Đức  Phật thuyết 3 loại giáo pháp. Giáo pháp thứ nhất thuộc về giáo lý Tứ  Diệu Đế được Ngài thuyết giảng tại Ba La Nại (Sarnath), Ấn Độ và trở  thành cơ sở nền tảng cho trường phái Thượng Tọa Bộ (Theravadin). Giáo  pháp thứ hai thuộc hệ Tính Không được Ngài thuyết tại Linh Thứu  (Rajagriha) và trở thành cơ sở cho Đại Thừa Phật giáo. Giáo pháp thứ ba  thuộc hệ Kim Cương Thừa (vajrayana) được Phật nói ra ở nhiều địa điểm  khác nhau. Ba La Đề Mộc Xoa (pratimoksa) (Thực ra có đến tám loại giới  ba la đề mộc xoa (pratimoksa). Các tu sĩ mới thọ giới cụ túc là thọ tỳ  khưu (bhiksu) giới, và bên ni là thọ tỳ khưu ni (bhiksuni) giới, khoảng  trên mấy trăm giới. Kế đến là giới cho các tăng mới xuất gia (sramanera)  và các ni mới xuất gia (sramanerika) và các ni trong giai đoạn "tu học"  (siksamana). Kế đến là năm giới dành cho các cư sĩ nam (upasaka) và các  cư sĩ nữ (upasika). Và sau cùng hết là giới vào các ngày trai  (upavasatha) mà bất cứ ai cũng thọ được) hiện vẫn đang được thực hành  tại các xứ Miến Điện, Tích Lan và Thái Lan. Ở Đại Hàn và Trung Hoa nơi  mà giáo lý Đại Thừa hoàn toàn chiếm ưu thế trên phương diện tu tập, thì  ba la đề mộc xoa c?ng được thực hành, song bồ đề tâm giới vẫn là điểm  được nhấn mạnh h?n. Ở Tây Tạng cả ba cấp bực giới luật đều được thực  hành : Ba la đề mộc xoa, Bồ đề tâm (bodhicitta) và Luật nghi của Kim  cương thừa (vajrayana). Bên  ngoài nhìn vào, vấn đề giới luật đối với tăng ni Tây Tạng có vẻ hơi bị  thả lỏng. Các tu sĩ thuộc thượng tọa bộ hay đại thừa đôi khi cho rằng tu  sĩ Tây Tạng quá thả lỏng đến mức như họ không còn giữ giới nữa. Đìều  này không đúng. Ở Ấn Độ, người tu có thể đi khất thực vào buổi sáng và  trở về vào buổi trưa. Nhưng ở Tây Tạng không có các thành phố lớn và các  làng mạc Tây Tạng lại cách xa và rải rác. Thế nên nếu các tu sĩ lên  đường đi khất thực vào bốn giờ sáng, thì phải tận đến chiều tối họ mới  trở về đến và do đó không thể tu tập và học hỏi gì được nữa. Vì vậy, các  bậc pandita và siddha Tây Tạng trong quá khứ đã quyết định thay vì bỏ  cả ngày ra để đi khất thực, thì tốt hơn là để cho các tăng ni dành thì  giờ ấy mà tu học. Thế nên tu sĩ Tây Tạng không đi khất thực. Tu  sĩ Tây Tạng cũng ăn sau giờ ngọ mà đối với một số người, thì như thế  cũng là phạm giới (trong các Kinh Điển đức Phật đặc biệt tuyên thuyết  rằng tăng ni không được ăn các đồ ăn cứng sau giờ ngọ). Song điều này  cũng có lý do của nó. Ở Ấn Độ, chư tăng đi khất thực vào buổi sáng, trở  về vào buổi trưa và thiền định vào buổi chiều. Khất thực cả sáng lẫn  chiều là không đúng. Bởi vì đồ ăn của tăng sĩ hoàn toàn dựa vào khất  thực, nên đức Phật cấm tăng ni ăn vào buổi chiều. Tuy thế, ở Tây Tạng  tăng chúng không đi khất thực nên có thể ăn vào buổi xế trưa hay là buổi  chiều nếu họ vẫn còn đói để họ tu học được tinh tiến hơn. Tuy nhiên,  suốt thời gian sám hối mỗi tháng hai lần và suốt thời gian an cư mùa  mưa, thì đúng là phải đừng ăn chiều để tưởng nhớ đến những giáo huấn của  đức Phật. Tu  sĩ Tây Tạng còn ăn thịt trong khi tu sĩ Trung Hoa thì không ăn. Song  ngay cả tu sĩ của Thượng Tọa Bộ cũng ăn thịt lại cũng vì khi họ đi khất  thực, họ phải nhận bất cứ đồ ăn nào mà thí chủ thí cho, dù đó là thịt,  cá hay rau. Bởi vì người tu có thể phải nhận thịt trong khi khất thực,  nên đức Phật trong Giới Kinh (Vinaya sutra) không cấm việc ăn thịt. Tu  sĩ Trung Hoa không ăn thịt song họ lại ăn đồ biển. Họ không ăn thịt bởi  không ăn thịt thì hàng trăm con trùng có thể có trong thịt ấy sẽ được  cứu thoát. Cũng giống vậy, ở Tây Tạng chỉ có những thịt thuộc về những  con vật to lớn mới được ăn. Thế nên, chẳng hạn như, thịt của một con yak  (trâu) đủ cho một vị tăng dùng trong một năm. Lại nữa, ăn rau cỏ, người  ta có thể giết nhiều hữu tình hơn là ăn một con yak trong công việc  trồng trọt các loại hoa mầu. Vì thế các pandita và các siddha của Tây  Tạng quyết định rằng thà ăn một con yak vẫn tốt hơn là giết quá nhiều  sinh vật nhỏ và như thế vẫn giữ được giới một cách thích đáng. Bằng cách  chỉ ăn loài vật lớn, thì không những Ba la đề mộc xoa giới, mà cả Bồ đề  tâm giới (Bồ đề tâm giới sẽ giải thích cặn kẽ ở phần sau là tâm nguyện  cứu giúp tất cả hữu tình đạt đến giác ngộ) và Kim cương thừa giới (Kim  cương giới cũng sẽ được giải thích chi tiết hơn trong các đoạn sau là  trì giữ tất cả các tâm nguyện và thực hành) cũng đều giữ được. Tôi cũng  tin rằng mình nên ngưng không ăn thịt các loại thú nhỏ nữa mà chỉ ăn  thịt các con thú lớn thôi. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa rằng tu sĩ  Tây Tạng là những người trì giới toàn hảo. Tu  sĩ Tây tạng đắp y màu nâu sẵm trong khi tu sĩ Thượng Tọa Bộ mặc màu  vàng và tu sĩ Trung Hoa mặc màu đen. Đức Phật chế các tu sĩ thọ cụ mặc  các y đỏ, vàng hay xanh lơ với màu nâu sẵm không được đức Phật cho phép.  Thế nên các tu sĩ Phật giáo đại thừa và Thượng Tọa Bộ không dùng y màu  nâu sẵm. Tuy nhiên, các pandita và các siddha Tây Tạng bác bỏ màu xanh  lơ bởi vì đó là màu của cư sĩ mặc và chọn lấy màu nâu sẵm thế vào. (Theo  Khenpo Kartha, màu nâu sẵm hầu như không sẵn có ở Ấn Độ, thế nên rất  đắt giá đối với việc y áo của một tu sĩ. Cũng theo Khenpo Kartha màu nâu  sẵm lại có rất nhiều ở Tây Tạng và vì thế không hề đắt và dễ có được.) Vào  thời đức Phật, các tu sĩ ở Ấn Độ không mặc kiểu áo ngoài như các tu sĩ  Tây Tạng hiện đang mặc và để trần phần thân trên. Khi các pandita Ấn Độ  đến Tây Tạng, các ngài thấy nơi đây quá lạnh nên họ phải suốt ngày đắp  các chăn mền dùng khi ngồi. Thế nên kiểu áo ngoài được cóp pi theo đó và  sau đó kiểu áo được thay đổi để biểu tượng cho sáu Ba la mật  (paramita). Rồi kiểu áo này trở thành đồng phục của tu sĩ Tây Tạng. Giờ  đây chúng ta ở đất Mỹ, và các tăng ni thọ cụ túc đang đông đảo dần. Tôi  tin rằng trong xã hội hiện đại, đi ra ngoài khất thực không thích hợp  nữa, nhưng ăn uống theo lề lối của tu sĩ Tây Tạng sẽ thích hợp hơn, như  ăn đồ ăn vào chiều tối. Hỏi : Rinpoche,  ở phương Tây, chúng tôi thường có quan niệm rằng một con vật như con  chó hay con bò thì quý hơn là một con sâu hay con kiến. Rinpoche : Theo  truyền thống Phật giáo, bất cứ gì có sự sống là có cảm giác. Thế nên  chẳng có gì khác biệt dù đó là vật nhỏ hay lớn. Tuy nhiên, giết một con  người bị coi là một nghiệp rất ác, bởi vì con người có thể đạt đến một  cứu cánh cao cả hơn và có ích lợi cho những hữu tình khác. Song không có  gì khác biệt giữa chó, sâu và bò. Hỏi : Một  trong những mâu thuẫn mà chúng tôi gặp phải đối với các bạn bè không  phải Phật giáo, đó là họ nói rằng chúng ta không giết nhưng chúng ta ăn  thịt. Chúng tôi trả lời phải, nhưng đó là qua đến "tay thứ ba" rồi.  Nhưng nói thế vẫn không giúp họ hiểu nổi. Ngài có thể nói đôi chút về  việc thịt mà đã qua đến "ba tay" rồi chăng ? Rinpoche : Đức  Phật chế định rằng chúng ta có thể ăn thịt nếu chúng ta tránh khỏi ba  trường hợp ý thức như sau, rằng (a) mình không trực tiếp giết con vật ấy  để ăn, (b) mình không bảo người khác giết con vật ấy cho mình ăn, và  (c) con vật ấy hoàn toàn không phải là bị người khác giết để cho mình  ăn. Nếu chúng ta không hề ở trong ba trường hợp nhận thức như vậy, thì  thịt ấy ăn được. Hỏi : Ở  vùng này có nhiều người đánh cá vốn dân địa phương, họ đánh cá để sinh  sống và đưa cá lại cho chúng tôi, có khi do chúng tôi đặt mà cũng có khi  như quà cáp cho chúng tôi. Tôi không biết làm sao để đả thông được các  trường hợp này. Rinpoche : Đừng có nói, "Làm ơn đem cá lại cho tôi" nữa. Nhưng nếu họ đem cá đến để biếu tặng, thì điều đó đâu có sao. Hỏi : Chúng ta có nên mua cá ở ngoài bến hay không ? Rinpoche : Được, vì lúc ấy mình mua một con cá chết mà. Khi cá đã chết rồi, thì hoặc mình mua hay họ tặng mình, cũng giống nhau thôi. Hỏi : Nếu mọi người không ai mua cá nữa, họ sẽ không giết cá nữa. Rinpoche : Cho dù Phật tử chúng ta không ăn cá nữa, thì vẫn có khối người khác vẫn cứ ăn cá. Hỏi : Nhưng với giới không sát thì sao ? Rinpoche : Ăn  thịt và giữ giới không sát hoàn toàn khác hẳn nhau bởi vì chúng ta  không tự tay giết cá, chúng ta mua nó từ nơi người khác. Nếu chúng ta  ngưng không giết thú vật để ăn nữa, thì đó là một việc làm ích lợi cho  loài vật. Tuy nhiên, nếu có một con vật đã bị giết rồi, thì không ăn nó  cũng chẳng giúp gì cho con vật chết ấy và thịt ấy sẽ thối rữa mà thôi. Hỏi : Nhưng  nó vẫn luôn đưa đến ý nghĩ rằng con vật sẽ bị giết. Thực ra, đó là hành  động ác được đưa sang cho người khác để mình được thanh tịnh. Nếu chúng  ta là một bodhisattva tốt, chúng ta nên chính mình nhận lãnh lấy thay  vì là đưa sang cho người khác. Rinpoche : Chúng  ta phải gánh chịu lấy karma của chính mình. Điều quan trọng nhất là  ngăn chặn mình đừng làm các ác nghiệp. Điều càng tốt nữa là mình khuyên  người khác đừng làm ác. Nhưng phần nhiều đều tùy thuộc vào cá nhân.  Chẳng hạn, tôi có lần đã phạm một lỗi lầm giống vậy. Tôi thấy có màng  lưới nhện trong phòng tắm và nghĩ rằng con nhện sẽ giết nhiều loại côn  trùng khác. Thế nên tôi lấy ngón tay gỡ màng nhện đi để con nhện khỏi có  được đồ ăn. Đúng ra ý của tôi là bào vệ cho các côn trùng nhỏ mà con  nhện sẽ giết để ăn, nhưng ngược lại con nhện lại bị tổn hại vì nó không  có được đồ ăn và thành chết đói. Hỏi : Chogyam  Trungpa Rinpoche đề nghị rằng chúng tôi hãy cố là những người ăn chay  đúng nghĩa ở Gampo Abbey này, có nghĩa là chúng tôi cần phải có một khu  vườn. Thế nên chúng tôi phải giết sâu bọ nếu chúng tôi muốn có được cà  rốt cùng tỏi và khoai tây. Rinpoche : Điều  quan trọng nhất là ý định trong tâm. Vì chúng ta có ý định trong tâm là  không giết hại hữu tình, nên dù chúng ta có đào đất trồng rau, thì điều  ấy cũng không có hại gì. Điều quan trọng theo như Vinaya là không cố ý  giết. Hỏi : Giả  như ở Boulder, Colorado có một ngàn Phật tử và mỗi người mỗi tuần ăn  một con gà: thì con số sẽ là 52.000 con gà trong một năm. Và vì mọi thứ  đều được điện toán hóa, các nhà sản xuất biết ngay là họ sẽ phải nuôi  thêm 52.000 con gà vì họ biết là người ta sẽ ăn chúng. Nếu người Phật tử  không ăn gà, họ sẽ không nuôi số gà ấy. Rinpoche : Nếu  hôm nay ta mua khoảng tám trăm con cá ở chợ, ngày mai sẽ có tám trăm  con cá mới được thế vào. Hành động nào cũng là karma của họ, không phải  của chúng ta. Nhưng từ quan điểm của riêng của mình thì có thể có cái  nền tảng ấy, nhưng không hề cố ý hay có ý định trong tâm như thế. Như  thế mình có thể có ý ăn thịt, nhưng mình không hề có ý giết con vật. Bởi  vì cả bốn duyên sát đều không hội đủ, nên đó không phải là phạm giới. Hỏi : Còn  như cái ý định thiết thực cố cản người không sát thì sao ? Nếu 1.000  người Phật tử không ăn gà nữa, thì họ sẽ thực sự có được cơ hội để cản  những người nuôi gà khỏi phải giết. Họ không kiếm ra tiền, nên họ không  giết chúng làm chi. Rinpoche : Ở  cõi này chúng ta không thể bảo kẻ khác đừng giết. Chẳng hạn, trong các  đại dương biết bao loại cá nhỏ bị cá lớn giết hại? Điều quan trọng với  chính chúng ta là đừng giết, và bằng cách đó chúng ta có thể ngưng sát  sinh. Nhưng không thể bảo người khác được. Hỏi : Tại  Gampo Abbey mọi người thọ năm giới mỗi ngày. Nếu như chúng ta thọ giới  không sát này theo như nghi thức trong khi biết rằng lát nữa trong ngày  ấy chúng ta sẽ nhấn một cái xẻng vào rất nhiều con sâu hoặc bất cứ con  gì. Vậy thì có khác gì chăng nếu tâm nguyện của chúng ta ở đây chỉ là để  có được đồ ăn ? Và có khác gì chăng nếu như giới ấy được thọ nhận hay  không nhận theo như nghi thức ? Rinpoche : Rất  nên thọ nhận lấy giới này ngay dù chúng ta có thể giết côn trùng trong  lúc làm việc. Bởi vì do chúng ta có ý định trong tâm là không giết  chúng, thế nên chúng ta sẽ không hề giết một cách cố ý. Hỏi : Chúng  ta thường hay phải quyết định rằng trường hợp nào có lợi hơn. Trong xã  hội hiện đại người ta thường quyết định giết một số thú vật để đưa lại  những lợi ích lớn hơn, chẳng hạn, sự chặn đứng bệnh sốt rét mà vốn do  muỗi truyền đi. Cách thức duy nhất để chặn đứng căn bệnh sốt rét này là  giết muỗi. Rinpoche : Tôi  cho rằng nếu chúng ta có một tâm nguyện thanh tịnh vì lợi ích cho những  người khác thì có giết côn trùng cũng không sao. Nếu chúng ta do tham  danh tham tiền mà đi giết muỗi với tâm ý ấy, thì, dĩ nhiên, đó là điều  ác.
