽ                              đạt được". Thế rồi, nhà vua trải tòa, mời Phật an                              tọa. Phật dạy: "Ðại vương tự ngồi, Như Lai đã có chỗ                              ngồi". Bấy giờ, vua cúi đầu đảnh lễ chân Phật, đứng                              qua một bên, bạch với Phật:                               - Bạch Thế Tôn,                              con có điều muốn hỏi, kính mong Phật cho phép.                              - Như Lai cho                              phép đại vương cứ hỏi, rồi Như Lai sẽ trả lời cho                              đại vương.                              - Bạch Thế Tôn,                              trong đây các loại thợ xuất gia theo giáo pháp của                              Phật có thể chứng quả Sa môn ngay trong đời này                              không? (Như trong kinh Sa môn Quả đã trình bày).                              Lúc ấy, vì thuyết                              pháp quá lâu, các vị phu nhân đeo chuỗi anh lạc                              nặng, nên ai nấy đều cởi ra để trước chỗ ngồi. Vua A                              Xà Thế vì mang tội giết cha, nên trong lòng thường                              nơm nớp hoảng sợ, khi nghe trong thành có tiếng                              trống, tiếng tù và, tiếng voi, tiếng ngựa [370b],                              vua sợ hãi dữ dội, liền nói với các phu nhân: "Hãy                              trở về trong thành, hãy trở về trong thành".                              Các phu nhân vì                              đi về quá gấp nên quên lấy chuỗi anh lạc. Ðến sáng                              sớm hôm sau, phu nhân của vua định đeo chuỗi anh                              lạc, nhưng tìm không có. Người mặc áo cho bà nói:                              "Ngày hôm qua vì hoảng hốt khi trở về e rằng để quên                              tại tinh xá". Cũng thế, các phu nhân đều nói mình để                              quên anh lạc, nhưng họ sợ rằng nếu tâu với vua thì                              sẽ bị vua quở trách. Bấy giờ có một thanh y (con                              hầu) tâu với vua: "Các phu nhân hôm qua trở về gấp,                              nhiều người bỏ quên chuỗi anh lạc". Lúc ấy, có Bà la                              môn ngoại đạo là quân sư của vua, đang ngồi với vua,                              liền tâu rằng: "Nếu để quên tại đó thì các Sa môn đã                              đem giấu hết rồi, giả sử có sai người đến tìm cũng                              chẳng được gì!".                              Khi ấy, vua sai                              một người đáng tin, thử đến đó tìm xem (thì khi ông                              này đến nơi) thấy đại chúng của Phật còn ngồi y                              nhiên tại đó, và thấy những chuỗi anh lạc của các                              phu nhân vẫn còn tại chỗ cũ, bị ánh sáng mặt trời                              chiếu sáng rực rỡ, bèn thu lấy mang về, rồi tâu đầy                              đủ lên vua. Vua rất đỗi vui mừng, nói: "Các Sa môn                              của Phật đúng là phước điền tốt lành, không tham,                              không ham muốn, đặc biệt đáng tin cậy, không ai hơn                              được hội chúng này, mong rằng họ thường ở trong nước                              ta, để ta được cúng dường suốt đời". Rồi vua nói với                              các phu nhân: "Anh lạc của các Khanh đây, mỗi người                              hãy lại lấy, không được làm hỗn loạn, giành lấy cái                              tốt".                              Các Tỉ kheo nghe                              vị ngoại đạo quân sư của vua nói như thế, liền đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn nói với                              các Tỉ kheo: "Châu báu vẫn còn nguyên vẹn không ai                              lấy, mà còn bị người ta hủy báng, huống gì bị lấy                              mất. Từ nay về sau Ta không cho phép cầm lấy châu                              báu".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại Tì xá li, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              đồng tử Lê xa mang các thứ châu báu bên lưng, có giá                              trị hàng ngàn vạn, cưỡi xe bốn ngựa ra khỏi thành du                              ngoạn. Vì châu báu mang nặng nên bị tuột rơi xuống                              đất mà không hay. Lúc ấy, có một Tỉ kheo đi theo                              sau, vừa đến đó thì thấy châu báu rơi xuống đất,                              liền gọi: "Ðồng tử, Ðồng tử, lấy lại châu báu của                              ông". Nhưng vì tiếng xe nên Ðồng tử không nghe. Thầy                              sợ người đi sau nhặt lấy, nên đứng bên đường coi                              chừng. Ðồng tử đi một lát liền biết bị mất cái đai                              lưng, bèn quay xe trở lại, từ xa trông thấy Tỉ kheo,                              liền hỏi: "Ông đi sau có thấy cái đai lưng không?".                               Tỉ kheo đáp: "Tôi                              thấy có chiếc đai lưng, vừa rồi từ xa gọi ông, nhưng                              ông không nghe".                               Ðồng tử lại hỏi:                              "Ở tại chỗ nào?"Thầy đáp: "Tại chỗ kia kìa". Ðồng tử                              liền đi đến lấy chiếc đai, buộc vào lưng xong, bèn                              nắm Tỉ kheo đánh vào tay chân một trận nhừ tử, lại                              mắng chửi đủ thứ, nói: "Nếu ta không trở lại thì                              ngươi đã lấy chiếc đai lưng rồi".                              Các Tỉ kheo bèn                              đem sự việc ấy đến bạch lên [370c] Thế Tôn. Phật                              nói: "Không lấy mà còn sinh ra tai họa như thế,                              huống gì lấy".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Tì xá li, nói rộng như trên. Bấy                              giờ, có Tỉ kheo đi tới sông Tô, cởi áo xuống tắm,                              lúc ấy có đồng tử Lê xa cũng đến tắm sông bèn cởi                              vòng đeo tai để một chỗ, rồi lấy áo tủ lên, xuống                              nước tắm. Khi tắm xong, anh ta lên bờ, mặc áo vào,                              rồi ra đi mà quên vòng đeo tai. Tỉ kheo lên sau,                              thấy chiếc vòng đeo tai, liền từ xa gọi: "Ðồng tử,                              đồng tử, vòng tai của ông còn để trên bờ". Nhưng                              đồng tử vì đi nhanh nên không nghe thầy gọi, cứ từ                              từ đi một đỗi xa, bèn trực nhớ lỗ tai không có vòng,                              liền trở lại tìm, từ xa hỏi Tỉ kheo: "Có thấy vòng                              tai của tôi không?".                               Tỉ kheo đáp:                              "Vòng tai của ông còn để trên bờ, vừa rồi tôi trông                              thấy bèn từ xa gọi ông, nhưng ông đi nhanh nên không                              nghe tiếng gọi".                               Ðồng tử hỏi:                              "Hiện giờ ở chỗ nào?". Thầy đáp: "Tại chỗ kia kìa".                              Ðồng tử liền đến lấy vòng tai, đeo vào xong, bèn nắm                              Tỉ kheo đánh đấm túi bụi, và mắng: "Như vậy, như vậy                              đó, nếu ta không trở lại thì ngươi sẽ lấy vòng tai                              của ta đi mất".                              Các Tỉ kheo bèn                              đem sự việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói                              với các Tỉ kheo: "Không lấy bảo vật mà còn sinh ra                              tai họa như thế, huống gì lấy".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại vườn cây Ni câu luật thuộc dòng họ Thích,                              nước Ca duy la vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có                              con nhà họ Thích cúng dường cơm cho các Tỉ kheo,                              cùng thân quyến dọn cơm, nhưng vì đeo vòng vàng nặng                              nề, dọn cơm không tiện, nên cởi vòng xuyến để bên                              cạnh chân Tỉ kheo, nói như sau: "Vòng vàng này con                              để bên cạnh chân thầy". Tỉ kheo ăn xong bèn đứng dậy                              bỏ đi, sau đó, có người trông thấy liền cầm lấy vòng                              xuyến rồi đi. Người con dòng họ Thích ấy khi đãi cơm                              xong, liền trở về, quên lấy vòng xuyến. Khi về đến                              nhà mới hay là không có chiếc vòng, ông bèn trở lại                              chỗ cũ tìm mà không thấy, liền đi tìm thầy Tỉ kheo                              mà mình đã gởi, nói:                              - Thầy trả lại                              chiếc vòng mà trước kia tôi đã gởi.                              - Tôi nhớ chiếc                              vòng ông đã gởi còn ở chỗ cũ mà, tôi đâu có lấy.                              - Tôi gởi không                              đúng chỗ nên bị mất chiếc vòng.                              Thế rồi, trong                              lòng ông ta không vui, liền đến chỗ Phật, cúi đầu                              đảnh lễ chân Phật, bạch với Phật: "Vừa rồi, con đem                              chiếc vòng gởi cho Tỉ kheo mỗ giáp, thầy không chịu                              coi chừng nên đã bị mất". Phật bèn tùy thuận thuyết                              pháp cho người con họ Thích ấy, chỉ bảo những điều                              lợi ích, khiến ông ta hoan hỉ, rồi cáo lui. Sau khi                              ông đi không lâu, Phật bèn bảo gọi Tỉ kheo kia đến.                              Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi:                              - Ông có việc đó                              thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Nếu ông đã nhận                              người ta gởi thì phải coi chừng, còn nếu không nhận                              thì bảo là không nhận. Vì sao ông đã nhận đồ người                              ta gởi mà không trông coi? Từ nay về sau, [371a] nếu                              trong vườn có châu báu hoặc những bảo vật có giá trị                              thì Ta cho phép tự mình lấy cất, hoặc là sai người                              khác lấy cất.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại Ca duy la                              vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              (trông thấy) châu báu hoặc bảo vật có giá trị ở                              trong vườn mà tự mình lấy hoặc sai người khác lấy,                              trừ trường hợp đặc biệt thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Trường hợp                              đặc biệt:                              Tỉ kheo thấy châu báu hoặc bảo vật có giá trị, rồi                              tự mình lấy, hoặc sai người khác lấy, với suy nghĩ:                              "Có chủ tới tìm, ta sẽ đưa". Ðó gọi là trường hợp                              đặc biệt.                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Trong vườn:                              Trong vườn tháp, trong vườn của chúng Tăng.                              Châu báu:                              Vật dụng đã thành, chẳng hạn: Thiên quan, bảo cái,                              anh lạc, cán phất trần, guốc báu ..., những bảo vật                              đã làm thành dụng cụ như vậy.                              Bảo vật có                              giá trị:                              như tiền, vàng, bạc, chân châu, lưu ly, hà bối, san                              hô, hổ phách, pha lê, xích bảo, đồng, đồng đỏ, chì,                              thiết, bạch lạp, sắt...                              Lấy:                              Nếu vật hợp pháp (tịnh) được tự tay cầm lấy, nếu vật                              không hợp pháp thì sai tịnh nhân lấy.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Trường hợp đặc                              biệt: Nếu trong vườn tháp, trong vườn của chúng                              Tăng, Tỉ kheo thấy có châu báu hay bảo vật có giá                              trị mà thanh tịnh thì nên tự lấy; nếu vật không                              thanh tịnh thì sai tịnh nhân lấy cất, với suy nghĩ:                              "Nếu có chủ tìm thì sẽ trả lại". Chỉ nghĩ như vậy                              chứ không có gì khác (đó gọi là trường hợp đặc                              biệt). Hoặc vào các dịp Phật đản sinh, dịp Phật                              thành đạo, dịp Chuyển pháp luân, dịp A Nan, La hầu                              la mở đại hội; khi ấy những người đi xem hoặc quên y                              phục và các vật dùng để trang điểm thân thể; hoặc Tỉ                              kheo quên y bát và các vật khác mà Tỉ kheo thấy thì                              nên lấy, lấy rồi nên hỏi xem vật đó của ai. Nếu đúng                              là chủ của vật thì nên trao cho họ. Nếu không ai                              biết thì nên đem treo trên cây trụ ở chỗ dễ trông                              thấy cho người ta trông thấy. Nếu có người nói: "Ðó                              là vật của tôi", thì nên hỏi: "Ngươi mất tại chỗ                              nào?". Nếu đáp tương ưng thì nên đưa. Nếu không ai                              biết thì nên đình lại đến ba tháng. Nếu vật đó nhặt                              được ở trong vườn tháp thì nên dùng để làm tháp. Nếu                              nhặt được trong vườn Tăng thì nên dùng làm vật cho                              Tăng bốn phương. Nếu là vật quí báu như ngọc, anh                              lạc, vàng, bạc thì khi ấy không được phơi bày ra mà                              nên xướng: "Tôi được của báu". Rồi Tỉ kheo nên xem                              xét kỹ lưỡng, coi thử hình dáng thế nào, rồi mới cầm                              lên. Nếu có người đến hỏi: "Tôi để quên vật báu thầy                              có thấy không?". Tỉ kheo khi ấy nên hỏi lại: "Ông để                              quên tại chỗ nào? Vật báu của ông có hình dáng thế                              nào?". Nếu họ nói không phù hợp, thì nên bảo: "Chùa                              này rộng lớn ông hãy đi tìm xem". Nếu họ nói phù                              hợp, thì nên đưa vật báu ra hỏi: "Lão trượng, vật                              này là của ông phải không?". Nếu đáp: "Ðúng đấy",                              thì Tỉ kheo không được đưa ngay trước một người ấy                              mà nên [371b] tập họp nhiều người, rồi bảo người ấy                              rằng: "Ông hãy quy y Phật, Pháp, Tăng. Nếu đức Thế                              Tôn không chế giới thì dù mắt ông muốn xem lại cũng                              chưa chắc đã được (chứ đừng nói là nhận lại được).                              Nếu ông ta nói: "Ngoài vật báu này của tôi còn có                              vật khác", thì nên bảo: "Lão trượng, tôi chỉ được có                              vật này, ngoài ra không thấy những vật khác. Này Lão                              trượng, ngươi là kẻ gian ác! Ngươi được lại vật này                              đã là quá lắm rồi, vì sao còn muốn đòi vật khác đặng                              hủy báng người Ta? Nếu Thế Tôn không chế giới thì                              ngươi đâu có thể thấy lại vật này". Nếu làm như vậy                              mà vẫn không xong, thì nên đem y đến chỗ Ưu bà tắc,                              rồi nói như sau: "Tôi vốn chỉ nhặt được có vật này,                              đã đem trả lại hết, mà còn bị vu khống". Bấy giờ Ưu                              bà tắc nên mắng kẻ ấy: "Như thế như thế đấy (quân                              khốn kiếp). Ngươi được lại vật ấy đã là quá lắm rồi                              mà giờ đây lại còn hủy báng Tỉ kheo! Ngươi hãy theo                              ta, ta sẽ cùng với ngươi đối chất để giải quyết việc                              này".                              Nếu không có ai                              đến (tìm) thì chờ đến ba năm- như trên đã nói – rồi                              tùy theo nhặt được ở nơi nào mà đem dùng vào trong                              lãnh vực đó.                              Nếu Tỉ kheo đi                              vào xóm làng mà thấy có vật rơi dưới đất thì không                              nên lấy. Nếu có người lấy đưa cho Tỉ kheo thì Tỉ                              kheo được nhận. Vì người cho tức là thí chủ, nên                              không có tội.                              Nếu Tỉ kheo vào                              thôn xóm, thấy có y rơi, hoặc là y bị gió thổi bay                              đến, thì không được tưởng là y phấn tảo rồi nhặt                              lấy.                              Nếu ở nơi đường                              vắng không có người mà thấy có y rơi thì nên lấy.                              Nếu thấy trên y có châu báu thì nên dùng gót chân                              đạp bỏ châu báu rồi cầm y mà đi. Lúc đi không nên                              che giấu mà nên cầm bày ra để cho người ta trông                              thấy. Nếu trên y bị dơ bẩn khiến người ta nhờn tởm                              thì được xếp lại mà cầm đi. Nếu khi nhặt không biết                              trong y có vật báu đến khi về tới trú xứ mới thấy                              thì nên giao cho tịnh nhân quản lý để họ đổi lấy                              tiền mua thuốc.                              Khi đi ra khỏi                              xóm làng nếu giữa đường thấy y mà trên y có bụi dính                              lâu ngày thì nên lấy. Lấy rồi, không được che giấu                              mà phải bày ra cầm đi, nếu có chủ chạy theo, Tỉ kheo                              nên hỏi: "Lão trượng, vì sao chạy?". Nếu họ đáp:                              "Tôi mất y", thì nên hỏi: "Ðây là y của ông phải                              không?". nếu nói: "Ðúng đấy", thì nên trả lại và bảo                              họ: "Ông nên quy y Phật Pháp Tăng. Nếu Thế Tôn không                              chế giới thì giả sử ông có thấy lại y cũng không thể                              lấy được".                              Nếu phòng ốc của                              chúng Tăng cũ kỹ, hư nát muốn sửa chữa mà khi đào                              đất đổ nền gặp được kho tàng châu báu, nếu như tịnh                              nhân không đáng tin, thì nên tâu lên vua, giả sử vua                              nói: "Vật này đương nhiên thuộc về Trẫm, nay trẫm bố                              thí cho Tỉ kheo để làm công đức", thì nhà vua được                              xem là thí chủ. Nếu đã dùng một nửa, còn một nửa, mà                              vua nói: "Vì sao ông sử dụng vật của trẫm? Nếu đã                              dùng thì phải ngừng lại, còn bao nhiêu đưa cho                              trẫm", thì Tỉ kheo nên đưa số còn lại cho vua. Nếu                              vua nói: "[371c] Vì sao ông dùng vật của trẫm? Ðưa                              hết lại cho trẫm", mà Tỉ kheo đã lỡ sử dụng vật đó,                              thì phải lấy vậy của Tăng trả lại. Nếu Tăng không có                              vật thì phải xin vật khác trả lại. Nếu vua nói: "Ðã                              lỡ sử dụng thì phải ngừng lại, công đức ấy thuộc về                              trẫm", thì cũng như vua dùng.                              Khi sửa chữa tháp                              cũ được vàng bạc châu báu mà tịnh nhân không đáng                              tin, thì nên tâu lên vua. Nếu tịnh nhân đáng tin thì                              được giữ lấy, rồi cất đó trong ba năm. Sau ba năm                              nên đem dùng làm các việc cho tháp. Nếu nhà vua biết                              được, hỏi Tỉ kheo: "Ông được kho báu ở trong vườn                              tháp phải không?", thì nên đáp: "Có được". Nếu đã sử                              dụng thì nên đáp: "Có được mà đã dùng làm tháp". Rồi                              nhà vua nói: "Ðã làm thì phải ngừng lại. Công đức                              này thuộc về trẫm". Nếu đã dùng một nữa, còn lại một                              nửa, rồi vua nói: "Ðã dùng thì ngừng lại, chỗ còn đó                              đưa cho trẫm", thì phải đưa số còn lại cho vua. Nếu                              vua nói: "Ông không biết rằng bảo vật trong đất                              thuộc về trẫm sao? Vì sao ông lấy dùng? Trả hết lại                              cho trẫm", thì bấy giờ Tỉ kheo nên lấy vật của tháp                              trả lại. Nếu tháp không có vật thì phải nhân danh                              tháp xin vật để trả lại. Nếu vua hỏi: "Trong giới                              luật của Phật như thế nào?", thì Tỉ kheo nên đáp:                              "Trong Phật pháp nếu được vật nơi đất của tháp thì                              dùng làm tháp. Nếu được vật nơi đất của Tăng thì sử                              dụng cho Tăng". Nếu vua nói: "Theo Phật pháp mà sử                              dụng", thì sử dụng không có tội. Nếu trên kho báu có                              miếng sắt dùng khắc tên họ, rồi vua hỏi: "Các đại                              đức thấy trên kho báu ấy có tên họ như thế phải                              không? ", thì Tỉ kheo nên đáp: "Có thấy như vậy,                              nhưng đã dùng làm tháp xong rồi. Nếu vua nói: "Ðó là                              vật của tiền nhân trẫm, vì sao ông sử dụng? Ðã sử                              dụng thì phải trả lại cho trẫm". Hoặc vua nói: "Ðã                              làm tháp hoàn thành rồi thì công đức đó thuộc về                              trẫm", thì không có tội. Hoặc vua nói: "Nếu đã dùng                              một nửa thì nửa còn lại trả cho trẫm", thì khi ấy Tỉ                              kheo nên trả số còn lại cho vua. Nếu vua nói: "Vì                              sao ông dùng vật của tiền nhân trẫm? Phải trả hết                              tất cả cho trẫm", thì khi ấy nên trả hết lại. Nếu                              tháp có vật thì nên lấy trả, nếu không có vật thì đi                              xin về trả. Nếu vua nói: "Ðây là vật của tiền nhân                              mà tiền nhân đã chết, nên công đức này thuộc về                              họ"thì không có tội.                              Khi làm chùa mới,                              làm tháp mới mà được bảo vật thì cũng như vậy. Thế                              nên nói (như trên).                                                                                        48. GIỚI: TẮM QUÁ GIỚI HẠN CHO PHÉP.                               Khi Phật an trú                              tại thành Vương Xá, nói rộng như trên. Thành Vương                              Xá có ba suối nước nóng: suối nước nóng của vua,                              suối nước nóng của Tỉ kheo và suối nước nóng của                              voi. Suối nước nóng của vua thì vua, các phu nhân ở                              hậu cung và các Tỉ kheo đệ tử của Phật tắm. Suối                              nước nóng của Tỉ kheo thì Tỉ kheo Tăng của Phật tắm.                              Suối nước nóng của voi thì voi và mọi người tắm. Khi                              ấy, các Tỉ kheo vào suối nước nóng của vua tắm. Lúc                              này vua dùng dầu thoa thân định vào suối nước nóng                              tắm, bèn hỏi viên quản lý suối: "[372a] Suối nước                              nóng có trống không?"                              - Trong suối                              không trống, có các Tỉ kheo đang tắm.                              - Hãy để các Tỉ                              kheo tắm xong, trẫm đi đến Thế Tôn rồi trở về sẽ                              tắm.                              Vua liền đến chỗ                              Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi trở về, lại                              hỏi người quản lý:                              - Trong hồ đã                              trống chưa?                              - Chưa trống.                              Như vậy tới ba                              lần mà các Tỉ kheo vẫn chưa ngừng tắm. Vua lại nói:                              "Cứ để họ tắm, chớ gọi họ lên làm gì. Trẫm sẽ trở về                              tắm trong cung". Mọi người nghe vậy, đều chê trách,                              nói: "Sa môn Thích tử tự nói mình tốt đẹp có đức                              hạnh mà vẫn ở mãi trong hồ không để cho đại vương                              được tắm".                              Các Tỉ kheo nghe                              thế, liền đem sự việc ấy đến bạch Thế Tôn. Phật bèn                              nói với các Tỉ kheo: "Không ở đâu có được ông vua                              nhẫn nại hết sức như vậy! Từ nay trở đi, Ta không                              cho (các Tỉ kheo) tắm (hồ của vua)".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              Thế Tôn chế giới không cho tắm, các Tỉ kheo không                              được tắm nên thân thể dơ bẩn hôi hám. Khi ấy Thế Tôn                              thuyết pháp cho các Tỉ kheo. Các Tỉ kheo thường ngồi                              ở chỗ dưới gió, vì sợ mùi hôi hám làm ô uế các vị                              phạm hạnh. Phật biết mà vẫn hỏi: "Này các Tỉ kheo,                              vì sao chỉ ngồi một chỗ ấy in tuồng như giận hờn ai                              vậy?". Các Tỉ kheo liền bạch với Phật: "Vì Thế Tôn                              chế giới không cho tắm nên thân thể dơ bẩn, hôi hám,                              sợ làm ô uế các vị phạm hạnh, cho nên phải ngồi ở                              dưới gió". Phật dạy: "Từ nay về sau, ta cho phép,                              nửa tháng tắm một lần".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              các Tỉ kheo Tháng xuân nóng mà không được tắm nên                              thân thể ngứa ngáy, bứt rứt. Do thế, họ đem sự kiện                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay                              về sau vào mùa nóng ta cho phép được tắm trong hai                              tháng rưỡi: một tháng rưỡi cuối mùa Xuân và một                              tháng đầu mùa hạ. Ðó gọi là hai tháng rưỡi".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, sau khi an cư xong, Ngài                              cùng các Tỉ kheo du hành trong nhân gian đi đến nước                              Kều tát la, giữa đường gặp chỗ cỏ cây rậm rạp, ở                              dưới thì khí nóng xông lên, bên trên thì mặt trời                              thiêu đốt, khiến cho rất khổ não. Các Tỉ kheo bèn                              chạy nhanh đến chỗ có nước, như nai chạy tới hồ.                              Phật biết mà vẫn hỏi (nguyên nhân). Các Tỉ kheo liền                              kể đầy đủ sự việc trên..., vì khổ não như vậy nên                              mới tranh nhau chạy đến chỗ có nước. Phật liền dạy:                             "Từ nay về sau, Ta cho phép khi đi được quyền                              tắm".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Vì năm sự                              lợi ích nên Thế Tôn cứ năm hôm đi tuần tra phòng ốc                              các Tỉ kheo một lần. Ngài trông thấy một Tỉ kheo bị                              bệnh ghẻ ngứa, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi: "Tỉ                              kheo, ông có thấy dễ chịu không?"Thầy đáp: "Bạch Thế                              Tôn, không được dễ chịu. Con bị bệnh [372b] ghẻ                              ngứa, nếu được tắm thường xuyên thì mới an lạc,                              nhưng Thế Tôn chế giới không cho tắm cho nên không                              được an lạc". Phật dạy: "Từ nay trở đi, Ta cho                              phép Tỉ kheo có bệnh được tắm".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại tinh xá Khoáng Dã, nói rộng như trên. Bấy                              giờ, thầy Tỉ kheo doanh sự chở đất, chở gạch, làm                              các công việc mà không dám tắm, cứ để nguyên như thế                              nằm ngủ. Sáng sớm hôm sau, trên chân có dấu bùn đất,                              Phật biết nhưng vẫn hỏi: "Này Tỉ kheo, trên chân ông                              vì sao có dấu đất?".                               Thầy đáp: "Bạch                              Thế Tôn, con làm các công việc bị bùn vấy bẩn thân                              mình, mà vì sợ phạm giới nên không dám tắm, do đó                              chân con có vết bùn". Phật nói: "Từ nay trở đi,                              Ta cho phép khi làm việc được tắm".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              các Tỉ kheo gặp cơn gió thổi mạnh, khiến bụi tấp                              trên mình, rồi lại gặp trời mưa, nhưng không dám                              tắm, cứ để y như thế nằm ngủ. Sáng sớm hôm sau họ                              đến vấn an Thế Tôn, Phật biết nhưng vẫn hỏi: "Này Tỉ                              kheo, trên thân ông vì sao có bụi bẩn như thế?".                               Thầy đáp: "Bạch                              Thế Tôn, ngày hôm qua bị gió thổi bụi tấp trên mình,                              lại gặp trời mưa, nhưng con không dám tắm, cho nên                              trên thân có vết bụi bẩn". Phật nói: "Từ hôm nay,                              Ta cho phép khi có gió lớn được tắm".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ                              trời đang quang đãng, có ít sợi mây nổi lên, rồi                              bỗng chốc đổ cơn mưa lớn.                               Phật nói với các                              Tỉ kheo: "Ðó là trận mưa tốt lành đầu tiên ở cõi                              Diêm phù đề này, các ông nên tắm mưa, nước mưa có                              thể trừ được các bệnh ghẻ chốc trong mình".                               Nhưng các Tỉ kheo                              trong lòng hồ nghi: "Ðức Thế Tôn chế giới không được                              tắm, vì sao nay chúng ta lại được tắm?".                               Phật dạy: "Từ                              nay về sau, Ta cho phép khi trời mưa thì được tắm".                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              chưa đến nửa tháng mà tắm - trừ trường hợp đặc biệt                              - phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Trường hợp đặc                              biệt: Một tháng rưỡi cuối mùa Xuân và một tháng đầu                              mùa hạ, trong hai tháng rưỡi đó, và các dịp như: khi                              trời nóng, khi bệnh, khi làm việc, khi gió, khi mưa,                              khi đi đường; đó gọi là các rường hợp đặc biệt.                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Nửa tháng:                              Nếu tắm ngày mười lăm thì tính đủ mười lăm ngày nữa                              rồi tắm. Nếu tắm ngày mười bốn, mười ba, mười hai,                              mười một, mười, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba,                              hai, một thì nên từ ngày tắm đếm đủ mười lăm ngày                              rồi tắm nữa.                              Trừ trường                              hợp đặc biệt:                              (Những ngày ấy) Thế Tôn nói không có tội.                              Khi nóng:                              Một tháng rưỡi cuối mùa Xuân và một tháng đầu mùa                              hạ, trong khoảng hai tháng rưỡi ấy chính là khi                              nóng. Nhưng không được kể trước và sau mà chỉ nên kể                              trong hiện tại.                              [372c] Khi                              bệnh: Nếu Tỉ kheo bị các chứng bệnh như: ghẻ                              lở, ghẻ ngứa, lác, sài, ung thư ... cần phải tắm mới                              được thỏa thích, thì cho phép tắm. Ðó gọi là khi                              bệnh. Nhưng không kể trước và sau mà chỉ nên kể                              trong hiện tại.                              Khi làm                              việc:                              Trong tất cả các lúc chúng Tăng làm việc: Tỉ kheo                              làm đất, sửa chữa phòng ốc, hoặc khai thông vũng                              nước đọng, hoặc vét giếng, hoặc đổ nền phòng xá,                              hoặc quét tước, hoặc tắm rửa cho Hòa thượng, A xà                              lê, cho đến quét tháp viện, Tăng viện, thậm chí cầm                              cây chổi quét năm, sáu cái thì được gọi là khi làm                              việc. (Những lúc ấy) tắm thì không có tội. Nhưng                              không được kể trước và sau mà chỉ được kể trong hiện                              tại.                              Khi gió:                              Nếu Tỉ kheo bị gió thổi, bụi tấp trên mình thì được                              tắm rửa không có tội. Nhưng không được kể trước và                              sau mà chỉ được kể trong hiện tại.                              Khi mưa:                              Nếu trời mưa mà tắm thì không có tội. Nhưng không                              được kể trước và sau mà chỉ được kể trong hiện tại.                              Khi đi:                              Khi đi ba do diên, hai do diên, ít nhất là một câu                              lô xá, hoặc đi, hoặc lại, thì gọi là khi đi. Lúc đó                              tắm thì không có tội. Nhưng không được kể trước và                              sau mà chỉ được kể trong hiện tại.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo không                              gặp các dịp kể trên thì nên bắt chước phương pháp                              tắm của thợ đúc: trước hết rửa hai đầu gối, hai bàn                              chân, sau đó mới thấm nước trên đầu, mặt, sau lưng,                              cánh tay, khuỷu tay, ngực, nách. Thế nên nói (kệ):                              "Ðốt lửa, quá ba                              đêm,                                 49. GIỚI: UỐNG NƯỚC CÓ                              SINH TRÙNG. Khi Phật ở tại Tì                              xá li, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả Ưu đà di                              đi đường, thấy khát nước đến cực độ, liền vào trong                              thôn, tới một cô gái, hỏi: "Này chị, chị cho tôi ít                              nước". Cô gái ấy bèn lấy nước đưa cho, nhưng trong                              nước có trùng, Ưu đà di thấy vậy, liền suy nghĩ: "Ta                              chỉ uống chỗ không có trùng này thôi". Nhưng khi                              uống trùng theo nước vào miệng. Khi uống xong, thầy                              sinh nghi, bèn đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn.                              Phật khiển trách: "Vì sao ông biết nước có trùng mà                              uống? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta                              dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp                              được. Từ nay về sau, nếu biết nước có trùng thì                              không được uống".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ                              có hai Tỉ kheo ở nước Ba la chi phương Nam cùng kết                              bạn, đến Xá Vệ vấn an Thế Tôn. Giữa đường bị đói                              khát mà không có nước uống nên họ đi đến một cái                              giếng. Lúc ấy, một Tỉ kheo múc nước lên, liền uống.                              Còn Tỉ kheo kia thấy nước có trùng nên không uống.                              Tỉ kheo uống nước có trùng hỏi Tỉ kheo bạn: "Vì sao                              thầy không uống?". [373a] Thầy ấy đáp: "Ðức Thế Tôn                              chế giới không được uống nước có trùng mà nước này                              có trùng nên tôi không uống". Tỉ kheo uống nước bèn                              khuyên: "Trưởng lão, thầy hãy uống nước chớ để chết                              khát mà không thấy Phật". Thầy đáp: "Thà tôi mất                              mạng chớ không hủy giới của Phật". Nói thế xong,                              thầy liền chết vì khát nước.                              Thầy Tỉ kheo uống                              nước dần dần đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân                              Phật rồi đứng hầu một bên. Phật biết nhưng vẫn hỏi:                              - Tỉ kheo, ông từ                              đâu đến?                              - Con từ nước Ba                              la chi đến.                              - Này Tỉ kheo,                              ông có bạn không?                              - Chúng con hai                              người cùng kết bạn, nhưng đi được nửa đường thì bị                              đói khát mà không có nước, chúng con đến một cái                              giếng, nước giếng có trùng, con liền lấy uống. Nhờ                              có sức nước mà con được hầu cận Thế Tôn. Còn thấy                              kia giữ giới không uống, nên đã chết vì khát nước.                              - Này kẻ ngu si,                              ông không thấy Ta mà tưởng rằng được thấy Ta. Còn Tỉ                              kheo chết kia thì đã thấy Ta trước rồi. Nếu Tỉ kheo                              phóng túng biếng nhác, không thu nhiếp các căn thì                              dù ở với Ta một chỗ, nhưng Tỉ kheo ấy cách Ta rất                              xa. Tuy ông ấy thấy Ta nhưng ta không thấy ông ấy.                              Trái lại, nếu Tỉ kheo sống nơi góc biển chân trời mà                              không phóng dật, siêng năng không biếng nhác, thu                              nhiếp các căn, thì tuy cách xa Ta mà Ta thường thấy                              người ấy và người ấy thường gần Ta.                              Thế rồi, Phật nói                              với Tỉ kheo (đang diện kiến): "Ðó là việc ác, phi                              pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc                              ấy để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay về sau, biết                              nước có trùng thì không được uống". Ðoạn, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              biết nước có trùng mà uống thì phạm Ba-dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Biết:                              Hoặc tự biết, hoặc nghe người khác mà biết.                              Trùng:                              Không phải là cá, rùa, thất thâu (?), ma la (?) mà                              là các côn trùng nhỏ bé như con quăng quăng, cho đến                              những loài có hình thù cực nhỏ mà mắt thấy được, đều                              gọi là trùng.                              Nước:                              Gồm có mười loại như trên đã nói.                              Uống:                              Nước vào đến bụng (thì gọi là uống).                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Tỉ kheo thọ Cụ                              túc rồi cần phải sắm đãy lọc nước và phải tắm rửa                              đúng pháp. Khi đi đâu, Tỉ kheo phải đem theo đãy lọc                              nước. Nếu không có thì tối thiểu phải dùng một góc y                              Uất đa la tăng (để lọc). Khi nhìn vào nước, không                              nên dùng thiên nhãn để xem, cũng không được bảo                              người mắt thong manh xem, tối thiểu là nhờ người có                              thể thấy những đường chỉ nhỏ nhất trong bàn tay để                              xem. Khi nhìn vào nước không nên nhìn qua loa mà                              phải chú ý xem, không được quá mau, không được quá                              chậm mà phải bằng thời gian con voi lớn quay mình                              lại, hay chiếc xe chở tre trở đầu . Nước không trùng                              thì nên dùng, nếu nước có trùng thì nên lọc mà dùng.                              Nước có [373b] ba lớp: dưới, giữa, trên. Nếu phần                              dưới không trùng mà phần giữa và trên có trùng thì                              nên lấy phần nước không có trùng ở dưới mà dùng. Nếu                              phần nước ở giữa không có trùng, còn phần trên và                              phần dưới có trùng thì nên lấy phần nước ở giữa mà                              dùng. Nếu phần trên không có trùng thì nên lấy phần                              nước trên mà dùng. Nếu phần trên có trùng thì nên                              dùng tay vỗ nước để cho trùng lặn xuống đáy, rồi lấy                              nước dùng. Nếu cả ba phần đều có trùng, thì lúc ấy                              nên lọc nước mà dùng. Nếu trong nước có trùng quá vi                              tế thì không được dùng rửa tay rửa mặt và dùng dội                              cầu khi đại tiểu tiện.                              Nếu nhà đàn việt                              mời Tỉ kheo thọ trai, thì khi ấy nên hỏi: "Ngươi đã                              lọc nước chưa?". Nếu đáp: "Chưa lọc", thì nên xem                              xét người đang đối diện mà tin tưởng được, khi ấy                              hãy bảo họ lọc nước. Nếu xét người ấy không đáng tín                              thì không nên sai họ lọc, kẻo sẽ sát hại côn trùng,                              Tỉ kheo nên tự lọc rồi dùng. Thế rồi, nên đổ nước có                              trùng ấy vào trong tô của mình, rồi hỏi xem họ lấy                              nước ở đâu, để mình đem nước có trùng ấy đổ lại chỗ                              cũ. Nếu chỗ đã lấy nước trước kia ở xa, mà gần đó                              thấy có hồ nước trải qua bảy ngày không khô cạn, thì                              được đem nước có trùng kia đổ vào trong hồ đó. Nếu                              không có hồ nước, thì phải múc nước đổ thêm đầy tô                              để nuôi chúng. Rồi đợi khi trời mưa to, có đường                              nước chảy mạnh, ta sẽ đem tô nước có trùng kia đổ                              vào trong đó, và chú nguyện rằng: "Ngươi hãy vào                              trong biển lớn nhé!"                              Nếu Tỉ kheo đang                              đi giữa đường mà khát nước cần uống, thì khi đến                              giếng lấy nước phải xem kỹ, không có trùng thì được                              uống, có trùng thì phải lọc sạch rồi mới uống, như                              phương pháp ở trên. Nếu biết nước có trùng thì không                              được đem đổ vào trong thùng.                               Nếu đem nước mình                              múc dưới hồ cho ai thì khi rót ra phải xem kỹ rồi                              mới đưa.                               Nếu thấy nước có                              trùng thì không được la lên: "Trưởng lão, nước này                              có trùng, có trùng", khiến cho người ấy sinh nghi,                              không vui.                               Nếu người đó hỏi:                              "Nước này có trùng không?", thì nên đáp: "Trưởng lão                              tự xem lấy". Nếu người đó là bạn tri thức cùng Hòa                              thượng, A xà lê thì nên nói: "Nước này có trùng, nên                              lọc rồi mới dùng".                              Tóm lại, nếu nước                              có trùng mà tưởng là không trùng rồi dùng thì phạm                              tội Việt tì ni.                              Nếu nước không                              trùng mà tưởng là có trùng (rồi dùng) thì phạm tội                              Việt tì ni.                              Nếu nước có trùng                              mà tưởng là có trùng rồi dùng, thì phạm tội Ba dạ                              đề.                              Nếu nước không có                              trùng, tưởng là không có trùng rồi dùng, thì không                              có tội.                              Thế nên nói (như                              trên).                                                                                                                     50. GIỚI: CHO                              TU SĨ NGOẠI ÐẠO ÐỒ ĂN.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả                              A Nan có tên tốt đầy đủ, tánh tốt đầy đủ, gia thế                              tốt đầy đủ. Vì đầy đủ ba việc ấy nên được người đời                              quí trọng. Mỗi khi đến ngày lành (tốt), như về nhà                              mới, cưới hỏi, xỏ lỗ tai, thì người ta mời A Nan                              trước hết. Bữa nọ, một nhà kia mời tôn giả A Nan thọ                              trai, thì có một người ngoại đạo xuất gia da đen,                              mắt xanh, bụng bự đến chỗ A Nan xin thức ăn. A Nan                              [373c] liền cho đồ ăn. Ông ta dùng tay vốc cơm mà                              ăn, ăn xong lại dùng tay chùi trên mình rồi đi. Lại                              có một ngoại đạo khác đến hỏi ông ta: "Ông được thức                              ăn ở đâu vậy?"                              Ông đáp: "Tôi                              được thức ăn từ ông cư sĩ trọc đầu này đây".                               A Nan nghe lời                              nói ấy, lòng không vui, nên sau đó có người đến xin                              thì thầy không cho. Ðoạn, thầy đem sự việc ấy đến                              bạch với Thế Tôn. Phật bèn nói với A Nan: "Người này                              không biết tri ân. Từ nay trở đi, Ta không cho phép                              Tỉ kheo tự tay cho thức ăn cho người xuất gia thuộc                              ngoại đạo lõa thể".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              đức Thế Tôn cứ bốn tháng cạo tóc một lần. Người đời                              nghe Phật cạo tóc bèn dâng các thức cúng dường. Khi                              ấy, gặp lúc đói kém nên có năm trăm người thường                              theo Thế Tôn xin thức ăn thừa. Phật hỏi A Nan có                              thức ăn thừa không, thầy đáp: "Có bánh".                               Phật bảo: "Hãy                              chia cho những người khất thực".                               A Nan liền phân                              phát mỗi người một cái. Trong số đó có một phụ nữ                              ngoại đạo xuất gia, lúc A Nan cầm bánh cho cô thì có                              hai cái dính vào nhau. Những người được bánh bèn                              quây quần ăn tại một chỗ, rồi phát biểu: "Thứ bánh                              này ngon tuyệt, chỉ hiềm là ít quá, được có mỗi một                              cái!". Người được hai cái liền nói: "Tôi được hai                              cái".                               Người được một                              cái nói: "A Nan sẽ là chồng cô chăng vì sao lại chỉ                              cho riêng cô hai cái?".                              A Nan nghe thế                              không vui, liền đem sự việc ấy đến bạch đầy đủ lên                              Thế Tôn. Phật dạy: "Từ nay trở đi, Ta không cho phép                              Tỉ kheo tự tay cho thức ăn cho nam nữ xuất gia thuộc                              ngoại đạo lõa thể".                              Rồi các Tỉ kheo                              liền bạch với Phật: "Vì sao kẻ ngoại đạo đó không                              biết tri ân?".                               Phật dạy: "Không                              những ngày nay không biết tri ân mà trong quá khứ                              cũng đã từng như thế, như trong kinh Bản Sinh Di Hầu                              đã nói rõ.". Ðoạn, Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo                              đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất                              cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              tự tay cho thức ăn cho nam nữ xuất gia thuộc ngoại                              đạo lõa thể thì phạm tội Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Lõa thể                              (không có y phục):                              Hoặc (người) không có y đi vào, người có y đi ra;                              hoặc người có y đi vào, người không có y đi ra, hoặc                              người có y đi vào, người có y đi ra; hoặc người                              không có y đi vào rồi người không có y đi ra (?)                              Xuất gia:                              Chỉ cho ngoại đạo xuất gia như Bất lan ca diếp, cho                              đến Ni Kiền Tử.                              Tự tay:                              Hoặc cho bằng tay nhận bằng tay, hoặc cho bằng bát                              nhận bằng bát.                               Thức ăn:                              Gồm năm loại thức ăn chính và năm loại thức ăn tạp.                              Nếu cho các loại thức ăn ấy thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu cha mẹ anh em                              chị em của Tỉ kheo xuất gia theo ngoại đạo, Tỉ kheo                              cũng không được tự tay [374a] cho thức ăn, mà nên                              bảo tịnh nhân đưa cho. Nếu không có tịnh nhân thì                              nên bảo họ tự lấy thức ăn. Nếu sợ ngoại đạo khác ăn                              hết thì nên bảo họ đưa cho mình cái bát rồi mình tùy                              ý sớt thức ăn, đoạn, đặt trên giường, ghế, hoặc trên                              đất rồi nói: "Người tự lấy ăn".                               Nếu người ngoại                              đạo quyến thuộc ấy trách như sau: "Nay ngươi tiếp ta                              theo cách của Chiên đà la", thì Tỉ kheo nên đáp:                              "Người xuất gia không đúng chỗ. Ðức Thế Tôn chế giới                              (phải làm) như vậy. Nếu người muốn ăn thì ăn, còn                              không muốn ăn thì tùy ý". Nếu khi Tỉ kheo sai ngoại                              đạo làm việc thì cũng không được tự tay đưa cho họ                              thức ăn mà phải bảo tịnh nhân đưa. Nếu không có tịnh                              nhân thì đưa như cách ở trên. Nếu ngoại đạo đến xin                              nước gạo, nước cơm, cũng không được tự tay đưa. Nếu                              ngoại đạo đến khất thực tại chỗ chúng Tăng, cũng                              không được tự tay đưa mà phải để dưới đất mà đưa.                              Nếu ngoại đạo có lòng tin muốn cúng dường Tỉ kheo,                              thì bấy giờ Tỉ kheo cũng không được tự tay đưa thức                              ăn thức uống, nhưng được sai ngoại đạo làm thức ăn                              thức uống, rồi bảo họ đưa cho mình ăn. Khi ăn xong,                              thức ăn còn thừa nên cho họ. Phương pháp cho như                              trên đã nói.                               Thế nên nói (như                              trên).                                                                                        51. GIỚI: NGỒI NƠI PHÒNG NGỦ NHÀ THÍ CHỦ.                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả                              Ưu đà di cùng với người bạn Bà la môn quen biết,                              hai người                              cùng ở chung một thôn. Con gái ông Bà la môn này lấy                              chồng tại một thôn khác. Cô ta sai người báo tin cho                              cha: "Cha hãy thường thường đến thăm con. Nếu cha                              không đến được thì hãy nhờ thầy Ưu đà di thường                              thường đến thăm con", như trong hai giới Bất định ở                              trước đã nói rõ, (cho đến) Phật nói với Ưu đà di:                              "Ðó là việc xấu. Người tại gia còn biết phép tắc của                              Sa môn, ông là người xuất gia vì sao không biết chỗ                              nào nên ngồi, chỗ nào không nên ngồi? Ðó là hành vi                              phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng                              việc ấy để nuôi lớn Thiện pháp được". Thế rồi Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất                              cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ                              kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              biết "Thực gia dâm xứ"mà ngồi, thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo biết Thực gia bình xứ mà ngồi thì phạm                              Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Biết:                              Hoặc tự biết, hoặc nghe từ người khác mà biết.                              Thực (thức                              ăn):                              Gồm có: gạo lúa tẻ, gạo lúa mạch, cá, thịt, các thứ                              như vậy gọi là thức ăn. Lại có những thức ăn khác                              như: Nhãn thức thấy sắc khởi ái niệm, sinh đắm                              trước; nhĩ, tỉ, thiệt, thân cũng như vậy. Lại có                              những thức ăn khác như: Nồi lấy vung làm thức ăn;                              cối lấy chày làm thức ăn; hộc lấy đấu làm thức ăn..,                              các trường hợp như vậy đều gọi là thức ăn. Lại còn                              có thức ăn khác như: nam giới [374b] là thức ăn của                              phụ nữ; phụ nữ là thức ăn của nam giới.                              Gia (nhà):                              Nhà Bà la môn, Sát lợi, Tì xá, Thủ đà la.                              Dâm xứ (chỗ                              hành dâm):                              chỗ vợ chồng hành lạc.                              Ngồi: cùng ngồi                              một chỗ thì phạm Ba dạ đề.                              Bình xứ                              (chỗ khuất):                              chỗ mà nam nữ có thể hành dâm không thấy hổ thẹn.                              Lại có chỗ khuất khác, như: hoặc trong chỗ tối, hoặc                              cửa được đóng lại.                              [Trong nguyên bản                              có 3 từ ‘ Tỉ-kheo’, ‘biết’ và ‘ngồi’ dược giải thích                              đến 2 lần, ở đây chỉ dịch 1 lần]                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo ngồi                              một chỗ với vợ chồng người ta thì phạm một tội Ba dạ                              đề. Nếu Tỉ kheo khác từ xa nhìn vào không thấy thì                              phạm hai tội Ba dạ đề. Nếu ngồi tại chỗ dùng để hành                              dâm, ngồi chỗ che khuất, ngồi trong phòng đóng cửa                              lại mà Tỉ kheo ở từ xa nhìn vào không thấy thì phạm                              hai tội Ba dạ đề. Nếu Tỉ kheo ở ngoài nhìn vào thấy,                              thì phạm một tội Ba dạ đề.                              (Nếu Tỉ kheo)                              ngồi chung (với vợ chồng người kia) ở trong nhà, mà                              ở giữa sân có đống mía che khuất, hoặc đống lúa che                              khuất, hoặc bức tường che khuất thì cũng như vậy.                              Nhưng nếu có Tỉ kheo bạn thì không phạm tội. Nhưng                              dù có nhiều người bạn bạch y vẫn phạm, (trừ trường                              hợp) tất cả (những người ngồi đó) đều là nam giới                              thì không có tội. Hoặc tất cả những người ấy đều là                              nữ giới cũng không có tội. Thế nên nói (như trên).                                                                                        52. GIỚI: ÐI XEM QUÂN TRẬN.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, viên                              đại thần thuộc xứ Kiều tát la tên Di ni vốn dòng dõi                              Sát lợi làm phản. Do đó, vua Ba tư nặc tập họp bốn                              binh chủng, chọn ngày lành, cùng với các đại thần                              đánh trống khua chuông, chuẩn bị kéo quân đi thảo                              phạt. Khi ấy, tôn giả Nan Ðà, Ưu Ba Nan Ðà bèn đi                              đến đứng trước quân sĩ. Nhà vua thấy thế, bèn từ xa                              bỏ lọng, gập mình tỏ sự cung kính. Các quan đại thần                              thấy vậy liền chê trách: "Xem ra các ông Sa môn                              Thích tử này không hiểu thời thế! Nay đại vương muốn                              thảo phạt nghịch tặc, thế mà các ông ấy lại đứng                              chận trước ba quân". Rồi họ lại than phiền nhà vua:                              "Tướng sĩ của đại vương đông đảo như vậy, lại gặp                              được ngày lành, đi tìm sự lợi ích, thế mà khi thấy                              kẻ Sa môn trọc đầu liền từ xa bỏ lọng, gập mình tỏ                              sự cung kính!"                              Các Tỉ kheo nghe                              thế, liền đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật                              bèn bảo gọi Nan Ðà, Ưu Ba Nan Ðà đến. Khi họ đến                              rồi, Phật hỏi: "Các ông có việc đó thật chăng?"                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              Thế rồi, Phật nói                              với các Tỉ kheo: "Mong sao tất cả các ông vua đều có                              lòng tin như vậy! Từ nay về sau, Ta không cho phép                              (các Tỉ kheo) vào giữa quân lính để gặp họ".                               Ðoạn, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              xem quân lính xuất trận thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Quân xuất                              trận:                              Tức quân lính cầm khí giới đi đến nước địch. Quân có                              bốn loại: Tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân.                              Tượng quân:                              [374c] Bốn người bảo vệ một thớt voi. Ðó gọi là                              tượng quân.                              Mã quân:                              Tám người bảo vệ một con ngựa. Ðó gọi là mã quân.                              Xa quân:                              Mười sáu người bảo vệ một chiếc xe. Ðó gọi là xa                              quân.                              Bộ quân:                              ba mươi hai người cầm vũ khí (thành một toán). Ðó                              gọi là bộ quân.                              Nếu Tỉ kheo xem                              bốn loại quân này, hoặc xem một trong những loại đó                              thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo muốn                              xem quân lính rồi từ trong thôn xóm đi đến nơi hoang                              dã, từ nơi hoang dã đi vào thôn xóm; hoặc từ chỗ                              thấp lên chỗ cao, từ chỗ cao xuống chỗ thấp; hoặc từ                              chỗ kín đến chỗ trống, từ chỗ trống đến chỗ kín, cố                              ý đi đến xem thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo vào                              thành ấp xóm làng, giữa đường gặp quân trận mà không                              cố ý xem thì không có tội. Nếu cố ý cất đầu lên, cúi                              đầu xuống để quan sát thì phạm Ba dạ đề.                              Hoặc khi vua xuất                              chinh, hoặc voi lớn xuất trận mà đường chật hẹp đông                              đúc, khi ấy Tỉ kheo đứng lại một chỗ không cố ý xem                              thì không có tội. Nếu tác ý muốn xem thì phạm tội                              Việt tì ni.                              Nếu Tỉ kheo xem                              đấu voi, ngựa, bò cho đến đấu gà, thì phạm tội Việt                              tì ni.                              Nếu quân lính đến                              tinh xá, Tỉ kheo không cố ý xem thì không có tội.                              Nếu tác ý xem thì phạm tội Việt tì ni. Thậm chí khi                              người ta cãi nhau mà xem thì phạm tội Việt tì ni.                              Thế nên nói (như trên).                                                                                        53. GIỚI: Ở TRONG QUÂN TRẠI QUÁ HẠN.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ tại nước                              Kiều tát la có viên đại thần dòng dõi Sát lợi tên Di                              ni làm phản không tuân phục triều đình. Do đó, vua                              Ba tư nặc bèn sai viên đại thần Ðạt đa thống lãnh                              bốn binh chủng đến đó chinh phạt. Lúc ấy người đi                              chinh phạt là Ðạt đa sai người đến bạch với Thế Tôn:                              "Nay con sắp xuất chinh, xin Thế Tôn sai các Tỉ kheo                              vì con thuyết diệu pháp". Thế rồi, Phật nói với A                              Nan: "Ông hãy đến trong quân đội vì người đi chinh                              phạt là Ðạt đa thuyết pháp". A Nan liền đến đó. Viên                              đại thần bèn sửa soạn các thức cúng dường. Bấy giờ,                              nhóm sáu Tỉ kheo biết nhà vua sửa soạn các thứ cúng                              dường cho A Nan, liền đến trong quân thọ trai. Khi                              ăn xong, họ đến chỗ quân lính tập trận để xem. Nếu                              thấy không điêu luyện thì chê bai: "Các ngươi dạy                              người ta cưỡi voi giống như cưỡi heo, thật là phí                              lương thực của vua, đem đội quân thế này xông trận                              thì chắc chắn bị mất mạng, mà còn mất voi của vua                              nữa". Nếu họ thấy quân lính thiện chiến thì ca ngợi:                              "Cưỡi voi thật thiện nghệ, mà cầm kích rất đắc thế,                              lại hiểu rõ đấu pháp tả hữu lui tới, xứng đáng ăn                              lộc của quan. Nếu xua đội quân này xông trận thì có                              thể giữ được thân mình mà voi cũng không bị mất".                              Khi họ xem quân                              lính cưỡi ngựa, nếu thấy không điêu luyện, liền chê                              bai: "Các ngươi dạy người cưỡi ngựa giống như cưỡi                              lừa, thật là phí lương thực của vua. Nếu dùng đội                              quân này xông trận thì chắc chắn mất mạng [375a] mà                              còn mất ngựa của vua nữa". Nếu họ thấy thiện chiến                              thì liền ca ngợi: "Các ngươi cưỡi ngựa rất thiện                              nghệ, cầm dây cương rất đắc thế, lui tới tả hữu đều                              có phép tắc, xứng đáng nhận bổng lộc của vua. Nếu                              dùng đội quân này xông trận thì chắc chắn bảo vệ                              được sinh mạng, mà không bị mất ngựa nữa".                              Khi họ xem quân                              xa, nếu thấy thiếu khả năng thì liền chê bai: "Các                              ngươi dạy lính lái xe như leo lên giường, thật uổng                              phí lương thực của vua. Nếu dùng đội quân này xông                              trận thì chắc chắn sẽ bỏ mạng mà còn làm mất xe của                              vua nữa". Nếu họ thấy lái xe thiện nghệ thì ca ngợi:                              "Tài xế cầm lái lui tới điêu luyện quay qua phải                              trái đều rất có phép tắc, xứng đáng nhận bổng lộc                              của vua. Nếu dùng đội quân này xông trận thì chắc                              chắn giữ được tính mạng mà xe cũng không bị mất".                              Khi họ xem bộ                              binh nếu thấy không biết bắn thì liền chê bai: "Các                              ngươi dạy lính cầm cung giống như vuốt lông, thật là                              uổng phí ăn lộc quan. Nếu dùng đội quân này xông                              trận thì chắc chắn mất mạng, mà còn mất cung tên của                              quan". Nếu họ thấy bắn thiện nghệ thì bèn ca ngợi:                              "Thật là ngay ngắn chính xác đúng là những tay thiện                              xạ, xứng đáng ăn lộc của quan. Nếu dùng đội quân này                              xông trận thì chắc chắn bảo toàn được tính mạng, mà                              không bị mất cung tên".                              Khi họ xem đội                              quân đao thuẫn, nếu thấy không có khả năng, liền chê                              bai: "Các ngươi dạy người ta cầm thuẫn giống như cầm                              đao bằng vải. Nếu dùng đội quân này xông trận chắc                              chắn bị bỏ mạng, mà còn mất đao trượng của quan                              nữa". Nếu thấy thiện nghệ liền ca ngợi: "Dùng đao                              thuẫn thiện nghệ rất khéo léo và có phép tắc. Nếu                              dùng đội quân này xông trận chắc chắn bảo toàn tính                              mạng mà đao trượng của vua cũng không bị mất".                              Họ chê bai, khen                              ngợi bốn binh chủng như vậy đó. Những kẻ bị chê bai                              ai nấy đều giận dữ, nói: "Không những ông Di ni dòng                              dõi Sát lợi là kẻ thù của chúng ta, mà nay kẻ Sa môn                              này cũng là tên giặc, chuyên hủy nhục chúng ta, hãy                              cùng nhau giết hắn cho rồi". Thế rồi, quân lính được                              ca ngợi bèn nói với quân lính bị chê bai: "Các Sa                              môn này đều là dòng dõi vua chúa hoặc là dòng dõi                              đại thần, hoặc là dòng dõi Sát lợi, họ vốn đã luyện                              tập binh pháp, thông hiểu chiến trận. Như lời họ                              nói, lẽ ra các anh nên học tập, trái lại, các anh                              còn đâm ra oán hận thật là ngu si hết chỗ nói". Khi                              ấy, những kẻ bị chê bai nghe như thế đều cảm thấy                              rất hổ thẹn.                              Tôn giả A Nan                              nghe được sự việc ấy bèn suy nghĩ: "Nay ta nên đi,                              nếu ở đây lâu, e sinh tai họa", liền trở về lại tinh                              xá. Phật biết nhưng vẫn hỏi A Nan:                              - Ông đã thuyết                              pháp cho người đi chinh chiến là Ðạt đa rồi chăng?                              A Nan liền đem sự                              việc trên bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm                              sáu Tỉ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi:                              - Các ông có việc                              đó thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Ðó là việc xấu,                              phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy; không thể dùng                              việc đó để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay về sau,                              khi có nhân duyên thì Ta mới cho phép vào trong quân                              trại ba đêm.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ [375b] phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích                              mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              có nhân duyên được vào trong quân ngũ ba đêm, nếu                              quá (ba đêm) thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Nhân duyên:                              Hoặc việc của Tăng, việc của tháp, việc của riêng                              mình.                              Quân:                              Như trên đã nói.                              Ba đêm:                              Tối đa là ba đêm, nếu quá thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo đêm                              thứ nhất ngủ tại bộ binh, đêm thứ hai tại tượng                              binh, đêm thứ ba tại mã binh, đêm thứ tư tại xa binh                              thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu đêm thứ nhất                              ngủ tại tượng binh, đêm thứ hai tại mã binh, đêm thứ                              ba tại xa binh, đêm thứ tư tại bộ binh thì phạm Ba                              dạ đề.                              Nếu đêm thứ nhất                              ngủ tại mã binh, đêm thứ hai tại xa binh, đêm thứ ba                              tại cung binh, đêm thứ tư tại sáo (dáo dài) binh thì                              phạm Ba dạ đề.                              Nếu đêm thứ nhất                              ngủ tại xa binh, đêm thứ hai tại cung binh, đêm thứ                              ba tại mâu binh, đêm thứ tư tại đao binh thì phạm Ba                              dạ đề.                              Nếu đêm thứ nhất                              ngủ tại cung binh, đêm thứ hai tại sáo binh, đêm thứ                              ba tại đao binh, đêm thứ tư tại ngoại la binh (lính                              canh phòng) thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu đêm thứ nhất                              ngủ tại mâu binh, đêm thứ hai tại đao binh, đêm thứ                              ba tại ngoại la binh, đêm thứ tư rời khỏi chỗ có thể                              nghe thấy được thì không có tội.                              Nếu vì tháp, vì                              Tăng lo giải quyết công việc chưa xong thì nên rời                              quân đội một đêm rồi được ngủ trở lại. Nếu thành ấp                              xa không thể đến được thì nên rời khỏi chỗ quân có                              thể thấy nghe mà ngủ, khi ngủ nên nói với quân ngoại                              la: "Ban đêm tôi muốn ngủ tại mỗ xứ, chớ tưởng là                              người khác".                              Nếu quân lính đến                              đóng trong chùa thì không nên bỏ đi, dù nhiều đêm                              cũng không có tội. Thế nên nói (như trên).                                                                                        54. GIỚI: XEM QUÂN ÐỘI DIỄN TẬP.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm                              sáu Tỉ kheo ngủ trong quân trại ba đêm rồi, bèn đến                              chỗ thao trường xem, nếu thấy quân lính không biết                              cưỡi voi, liền chê bai: "Kẻ này cưỡi voi giống như                              cưỡi heo, nếu vào trận chiến thì chắc chắn sẽ mất                              mạng, thật là uổng phí bổng lộc của vua". Nếu thấy                              cưỡi voi thiện nghệ thì khen ngợi: "Kẻ này cưỡi voi                              thiện nghệ, cầm móc điều khiển tới lui, xoay bên                              trái bên phải đều khéo léo. Nếu xông trận thì chắc                              chắn phá được quân giặc, lại bảo toàn được tính                              mạng. Người như thế xứng đáng ăn lộc của vua". Khi                              họ thấy những ai không thể cưỡi ngựa, lái xe, cầm                              cung, đao, mâu, thuẫn, sáo thì nhất nhất chê bai                              hoặc khen ngợi, rồi chỉ bảo: "Ngươi phải cưỡi voi,                              cưỡi ngựa, lái xe, cầm cung, cầm thuẫn, cầm mâu                              [375c] như thế này, thế này này".                              Những kẻ không                              thể làm được, nghe họ chê như vậy, liền nổi giận,                              nói: "Ðây chính là giặc chứ còn tìm giặc ở đâu nữa.                              Chúng ta hãy cùng nhau giết hắn". Khi ấy, những kẻ                              được khen ngợi liền nói: "Các Tỉ kheo này đều là                              dòng dõi vua chúa, dòng dõi Sát lợi đại thần, đều                              biết binh pháp. Vì sao các anh không chịu khó học                              hỏi mà trái lại còn oán người ta?". Những kẻ bị chê                              bai nghe nói thế, liền nguôi giận và trong lòng cảm                              thấy hổ thẹn.                              Các Tỉ kheo nghe                              sự kiện ấy, liền đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo                              gọi nhóm sáu Tỉ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền                              hỏi sự việc trên:                              - Các ông có việc                              đó thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Ðó là việc xấu,                              phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng                              việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              có duyên sự thì được ngủ trong quân trại ba đêm,                              nhưng nếu xem quân xuất trận, nha kỳ, cãi lộn, đánh                              nhau, thế lực thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Ba đêm:                              Tối đa là ba đêm.                              Xem:                              Tạo điều kiện cố ý đi đến, hoặc từ chỗ cao xuống chỗ                              thấp, hoặc từ chỗ thấp lên chỗ cao.                              Quân:                              Bốn quân chủng như trên đã nói.                              Nha kỳ:                              Hoặc là hình sư tử, hoặc hình bán nguyệt.                              Cãi:                              cãi nhau bằng miệng.                              Ðánh:                              hai nhóm giao đấu.                              Thế lực:                              Xem coi sự thế mạnh yếu nghiêng về bên nào, thì gọi                              là thế lực.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo đang                              đi trên đường gặp quân lính mà không cố ý xem thì                              không có tội. Nếu tạo phương tiện để xem thì phạm Ba                              dạ đề.                              Nếu quân cướp từ                              trong thôn đi ra, Tỉ kheo đang đi giữa đường gặp họ                              mà không cố ý xem thì không có tội. Nếu tạo phương                              tiện để xem thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo đang                              đi kinh hành nơi thôn dã gặp quân giặc đến mà không                              cố ý xem thì không có tội. Nếu tạo phương tiện để                              xem thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo đang                              đi kinh hành nơi rừng hoang, rồi bọn cướp vừa cướp                              bóc trong thôn đi ngang qua chỗ Tỉ kheo, sau đó,                              những người truy đuổi bọn cướp đi tìm chúng đến chỗ                              Tỉ kheo hỏi Tỉ kheo: "Có thấy bọn cướp không?", thì                              Tỉ kheo không được nói dối, cũng không được chỉ chỗ                              bọn cướp mà nên nói: "Hãy xem móng tay đây này".                              Nếu Tỉ kheo đang                              ở trong thành, bỗng có giặc đến vây thành, rồi vua                              bảo Tỉ kheo phải lên cả trên thành để chứng tỏ trong                              thành có đông người, mà Tỉ kheo không cố ý xem thì                              không có tội. Nếu tạo phương tiện để xem thì phạm Ba                              dạ đề. Thế nên nói (như trên).                                                                                        55. GIỚI: ÐÁNH TỈ-KHEO KHÁC.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm                              sáu Tỉ kheo từ chỗ ngồi thiền đứng dậy, dùng nắm tay                              cú vào đầu nhóm mười sáu Tỉ kheo trẻ. Các Tỉ kheo                              này liền khóc rống lên. [376a] Phật nghe tiếng khóc,                              tuy biết nhưng vẫn hỏi các Tỉ kheo:                              - Ở trong đây vì                              sao có tiếng khóc của trẻ con?                              - Bạch Thế Tôn,                              nhóm sáu Tỉ kheo sau khi từ phòng tọa thiền đứng                              dậy, bèn dùng nắm tay cú lên đàu nhóm mười sáu Tỉ                              kheo trẻ, do đó nên họ khóc.                              - Hãy đi gọi nhóm                              sáu Tỉ kheo đến.                              Khi họ đến rồi,                              Phật liền hỏi đầy đủ sự việc kể trên:                              - Các ông có việc                              đó thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Vì sao như vậy?                              - Vì muốn đùa cho                              vui.                              - Này những kẻ                              ngu si, đó là việc ác, làm não lọan những người phạm                              hạnh mà lại bảo là vui. Này nhóm sáu Tỉ kheo, chớ                              khinh thường những người ấy. Nếu họ nhập định thì họ                              có thể dùng sức thần túc xách các ngươi ném vào một                              thế giới khác đấy. Các ông không từng nghe Ta dùng                              vô lượng phương tiện dạy rằng nên khởi thân, khẩu, ý                              Từ bi cung kính cúng dường đối với các bậc phạm hạnh                              hay sao? Vì sao lại làm việc ác bất thiện như vậy?                              Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy,                              không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              đánh Tỉ kheo khác thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Ðánh:                              Hoặc dùng thân, thân phần, thân phương tiện.                              Thân:                              Dùng toàn bộ thân thì gọi là thân.                              Thân phần:                              Hoặc tay, hoặc chân, hoặc cùi chỏ, hoặc đầu gối,                              hoặc răng, hoặc móng; đó gọi là thân phần.                              Thân phương                              tiện:                              Hoặc cầm gậy gộc, gạch đá mà đánh, hoặc từ xa ném                              đá, đó gọi là thân phương tiện.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo đánh                              Tỉ kheo thì phạm Ba-dạ-đề, đánh Tỉ-kheo-ni thì phạm                              Thâu lan giá; đánh Thức xoa ma ni, Sa di, Sa di ni                              thì phạm tội Việt tì ni; sau hết, nếu đánh người thế                              tục thì phạm tội Việt tì ni, tâm niệm sám hối.                              Nếu có các loài                              muông thú hung dữ như voi, ngựa, trâu, dê, chó đến                              thì không được đánh mà chỉ được cầm gậy gộc gạch đá                              đập xuống đất để khủng bố chúng mà thôi.                              Nếu súc vật vào                              trong tháp làm phương hại hình tượng, phá hoại hoa                              quả cây cối, cũng chỉ được dùng gậy gộc, gạch đá đập                              xuống đất cho chúng sợ bỏ đi mà thôi.                              Thế nên nói (như                              trên).                                                                                        56. GIỚI: DỌA ÐÁNH TỈ-KHEO KHÁC.                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Vì Thế Tôn chế                              giới không cho Tỉ kheo đánh nhau, nên khi ấy nhóm                              sáu Tỉ kheo từ phòng thiền đứng dậy dùng nắm tay đe                              dọa nhóm mười sáu Tỉ kheo trẻ, nói như sau: "Ta sẽ                              dùng nắm tay này đánh vỡ mặt các ngươi". Vì bị khủng                              bố nên họ bèn khóc lớn lên. Phật nghe tiếng khóc,                              tuy biết mà vẫn hỏi các Tỉ kheo:                              - Ðó là tiếng                              khóc của trẻ con nào thế?                              - Ðó là do nhóm                              sáu Tỉ kheo [376b] từ phòng thiền đứng dậy dùng nắm                              tay đe dọa nhóm mười sáu Tỉ kheo trẻ, nói như sau:                              "Ta dùng nắm tay đánh vỡ mặt các ngươi". Vì bị khủng                              bố nên họ liền khóc lớn lên.                              - Hãy gọi nhóm                              sáu Tỉ kheo đến đây.                              Khi họ đến rồi,                              Phật liền hỏi sự việc trên:                              - Các ông có việc                              đó thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Tại sao như                              vậy?                              - Vì để đùa cho                              vui.                              - Này những kẻ                              ngu si, đó là việc ác, làm não lọan những người phạm                              hạnh, mà bảo là đùa cho vui. Các ông chớ khinh                              thường những người ấy. Nếu họ nhập định thì họ có                              thể dùng thần lực xách các ông ném vào một thế giới                              khác đấy. Các ông không từng nghe Ta dùng vô lượng                              phương tiện dạy rằng phải khởi thân, khẩu, ý Từ bi,                              cung kính cúng dường các bậc phạm hạnh hay sao? Ðó                              là điều phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không                              thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay                              về sau Ta không cho phép dùng nắm tay để đe dọa                              nhau.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              dùng chưởng đao đe dọa Tỉ kheo khác thì phạm Ba dạ                              đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Chưởng:                              bàn tay.                              Ðao:                              Ngón tay.                              Ðe dọa:                              Biểu lộ dấu hiệu muốn đánh.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu đưa lên một                              ngón tay đe dọa thì phạm Ba dạ đề; cho đến năm ngón                              cũng như vậy.                              Nếu dùng tất cả                              ngón tay đe dọa thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu dùng nắm tay                              đe dọa thì phạm Thâu lan giá.                              Nếu dùng tay đe                              dọa Tỉ kheo thì phạm Ba dạ đề; đe dọa Tỉ kheo ni thì                              phạm Thâu lan giá; đe dọa Thức xoa ma ni, Sa di, Sa                              di ni thì phạm tội Việt tì ni; cuối cùng cho đến đe                              dọa người thế tục thì phạm tôi Việt tì ni tâm niệm                              sám hối.                              Nếu các loại ác                              thú như voi, ngựa, trâu, dê, chó đi đến thì không                              được dùng nắm tay đe dọa mà nên dùng gậy gộc gạch đá                              đập xuống đất khủng bố cho chúng sợ bỏ đi.                              Nếu các loại thú                              ấy vào trong tháp phá hoại các ảnh tượng và hoa quả                              cây cỏ thì cũng chỉ nên (dùng gậy gộc) đập xuống đất                              khủng bố cho chúng sợ bỏ đi mà thôi.                              Thế nên nói (như                              trên).
Gởi dục, vào xóm làng. 
Chê kinh, nuôi phạm nhân, 
Sa di, y ba màu. 
Nhặt của, nửa tháng tắm, 
Hết Bạt cừ thứ năm."                             
