Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn du hành giữa         dân chúng Kosala với Đại chúng Tỷ-kheo và đến tại Sala, một làng         Bà-la-môn của dân chúng Kosala. Các Bà-la-môn gia chủ ở Sala được nghe tiếng         đồn như sau: "Sa-môn Gotama, giòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc         Thích-ca, đang du hành giữa dân chúng Kosala với Đại chúng Tỷ-kheo, đã đến         Sala". Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn         Gotama: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh         Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,         Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ         thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với         chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời, loài Người. Khi đã chứng ngộ.         Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp, sơ thiện,         trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ. Ngài truyền dạy Phạm hạnh         hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị         A-la-hán như vậy". Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Sala đi đến chỗ Thế         Tôn, sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một         bên; có người nói lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên         những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; có người         chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên         và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người yên lặng ngồi xuống một         bên. Thế Tôn nói với các Bà-la-môn gia chủ ở tại Sala đang ngồi xuống         một bên: – Này các Gia chủ, các Ông có vị         Đạo sư khả ý nào mà các Ông có lý do đặt được lòng tin không ? – Bạch Thế Tôn, chúng con không         có vị Đạo sư khả ý nào để chúng con có lý do đặt được lòng tin. – Này các Gia chủ, nếu các Ông         không có một vị Đạo sư khả ý nào, thời hãy lấy pháp không gì chuyển         hướng này mà thực hành. Này các Gia chủ, pháp không gì chuyển hướng này         được khéo thọ trì, khéo thành tựu, sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc         lâu dài cho các Ông. Và này các Gia chủ, thế nào là pháp "không gì         chuyển hướng" ? Này các Gia chủ, có một số         Sa-môn, Bà-la-môn có những lập thuyết như sau, có những quan điểm như         sau: "Không có (kết quả của) bố thí, không có (kết quả của) lễ         hy sinh, không có (kết quả của) tế tự, không có kết quả, quả báo của         các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ,         không có cha, không có các loại hóa sanh, trên đời không có những vị         Sa-môn, Bà-la-môn chơn chánh hành trì, chơn chánh thực hành, và những vị         này tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đã tự chứng ngộ với         thắng trí". Nhưng này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn         nói đối nghịch với các vị Sa-môn, Bà-la-môn kia, những vị này nói như         sau: "Có (kết quả của) bố thí, có (kết quả của) lễ hy sinh, có (kết         quả của) tế tự, có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện ác, có         đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trên đời có         những vị Sa-môn, Bà-la-môn chơn chánh hành trì, chơn chánh thực hành, và         những vị này tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đã chứng         ngộ với thắng trí". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào, có phải         những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy nói những lời đối nghịch với nhau ? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. – Ở đây, này các Gia chủ, những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         có (kết quả của) bố thí, không có (kết quả của) lễ hy sinh, không có         (kết quả của) tế tự, không có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện         ác, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha,         không có các loại hóa sanh, trên đời không có những vị Sa-môn,         Bà-la-môn chơn chánh hành trì, chơn chánh thành tựu, và những vị này         tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đã chứng ngộ với thắng         trí". Đối với những vị này sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra:         Sau khi từ bỏ ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện         hành, và sau khi chấp nhận ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ý         ác hành, các vị này thực hành theo. Vì sao vậy ? Vì những vị Tôn giả         Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế         của các bất thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của         các thiện pháp. Vì rằng có đời sau, nếu có quan điểm nào nói rằng         không có đời sau, thời đó là một tà kiến. Vì rằng có đời sau, nếu         có ai suy tư rằng không có đời sau, thời đó là tà tư duy. Vì rằng có         đời sau, nếu có ai nói rằng không có đời sau, thời đó là tà ngữ. Vì         rằng có đời sau, nếu có ai nói rằng không có đời sau, thời tự mâu         thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đã biết được có đời sau. Vì         rằng có đời sau, nếu có ai thuyết phục người khác là không có đời         sau, thời sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, và vì sự thuyết phục         ấy chống lại diệu pháp, người ấy khen mình chê người. Như vậy, trước         khi thiện giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đã được chấp         trì. Và tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc         Thánh, sự thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen mình chê người,         như vậy các ác bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến. Ở đây, này các Gia chủ, vị có         trí suy nghĩ như sau: Nếu không có đời sau, thời vị này sau khi thân hoại         mạng chung, tự ngã cảm thấy an toàn. Nếu có đời sau, thời vị này sau         khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.         Nếu muốn đời sau không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn,         Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này, ngay trong hiện tại bị những         người có trí quở trách: "Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ         trương hư vô luận". Còn nếu có đời sau, thời vị này cả hai mặt         đều gặp bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở         trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạn xứ,         địa ngục. Như vậy pháp "không gì chuyển hướng" này bị chấp         trì, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ có chấp nhận một phía,         và bỏ phía thiện pháp. Ở đây, này các Gia chủ, những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có         (kết quả của) bố thí, có (kết quả của) lễ hy sinh, có (kết quả của)         tế tự, có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện ác, có đời này,         có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trên đời có những vị         Sa-môn, Bà-la-môn chơn chánh hành trì, chơn chánh thành tựu, và những vị         này tuyên bố về đời này và về đời sau, sau khi đã chứng ngộ với thắng         trí". Đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ xẩy ra: Sau khi         từ bỏ ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, và sau khi         chấp nhận ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện         hành, các vị này thực hành theo. Vì sao vậy ? Vì những vị Sa-môn,         Bà-la-môn này thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất         thiện pháp, sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện         pháp. Vì rằng có đời sau, nếu có quan điểm nào nói rằng có đời sau,         thời đó là một chánh kiến. Vì rằng có đời sau, nếu có ai suy tư rằng         có đời sau, thời đó là chánh tư duy. Vì rằng có đời sau, nếu có ai         nói rằng có đời sau thời đó là chánh ngữ. Vì rằng có đời sau, nếu         có ai nói rằng có đời sau, thời không tự mâu thuẫn đối nghịch với các         vị A-la-hán đã biết được có đời sau. Vì rằng có đời sau, nếu có         ai thuyết phục người khác là có đời sau, thời sự thuyết phục ấy thuận         với diệu pháp, và vì sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy         không khen mình chê người. Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được         từ bỏ, các thiện giới đã được chấp trì. Và chánh kiến, chánh tư         duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục         thuận với diệu pháp, sự không khen mình chê người, như vậy những thiện         pháp sai biệt này khởi lên, do duyên chánh kiến. Ở đây, này các Gia chủ, vị có         trí suy nghĩ như sau: Nếu có đời sau, thời vị này sau khi thân hoại mạng         chung sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn         cho đời sau không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn         ấy là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại được những         người có trí tán thán: "Người này theo thiện giới, có chánh kiến,         chủ trương hữu luận". Còn nếu có đời sau, thời vị này cả hai mặt         đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại, được những người trí tán         thán; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi         đời này. Như vậy, "pháp không gì chuyển hướng" này được chấp         trì, được thực hành đúng đắn bởi vị này chấp nhận cả hai phía, bỏ         qua hai phía bất thiện pháp. Này các Gia chủ, có một số         Sa-môn, Bà-la-môn, có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự làm         hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu         hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền         muộn, gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây ra sợ hãi,         hay khiến người gây ra sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà         mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt,         tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác gì. Nếu         lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành         một đống thịt, thành một chồng thịt, cũng không vì vậy có tội ác,         có gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam         sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt         nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy có tội ác, có gây ra sự         tiếp tục của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố         thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì         vậy có phước báo, có tạo thành sự tiếp tục của phước báo".         Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói những lời đối nghịch         với các Sa-môn, Bà-la-môn kia. Các vị này nói như sau: "Tự làm hay khiến         người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến         người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây         ác não hay khiến người gây ác não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người         gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc,         đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người,         nói láo, hành động như vậy của tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén         giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành         một chồng thịt, thì do nhân duyên này có tội ác, có gây ra sự tiếp tục         của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại,         tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu khiến người đốt         nấu, thì do nhân duyên này có tội ác, có gây ra sự tiếp tục của tội         ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng, bố thí, khiến người         bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, thì do nhân duyên này, có phước         báo, có tạo thành sự tiếp tục của phước báo. Bố thí, điều phục, tự         chế, nói thật, đều có phước báo, có tạo thành sự tiếp tục của phước         báo". Vì sao vậy ? này các Gia chủ, có         phải những Sa-môn, Bà-la-môn này nói lời đối nghịch với nhau ? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. – Ở đây, này các Gia chủ, có những         Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự làm         hay khiến người làm,... (như trên)... không đưa đến phước báo". Đối         với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba         thiện pháp thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, và sau khi chấp         nhận ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, các vị này         thực hành theo. Vì sao vậy ? Những Sa-môn, Bà-la-môn này không thấy sự         nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát         ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp. Vì rằng có tác dụng,         nếu có quan điểm nào nói rằng không có tác dụng, thời đó là một tà         kiến. Vì rằng có tác dụng, nếu ai có suy tư rằng không có tác dụng, thời         đó là tà tư duy. Vì rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng không có tác         dụng, thời đó là tà ngữ. Vì rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng         không có tác dụng, thời tự mẫu thuẫn đối nghịch với các vị         A-la-hán đã biết được có tác dụng. Vì rằng có tác dụng, nếu có ai         thuyết phục người khác là không có tác dụng, thời sự thuyết phục ấy         chống lại diệu pháp, và vì sự thuyết phục ấy chống lại diệu pháp,         người ấy khen mình chê người. Như vậy, trước khi thiện giới của người         ấy bị từ bỏ, các ác giới đã được chấp trì. Và tà kiến, tà tư         duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống         lại diệu pháp, sự khen mình chê người, như vậy những ác bất thiện         pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến. Ở đây, này các Gia chủ, người có         trí suy nghĩ như sau: Nếu không có tác dụng, thời vị này, sau khi thân hoại         mạng chung, tự ngã cảm thấy an toàn. Nếu có tác dụng, thời vị này sau         khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.         Nếu muốn không có tác dụng đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn,         Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thời vị này, ngay trong hiện tại, bị         những người có trí quở trách: "Người này theo ác giới, có tà kiến,         chủ trương không tác dụng". Còn nếu có tác dụng, thời vị này cả         hai mặt đều gặp sự bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có         trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú,         đọa xứ, địa ngục. Như vậy pháp "không gì chuyển hướng" này         bị chấp trì, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ có chấp nhận một         phía, và bỏ qua phía thiện pháp. Ở đây, này các Gia chủ, những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự         làm hay khiến người làm... (như trên)... có đưa đến phước báo". Đối         với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba         ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, và sau khi chấp nhận         ba thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, các vị         này thật hành theo. Vì sao vậy ? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự         nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát         ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp. Vì rằng có tác dụng,         nếu có quan điểm nào nói rằng có tác dụng, thời đó là chánh kiến.         Vì rằng có tác dụng, nếu có ai suy tư rằng có tác dụng, thời đó là         chánh tư duy. Vì rằng có tác dụng,, nếu có ai nói rằng có tác dụng, thời         đó là chánh ngữ, vì rằng có tác dụng, nếu có ai nói rằng có tác dụng         thời không tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đã biết được         có tác dụng. Vì rằng có tác dụng, nếu có ai thuyết phục người khác         là có tác dụng, thời sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, và vì         sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy không khen mình chê người.         Như vậy trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới         đã được chấp trì. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối         nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với diệu pháp, sự         không khen mình chê người, như vậy những thiện pháp sai biệt này khởi         lên, do duyên chánh kiến. Ở đây, này các Gia chủ, vị có         trí suy nghĩ như sau: Nếu có tác dụng, thời vị này, sau khi thân hoại mạng         chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn         tác dụng không có đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy         là đúng sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại được những người         có trí tán thán: "Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương         có tác dụng". Còn nếu có tác dụng, thời vị này cả hai mặt đều         gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại, được những người trí tán thán;         sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời         này. Như vậy, pháp "không gì chuyển hướng" này được chấp trì,         được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía, và bỏ         qua phía bất thiện pháp. Này các Gia chủ, có một số         Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         có nhơn, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô nhân vô         duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các         loài hữu tình được thanh tịnh, vô nhân vô duyên, các loài hữu tình được         thanh tịnh. Không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có         sự cố gắng của người. Tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu         tình, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không tự tại, không lực,         không tinh tấn. Các chúng sanh ấy bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh,         bởi sự tình cờ, bởi bản tánh của họ. Các chúng sanh ấy hưởng thọ         khổ lạc, y theo sáu loại thác sanh của họ". Này các Gia chủ, lại         có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói lời mâu thuẫn đối nghịch với những         Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Những vị này đã nói như sau: "Có nhân có         duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô ; không có nhân, không có duyên các         loài hữu tình bị nhiễm ô. Có nhân, có duyên, các loài hữu tình được         thanh tịnh. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh.         Có lực, có tinh tấn, có nhân lực, có sự cố gắng của người. Tất cả         loài chúng sanh, tất cả loài hữu tình, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng         đều không phải không tự tại, không có lực, không có tinh tấn. (Không         phải) các chúng sanh ấy bị dẫn dắt, chi phối bởi định mệnh bởi sự         tình cờ, bởi bản tánh của họ. (Không phải) họ hưởng thọ khổ lạc         y theo sáu loại thác sanh của họ". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế         nào ? Có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn này nói lên những lời mâu thuẫn,         đối nghịch nhau ? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. – Ở đây này các Gia chủ, những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         có nhân, không có duyên... (như trên)... họ cảm thọ khổ lạc..". Đối         với những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba         thiện pháp thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, và sau khi chấp         nhận ba ác pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, các vị này         sẽ thực hành theo. Vì sao vậy ? Những Sa-môn, Bà-la-môn này không thấy sự         nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát         ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp. Vì rằng có nhân,         nếu có quan điểm nào nói rằng không có nhân, thời đó là một tà kiến.         Vì rằng có nhân, nếu có ai suy tư rằng không có nhân thời đó là tư         duy. Vì rằng có nhân, nếu có ai nói rằng không có nhân, thời đó là tà         ngữ. Vì rằng có nhân, nếu có ai nói rằng không có nhân, thời tự mâu         thuẫn, đối nghịch với các vị A-la-hán đã biết được có nhân. Vì rằng         có nhân, nếu có ai thuyết phục người khác là không có nhân, thời sự         thuyết phục ấy chống lại diệu pháp, và vì sự thuyết phục ấy chống         lại diệu pháp, người ấy khen mình chê người. Như vậy, trước khi thiện         giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đã được chấp trì. Và         tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự         thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen mình chê người, như vậy những         ác bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến. Ở đây, này các Gia chủ, người có         trí suy nghĩ như sau: Nếu không có nhân, thời vị này, sau khi thân hoại mạng         chung, tự cảm thấy an toàn. Nếu có nhân thời vị này, sau khi thân hoại         mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn         không có nhân đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng         sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở         trách. "Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương không         nhân". Còn nếu có nhân, thời vị này, cả hai mặt đều gặp sự bất         hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách; sau khi         thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.         Như vậy, pháp "không có chuyển hướng" này bị chấp trì, bị thực         hành sai lạc, bởi vị này chỉ có chấp nhận một phía, và bỏ qua phía         thiện pháp. Ở đây, này các Gia chủ, những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có         nhân, có duyên... (như trên)... họ cảm thọ hưởng lạc". Đối với         những vị này, sự kiện này chờ đợi sẽ xảy ra: Sau khi từ bỏ ba ác         pháp này, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, và sau khi chấp nhận ba         thiện pháp này, thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, các vị         này thực hành theo. Vì sao vậy ? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự         nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, sự thoát         ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp. Vì rằng có nhân,         nếu có quan điểm nào nói rằng có nhân, thời đó là chánh kiến. Vì rằng         có nhân, nếu có ai suy tư rằng có nhân, thời đó là chánh tư duy. Vì rằng         có nhân, nếu có ai nói rằng có nhân, thời đó là chánh ngữ. Vì rằng         có nhân, nếu có ai nói rằng có nhân, thời không tự mẫu thuẫn, đối         nghịch với các vị A-la-hán đã biết được có nhân. Vì rằng có nhân, nếu         có ai thuyết phục người khác là có nhân, thời sự thuyết phục ấy thuận         với diệu pháp, và vì sự thuyết phục ấy thuận với diệu pháp, vị ấy         không khen mình chê người. Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được         từ bỏ, các thiện giới đã được chấp trì. Và chánh kiến, chánh tư         duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục         thuận với diệu pháp, sự không khen mình chê người, như vậy những thiện         pháp sai biệt này khởi lên, do duyên chánh kiến. Ở đây, này các Gia chủ, vị có         trí suy nghĩ như sau: Nếu có nhân, thời vị này sau khi thân hoại mạng         chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn         không có nhân đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn; Bà-la-môn ấy là đúng         sự thật, thời vị này ngay trong hiện tại, được những người có trí         tán thán: "Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương có         nhân". Còn nếu có nhân thời vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn:         ngay trong hiện tại, được những người có trí tán thán, sau khi thân hoại         mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy,         pháp "không gì chuyển hướng" này được chấp trì, được thực         hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía và bỏ qua phía bất         thiện pháp. Này các Gia chủ, có một số         Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         thể có một vô sắc toàn diện". Lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn         nói lời mâu thuẫn, đối nghịch với các Sa-môn, Ba la môn ấy. Các vị         này đã nói như sau: "Có thể có một vô sắc toàn diện". Này các         Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào ? Có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn này         nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch nhau ? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. – Ở đây, này các Gia chủ, một         người có trí suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập         thuyết như sau, có quan niệm như sau: "Không thể có một không sắc         toàn diện", ta không có thấy như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có         lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có thể có một không sắc         toàn diện", ta không có biết như vậy. Và nếu ta không biết, không thấy         mà chỉ chấp nhận một bên và tuyên bố: "Đây là sự thật, ngoài ra         đều là mê lầm," thời như vậy không xứng đáng với ta. Những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         thể có một không sắc toàn diện", nếu lời nói của những Sa-môn,         Ba la môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta chắc chắn sẽ         tái sanh tại chỗ các chư Thiên có sắc do ý sở thành. Còn nếu những         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có         thể có một không sắc toàn diện", nếu lời nói của những Sa-môn,         Bà-la-môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta chắc chắn sẽ         tái sanh tại chỗ các chư Thiên không sắc, do tưởng sở thành. Do duyên với         cái gì có sắc, chấp gậy, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh,         kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ đều được thấy. Những sẽ không có         những sự việc này trong một không sắc toàn diện". Do suy tư như vậy,         vị ấy thành tựu sự yểm ly, sự ly tham, sự diệt tận các sắc pháp. Này các Gia chủ, có một số         Sa-môn. Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         thể có một sự hữu diệt (Bhavanirodha) toàn diện". Này các Gia chủ,         lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói lời mâu thuẫn đối nghịch với các         Sa-môn, Bà-la-môn. Các vị này đã nói như sau: "Có thể có một sự hữu         diệt toàn diện". Này các Gia chủ, các Ông nghĩ thế nào ? Có phải những         Sa-môn, Bà-la-môn này nói những lời mâu thuẫn đối nghịch nhau ? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. – Ở đây, này các Gia chủ, một         người có trí suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập         thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không thể có sự hữu diệt         toàn diện", ta không có thấy như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có         lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có thể có một sự hữu         diệt toàn diện", ta không có biết như vậy. Và nếu ta không biết,         không thấy mà chỉ chấp nhận một bên và tuyên bố: "Đây là sự thật,         ngoài ra đều là mê lầm", thời như vậy không xứng đáng với ta. Những         Sa-môn, Bà-la-môn nào, có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau:         "Không thể có một sự hữu diệt toàn diện", nếu lời nói của         những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy ra: Ta         chắc chắn sẽ tái sanh chỗ các chư Thiên không sắc do tưởng sở thành.         Còn nếu những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm         như sau: "Có thể có một sự hữu diệt toàn diện", nếu lời nói         của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đúng sự thật, thời sự kiện này xảy         ra: Ta chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn ngay trong hiện tại. Những Tôn giả         Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Không         thể có một sự hữu diệt toàn diện", thời quan điểm này của các         vị ấy gần với tham ái, gần với kiết sử, gần với ái lạc, gần với         chấp trước, gần với chấp thủ. Còn những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập         thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Có thể có sự hữu diệt toàn         diện", thời quan điểm này của những vị ấy là gần với ly tham, gần         với không kiết phược, gần với không ái lạc, gần với không chấp trước,         gần với không chấp thủ". Do suy tư như vậy, vị ấy thành tựu sự         yểm ly, sự vô tham, sự diệt tận đối với các hữu. Này các Gia chủ, có bốn hạng người         này có mặt ở trong đời. Thế nào là bốn ? Ở đây, này các Gia chủ,         có người tự hành khổ mình chuyên tâm tự hành khổ mình. Ở đây, này         các Gia chủ, có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở         đây, này các Gia chủ, có người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự         hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây,         này các Gia chủ, có người vừa tự không tự hành khổ mình, không chuyên         tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành         khổ người. Vị này không hành khổ mình, không hành khổ người, ngay         trong hiện tại, không có tham dục, không có khao khát, cảm thấy mát lạnh,         cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Và này các Gia chủ, thế         nào là người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình ? Ở đây, này         các Gia chủ, có người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi,         liếm tay cho sạch... (như kinh Kandarakasuttam số 51)... Như vạy người ấy         dưới nhiều hình thức, sống chuyên tâm hành khổ thân mình. Như vậy, này         các Gia chủ, được gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự         hành khổ mình. Và này các Gia chủ, thế nào là hạng người hành khổ người,         chuyên tâm hành khổ người ? Ở đây, này các Gia chủ, có người là người         đồ tể giết trâu bò, là người đồ tể giết heo... (như trên)... và những         người làm các nghề ác độc khác. Như vậy, này các Gia chủ, được gọi         là người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Và này các Gia chủ,         thế nào là người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa         hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người ? Ở đây, này các Gia chủ,         có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh...         (như trên)... vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước         mắt, khóc lóc làm các công việc. Như vậy, này các Gia chủ, được gọi         là hạng người vừa tự hạnh khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa         hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Và này các Gia chủ, thế         nào là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ         mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người; ngay         trong hiện tại không có tham dục, không có khao khát, tịch tịnh, cảm thấy         mát lạnh, cảm giác lạc thọ, thân trú vào Phạm thể ? Ở đây, này các         Gia chủ, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri... (như         trên)... sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm         trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng         và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm         với tứ... Thiền thứ hai.... Thiền thứ ba... chứng và trú Thiền thứ tư,         không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,         không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,         định tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến túc mạng minh. Vị         ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời... (như trên)...         như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, cùng với các nét         đại cương và các chi tiết. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu         nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, định tĩnh         như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của         chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống         và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ         liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất         hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không         cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc định         tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết         như thật: Đây là khổ,... (như trên)... biết như thật: Đây là con đường         đưa đến sự đoạn trừ các lậu hoặc. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận         thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu,         thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân giải thoát như vậy, khởi lên         sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã         diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm, đã làm sau đời hiện tại không         có đời sống nào khác nữa". Như vậy, này các Gia chủ, được gọi         là hạng người không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ         mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người; ngay trong         hiện tại, không có tham dục, không có khao khát, cảm thấy mát lạnh, cảm         giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Khi được nói vậy, các Bà-la-môn,         gia chủ trú ở Sala bạch Thế Tôn: – Thật vi diệu thay, Tôn giả         Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thưa Tôn giả Gotama, như người         dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị         che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối         để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được         Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Chúng con xin         quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả         Gotama chấp nhận cho chúng con làm những người cư sĩ. Từ nay cho đến mạng         chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.
