41. Tại sao Phật không giống cha mẹ?
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, Ðại đức có chắc rằng Ðức Phật có ba mươi hai phước tướng trang nghiêm , tám mươi vẻ đẹp tùy thuộc, toàn thân nước da vàng rực và có vừng hào quang tỏa chiếu chung quanh không?
-- Tâu Ðại vương, quả có như thế.
-- Vương phụ và Vương mẫu Phật có các tướng phước như thế không?
-- Thưa, không.
-- Nếu cha mẹ không có thì làm sao con có được? Con không giống cha thì giống mẹ, hoặc giống bà con nội ngoại gần nhất. Căn cứ theo lời Ðại đức, cả Vương phụ lẫn Vương mẫu Phật đều đã không có các phước tướng như thế, thì quyết định Phật cũng không thể có được!
-- Tuy Vương phụ và Vương mẫu Phật không có các phước tướng ấy, nhưng Phật thì chắc chắn có. Ðại vương đã thấy cây sen chưa?
-- Thưa, có.
-- Cây sen sanh ra trong bùn, lớn lên giữa nước bẩn. Thế mà khi trổ hoa thì sắc tuyệt đẹp, hương tuyệt thơm. Sắc ấy, hương ấy, có giống gì với sắc hương của nước đục bùn dơ không?
-- Thưa, không.
-- Ðức Phật cũng như thế đó. Tuy Vương phụ và Vương mẫu Ngài không có các phước tướng, nhưng Ngài thì chắc chắn là có. Giống như hoa sen, Phật sanh ra giữa thế gian , lớn lên giữa thế gian, nhưng không giống với bất cứ ai giữa thế gian.
--Hay thay! Hay thay!
42. Chơi chữ
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, phải chăng Ðức Phật là bậc chuyên tu phạm hạnh, không giao hội với phụ nữ, giống như vua trời Phạm Thiên trên tầng trời thứ bảy?
-- Tâu Ðại vương, đúng như thế. Ngài sa lìa nữ giới, giới hạnh Ngài rất thanh tịnh, không mảy may tỳ vết.
-- Sở hành của Ngài giống như sở hành của vua Trời Phạm Thiên, như vậy thì Ngài là đệ tử của Phạm thiên chứ?
-- Tâu Ðại vương, vua trời Phạm Thiên có bồ đề tâm (tức tâm Phật) không?
-- Thưa có.
-- Thế thì chúa Trời Phạm Thiên và chư thiên trên thượng giới là đệ tử của Phật chứ gì?
Na Tiên tiếp hỏi:
-- Tiếng chim kêu như thế nào?
-- Giống như tiếng chim nhạn.
-- Như thế Ðại vương có cho rằng tất cả các loài chim thảy đều là nhạn, hoặc là đệ tử của nhạn cả không?
-- Thưa không.
-- Cũng giống như vậy, Phật không phải là đệ tử của vua Trời Phạm Thiên.
-- Hay thay!
43. Ai truyền giới cho Phật?
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, hẳn là Phật phải có biết rồi mới theo đó mà phụng hành giới luật chứ?
-- Tâu Ðại vương, vâng.
-- Ai là Thầy truyền giới cho Phật?
-- Phật không có Thầy. Ngài không học với ai hết. Ngài tự mình tu học cho đến khi đắc đạo dưới gốc cây bồ đề, thì hoát nhiên đại ngộ mà tự biết các giới luật. Ngài không giống như các đệ tử của Ngài phải học nơi Ngài rồi mới biết mà phụng hành giới luật cho đến già. Vì vậy Phật mới là bậc vô thượng giác vương.
44. Giọt nước mắt lành
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, ngưòi ta khi có cha mẹ chết thì ưu sầu khổ, gào khóc thảm thê, nước mắt ràn rụa. Lại có người khi mới nghe được Pháp Phật và nhờ đó mà tỉnh ngộ, cũng lại nước mắt đầm đìa, lệ tuôn lả chả. Cả hai trường hợp đều có lệ rơi. Vậy hai dòng lệ ấy có khác nhau không?
-- Tâu Ðại vương, nước mắt tuông ra khi cha mẹ chết là nước mắt của sầu ưu khổ thống, do niệm ân ái gây nên. Ðó là chất độc của ngu si tiết rỉ ra. Còn nước mắt ứa trào ra khi nghe được pháp Phật là nước mắt của lòng từ tâm, vì nhớ nghĩ đến khổ đau của thế gian mà tuông ra. Ðây là loại nước mắt an lạc, thanh tịnh. Cũng đồng thời là nước mắt nhưng một bên thì nóng bức đố hiêu, một bên lại mát mẻ an lành và tăng thêm phước đức.
-- Hay thay! Hay thay!
45. Mê ngộ khác nhau
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, người đã giải thoát và người chưa giải thoát khác nhau chỗ nào?
-- Tâu Ðại vương, hạng trước không còn lòng tham dục, còn hạng sau thì nặng trĩu lòng tham dục. Người nặng trĩu lòng tham dục thì suốt đời và bất cứ ở đâu cũng đuổi bắt miếng cơm manh áo, lo toan cho mạng sống được sung sướng mà thôi.
-- Trẩm thấy trong thế gian này, bất cứ là ai dù xuất gia hay tại gia, thảy đều cho là mình sung sướng, thảy đều muốn ăn ngon ăn bổ mà chẳng bao giờ biết nhàm chán.
-- Hai đằng đều cần ăn như nhau. Vì có ăn mới duy trì được thân mạng, Nhưng với kẻ chưa giải thoát thì thú vui tối thượng là được ăn no và ăn ngon. Ăn được càng nhiều món sang vật lạ bao nhiêu càng vui thích bấy nhiêu. Với bậc đã giải thoát thì ăn chỉ là ăn. Ăn cốt để nuôi sống mà tiến tu. Ăn, không chú ý tới sự ngon dở. Ngon càng tốt, nhưng dở cũng chẳng sao. Miễn là được sống để lo độ mình và độ đời.
-- Hay thay! Hay thay!
46. Trí Nhớ
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, người ta trong khi có việc đang làm, có nhớ được những việc xa xưa không?
-- Tâu Ðại vương, khi rầu lo, người ta hay nhớ đến những việc xa xưa hơn.
-- Dùng cái gì để nhớ? Phải chăng là dùng óc tưởng tượng? hay dùng trí nhớ?
-- Những điều Ðại vương đã học và đã biết, về sau Ðại vương có nhớ lại được không?
-- Có điều nhớ mà cũng có điều về sau bỗng nhiên quên đi.
-- Lúc quên đi đó, là vì Ðại vương không có óc tưởng tượng chăng?
-- Thưa không, Chính lúc đó, trẫm không có trí nhớ.
-- Thế thì không đúng với lời Ðại vương vừa nói rằng người ta nhớ được là nhờ có óc tưởng tượng!
Vua lại hỏi:
-- Ai đã có làm thì đều có nhớ được. Như trước kia hay ngày nay, hễ có làm là đều có thể dùng trí nhớ mà biết được chăng?
-- Vâng.
-- Như vậy, người ta chỉ nhớ được những việc đã qua, chứ không thể nhớ được việc mới?
-- Những việc mới ấy, nếu đã từng làm rồi mà nay không nhớ ra thì cũng chỉ tại không có trí nhớ.
-- Nếu vậy thì những người học chữ hay học mỹ nghệ là luống công vô ích sao?
-- Không, những người mới học chữ hay học vẽ đều có nhớ. Bằng chứng là họ dạy lại cho học trò và khiến học trò cũng biết như họ. Vì vậy mà nói rằng dùng trí để nhớ.
47. Mười sáu cách nhớ
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, có bao nhiêu trường hợp khiến con người phát khởi được trí nhớ?
--Tâu Ðại vương, có mười sáu trường hợp:
1) Nhớ là vì việc đã làm từ xa xưa.
2) Nhớ vì mới vừa được học hỏi
3) Nhớ vì một dịp vinh quang.
4) Nhớ vì nghĩ đến điều thiện.
5) Nhớ vì từng bị khổ đau.
6) Nhớ vì tự mình suy tư.
7) Nhớ vì có nhiều yếu tố xen lộn.
8) Nhớ vì được nghe nhắc lại.
9) Nhớ vì thấy dấu hiệu.
10) Nhớ vì được thôi thúc nhắc nhở.
11) Nhớ vì quen tay.
12) Nhớ vì quen tánh.
13) Nhớ vì thuộc lòng.
14) Nhớ vì nhứt tâm.
15) Nhớ vì đọc sách.
16) Nhớ vì đã cất dấu nay thấy lại.
Như trên là 16 trường hợp khiến con người phát khởi được trí nhớ.
-- Thế nào là nhớ vì việc đã làm từ xa xưa?
-- Như đệ tử Phật là Ðức A Nan (Ananda) và nữ đệ tử là Ưu bà di Cưu thù đan la (Khujjuttarã) cùng nhiều thánh tăng, đều nhớ được các kiếp trước của mình.
-- Thế nào là nhớ vì mới được học hỏi.?
-- Như có người đã học và biết rồi, nhưng sau đó quên đi, thấy người khác học bỗng nhớ lại.
-- Thế nào là nhớ vì một dịp vinh quang?
-- Như nhà vua nhớ ngày đăng quang , người xuất gia nhớ ngày thọ giới. Ðó là những việc trọng đại vinh quang của đời mình, cho nên nhớ dai.
-- Thế nào là nhớ vì nghĩ đến điều thiện?
-- Như nhân có một dịp may nào đó, mình được đãi ngộ xứng ý. Do đó tự nghĩ rằng kiếp trước hẳn mình đã có gây nhiều phước đức nhân duyên mới được hưỡng quả báo tốt đẹp như thế này.
-- Thế nào là nhớ vì từng bị khổ đau?
-- Như những người từng bị lao lung khốn đốn, thường nhớ mãi những đau khỗ mình đả chịu đựng.
-- Thế nào là nhớ vì tự mình suy tư?
-- Như những gì mình đã thấy quen mắt trong gia đình, bất cứ là cha mẹ, anh chị em, hoặc vườn nhà, gia súc v.v., nay thấy những hình ảnh khác hao hao giống như thế, thì tự mình tư duy rồi liên tưởng từ cái nọ sang cái kia.
-- Thế nào là nhớ vì nhiều yếu tố xen lộn?
-- Như tên người, tên vật cùng là tự loại của chúng và màu sắc hương vị thơm hôi đắng ngọt .v.v.. của từng vật một; nương nơi sự xen lộn của các yếu tố sai khác ấy tạo thành sự vật mà nhớ được chúng thì gọi là nhớ vì được tạo bởi nhiều yếu tố xen lộn.
-- Thế nào là nhớ vì được nghe nhắc lại?
-- Như người có tánh hay quên, nhờ kẻ khác nhắc lại mới nhớ.
-- Thế nào là nhớ vì thấy dấu hiệu?
-- Như trâu có dấu hiệu riêng của trâu, bò có dấu hiệu riêng của bò, v.v.. Người ta nhớ từng sự vật, nương nơi các dấu hiệu riêng của chúng.
-- Thế nào là nhớ vì được thôi thúc nhắc nhỡ?
-- Như trong hoàn cảnh của người hay quên, phải có kẻ đứng bên nhắc nhở, hoặc tự người ấy phải luôn luôn tâm niệm để tránh khỏi quên.
-- Thế nào là nhớ vì quen tay?
-- Như người học chữ, phải tự mình viết đi viết lại mới nhớ mặt chữ được.
-- Thế nào là nhớ vì quen tính?
-- Như người học toán, học đến mức thành thục thì tính toán phân minh mau lẹ, có thể nhớ được những con số rất lớn.
-- Thế nào là nhớ vì thuộc lòng?
-- Nhờ thuộc lòng, người ta nhớ được nhiều bản văn rất dài và rất khó nhớ. Ðây giống như luật trả vay. Có vay thì có trả, có thuộc lòng thì có nhớ.
-- Thế nào là nhớ vì nhứt tâm?
-- Nhứt tâm đạt được là nhờ tham thiền. Nhờ tu hành, nhờ nhứt tâm, mà nhớ được những sự việc đã xảy ra trong mỗi đời.
-- Thế nào là nhớ vì đọc sách?
-- Vua chúa ai cũng có sử sách ghi chép lại những việc làm của triều đại mình. Nay muốn biết một đời vua nào có làm được những việc gì trong năm nào, chỉ cần lật sách ra đọc là biết. Như thế gọi là nhớ vì đọc sách.
-- Thế nào là nhớ vì cất dấu?
-- Vật gì mình đã dụng ý cất dấu kỹ lưỡng cẩn thận, đến khi thấy trở lại thì nhớ rõ mồn một từng chi tiết.
-- Hay thay!
48. Phật là Ðấng Toàn Giác
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, Ðức Phật có biết hết tất cả các việc quá khứ và vị lai không?
-- Tâu Ðại vương, có, Ðức Phật biết hết.
-- Nếu Phật biết hết, vì sao Ngài không truyền trao giới luật và giáo pháp cho đệ tử trong cùng một lúc mà phải đợi dịp ban bố dần dần?
Na Tiên hỏi ngược lại nhà vua rằng;
-- Trong quốc độ của Ðại vương có vị lương y nào không?
-- Thưa có.
-- Vị lương y ấy có biết hết cả các vị thuốc trong thiên hạ không?
-- Thưa, biết hết.
-- Khi vị lương y ấy trị bịnh, ông ta có cho bệnh nhân uống tất cả các vị thuốc cùng một lúc không? Hay ông ta cho uống dần dần, hết vị này sang vị khác?
-- Phàm cho uống thuốc thì phải ứng với bệnh. Bệnh nào uống thuốc ấy.
-- Cũng như thế đó, Ðức Phật là đấng toàn giác, Ngài biết tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng không thể cùng một lúc mà Ngài truyền trao hết giáo pháp và giới luật cho đệ tử được. Phải chờ dịp để ban bố đúng lúc thì mới khiến đệ tử nhớ mà phụng hành trọn đời.
-- Hay thay! Hay thay!
49. Nhân it, quả nhiều
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, các sa môn trong hàng ngũ của Ðại đức bảo rằng những kẻ trọn đời làm ác nhưng đến khi lâm chung biết tưởng nghĩ đến Phật thì được sanh lên các cõi trời. Quả thật Trẫm không tin được điều đó. Các ngài lại còn bảo rằng những kẻ trọn đời làm lành, nhưng nếu phạm tội giết một sinh mạng thì sau khi chết, đều phải đọa địa ngục. Ðiều này Trẫm lại cũng không thể tin được.
Na Tiên hỏi ngược lại nhà vua:
-- Giả sử có kẻ cầm một cục đá nhỏ ném xuống nước, cục đá ấy nổi hay chìm?
-- Thưa chìm.
-- Bây giờ, có kẻ đem một trăm viên đá lớn chất vào một chiếc ghe bự đủ sức chở hàng ngàn tảng đá lớn, thì trăm viên đá ấy có chìm không?
-- Thưa không.
-- Ðá không chìm là nhờ ghe chở. Cũng giống như thế, người làm ác khi chết biết tưởng nhớ đến Phật, được Phật lực nâng đỡ nên không đọa vào địa ngục mà lại được sanh lên các cõi trời. Hễ ai tin Phật và tưởng nhớ đến Phật thì khi lâm chung đều được Phật tiếp độ.
50. Ngừa giặc khi chưa đến
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, các sa môn trong hàng ngũ Ðại đức vì sao phải học đạo tu hành? Ðể làm gì?
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương không thấy quá khứ đầy đau khổ, hiện tại đầy đau khổ, và tương lai đầy đau khổ sao? Vì muốn tiêu diệt đau khổ, muốn thoát khỏi đau khổ, nên chúng tôi mới học đạo tu hành làm sa môn.
-- Nếu là đau khổ của đời sau thì cần gì phải lo trước.
Na Tiên hỏi lại:
--Có nước cừu địch nào lăm le xâm chiếm nước của Ðại vương không?
-- Thưa có.
-- Thế thì Ðại vương có chờ cho đến khi giặc quân đến công phá ngoài thành rồi mới lo rèn đúc binh khí, luyện tập binh mã, hay phải lo toan dự phòng các việc ấy từ trước?
-- Phải lo dự phòng từ trước.
-- Giặc chưa đến thì dự phòng làm gì?
-- Vì giặc đến bất thình lình.
-- Cũng thế, khổ đau đến với kiếp sống không thể nào lường trước được. Nếu không chuẩn bị thì không kịp thời đối phó.
Na Tiên lại hỏi:
-- Tâu Ðại vương, đợi đói mới trồng, khát mới đào giếng, hay phải làm các việc ấy từ khi chưa đói, chưa khát?
-- Phải lo từ trước.
-- Cũng thế, việc diệt trừ khổ đau nếu không lo toan từ trước thì không cách gì ứng phó kịp thời. Vì vậy mà chúng tôi xuất gia học đạo tu hành.