Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
Như  vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu, dù chẳng thấy pháp giới lìa các pháp có, chẳng thấy các pháp  lìa pháp giới có, chẳng thấy hữu tình và thi thiết kia thật sự khá được,  mà năng phát sanh phương tiện khéo léo. 
Tự tu hành sáu Ba la  mật đa, cũng khuyên người tu hành sáu Ba la mật đa, xưng nêu không trái  pháp tu hành sáu Ba la mật đa. Vui mừng khen ngợi kẻ tu hành sáu Ba la  mật đa.
Tự thọ trì mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người thọ  trì mười thiện nghiệp đạo, xưng nêu không trái pháp thọ trì mười thiện  niệm nghiệp đạo, vui mừng ngợi khen kẻ thọ trì mười thiện nghiệp đạo.
Tự  thọ trì năm giới, cũng khuyên người thọ trì năm giới, xưng nêu không  trái pháp thọ trì năm giới, vui mừng khen ngợi kẻ thọ trì năm giới.
Tự  thọ trì tám giới, cũng khuyên người thọ trì tám giới, xưng nêu không  trái pháp thọ trì tám giới, vui mừng khen ngợi kẻ thọ trì tám giới.
Tự  thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người thọ trì giới xuất gia, xưng  nêu không trái pháp thọ trì giới xuất gia, vui mừng khen ngợi kẻ thọ trì  giới xuất gia.
Tự tu hành bốn tĩnh lự, cũng khuyên người tu hành  bốn tĩnh lự, xưng nêu không trái pháp tu hành bốn tĩnh lự, vui mừng  khen ngợi kẻ tu hành bốn tĩnh lự.
Tự tu hành bốn vô lượng, cũng  khuyên người tu hành bốn vô lượng, xưng nêu không trái pháp tu hành bốn  vô lượng, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành bốn vô lượng.
Tự tu hành  bốn định vô sắc, cũng khuyên người tu hành bốn định vô sắc, xưng nêu  không trái pháp tu hành bốn định vô sắc, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành  bốn định vô sắc.
Tự tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo  chi, cũng khuyên người tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi,  xưng nêu không trái pháp tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi,  vui mừng khen ngợi kẻ tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
Tự  tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cũng khuyên người tu  hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, xưng nêu không trái  pháp tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, vui mừng khen  ngợi kẻ tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Tự an  trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người an trụ  nội không cho đến vô tánh tự tánh không, xưng nêu không trái pháp an trụ  nội không cho đến vô tánh tự tánh không, vui mừng khen ngợi kẻ an trụ  nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Tan chơn như cho đến bất  tư nghì giới, cũng khuyên người an trụ chơn như cho đến bất tư nghì  giới, xưng nêu không trái pháp an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới,  vui mừng khen ngợi kẻ an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới.
Tan  khổ tập diệt đạo thánh đế, cũng khuyên người khổ tập diệt đạo thánh đế,  xưng nêu không trái pháp an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế, vui mừng  khen ngợi kẻ an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.
Tự tu hành tám  giải thoát, cũng khuyên người tu hành tám giải thoát, xưng nêu không  trái pháp tu hành tám giải thoát, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành tám giải  thoát.
Tự tu hành tám thắng xứ, cũng khuyên người tu hành tám  thắng xứ, xưng nêu không trái pháp tu hành tám thắng xứ, vui mừng khen  ngợi kẻ tu hành tám thắng xứ.
Tự tu hành chín định thứ lớp, cũng  khuyên người tu hành chín định thứ lớp, xưng nêu không trái pháp tu hành  chín định thứ lớp, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành chín định thứ lớp.
Tự  tu hành mười biến xứ, cũng khuyên người tu hành mười biến xứ, xưng nêu  không trái pháp tu hành mười biến xứ, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành mười  biến xứ.
Tự tu hành mười bậc Bồ tát, cũng khuyên người tu hành  mười bậc Bồ tát, xưng nêu không trái pháp tu hành mười bậc Bồ tát, vui  mừng khen ngợi kẻ tu hành mười bậc Bồ tát.
Tự tu hành tcdlm, cũng  khuyên người tu hành tất cả đà la ni môn, xưng nêu không trái pháp tu  hành tất cả đà la ni môn, vui mừng khen ngợi kẻ tất cả đà la ni môn.
Tự  tu hành tất cả tam ma địa môn, cũng khuyên người tất cả tam ma địa môn,  xưng nêu không trái pháp tu hành tất cả tam ma địa môn, vui mừng khen  ngợi kẻ tu hành tất cả tam ma địa môn.
Tự viên mãn năm nhãn, cũng  khuyên người viên mãn năm nhãn, xưng nêu không trái pháp viên mãn năm  nhãn, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn năm nhãn.
Tự viên mãn sáu  thần thông, cũng khuyên người viên mãn sáu thần thông, xưng nêu không  trái pháp viên mãn sáu thần thông, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn sáu  thần thông.
Tự viên mãn Như Lai mười lực, cũng khuyên người viên  mãn Như Lai mười lực, xưng nêu không trái pháp viên mãn Như Lai mười  lực, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn Như Lai mười lực.
Tự viên mãn  bốn vô sở uý, cũng khuyên người viên mãn bốn vô sở úy, xưng nêu không  trái pháp viên mãn bốn vô sở úy, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn bốn vô  sở úy.
Tự viên mãn bốn vô ngại giải, cũng khuyên người viên mãn  bốn vô ngại giải, xưng nêu không trái pháp viên mãn bốn vô ngại giải,  vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn bốn vô ngại giải.
Tự viên mãn đại  từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, cũng khuyên người viên mãn đại từ, đại bi,  đại hỷ, đại xả, xưng nêu không trái pháp viên mãn đại từ, đại bi, đại  hỷ, đại xả, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại  xả.
Tự viên mãn mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người  viên mãn mười tám pháp Phật bất cộng, xưng nêu không trái pháp viên mãn  mười tám pháp Phật bất cộng, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn mười tám  pháp Phật bất cộng.
Tự viên mãn pháp vô vong thất, cũng khuyên  người viên mãn pháp vô vong thất, xưng nêu không trái pháp viên mãn pháp  vô vong thất, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn pháp vô vong thất.
Tự  viên mãn tánh hằng trụ xả, cũng khuyên người viên mãn tánh hằng trụ xả,  xưng nêu không trái pháp viên mãn tánh hằng trụ xả, vui mừng khen ngợi  kẻ viên mãn tánh hằng trụ xả.
Tự viên mãn nhất thiết trí, cũng  khuyên người viên mãn nhất thiết trí, xưng nêu không trái pháp viên mãn  nhất thiết trí, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn nhất thiết trí.
Tự  viên mãn đạo tướng trí, cũng khuyên người viên mãn đạo tướng trí, xưng  nêu không trái pháp viên mãn đạo tướng trí, vui mừng khen ngợi kẻ viên  mãn đạo tướng trí.
Tự viên mãn nhất thiết tướng trí, cũng khuyên  người viên mãn nhất thiết tướng trí, xưng nêu không trái pháp viên mãn  nhất thiết tướng trí, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn nhất thiết tướng  trí.
Tự viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, cũng  khuyên người viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, xưng  nêu không trái pháp viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo,  vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy  hảo.
Thiện Hiện! Nếu chơn pháp giới ngằn mé trước giữa sau có sai  khác ấy, thời các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, chẳng năng thi thiết phương tiện khéo léo vì các hữu tình nói chơn  pháp giới, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các hạnh Bồ tát  Ma ha tát, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận đời vị lai  lợi vui tất cả.
Vì chơn pháp giới ngằn mé trước giữa sau thường  không sai khác, vậy nên Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu, năng khéo thi thiết phương tiện khéo léo vì các hữu tình nói  chơn pháp giới, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các hạnh  Bồ tát Ma ha tát chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận đời vị  lai lợi vui tất cả.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu  tình, thi thiết hữu tình đều rốt ráo bất khả đắc, các Bồ tát Ma ha tát  vì ai nên hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát chỉ lấy thật tế làm lượng nên hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Thiện  Hiện phải biết: Nếu hữu tình tế khác thật tế ấy, các Bồ tát Ma ha tát  thời chẳng nên hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì hữu tình tế chẳng  khác thật tế, vậy nên chúng Bồ tát Ma ha tát vì các hữu tình hành bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha  tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đem pháp chẳng hoại thật tế  an lập hữu tình khiến trụ thật tế.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa  Phật rằng: Nếu hữu tình tế tức là thật tế, vì sao Bồ tát Ma ha tát khi  hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đem pháp chẳng hoại thật tế an lập  hữu tình khiến trụ thật tế?
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát  khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, an lập hữu tình khiến trụ thật  tế, thời là an lập thật tế khiến trụ thật tế?
Bạch Thế Tôn! Nếu  Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, an lập thật tế  khiến trụ thật tế, thời là an lập tự tánh khiến trụ tự tánh. Nhưng lẽ  chẳng nên an lập tự tánh khiến trụ tự tánh, làm sao nói được các Bồ tát  Ma ha tát khi hnàh bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đem pháp chẳng hoại  thật tế an lập hữu tình khiến trụ thật tế?
Phật bảo: Thiện Hiện!  Chẳng thể an lập thật tế khiến trụ thật tế, cũng chẳng thể an lập tự  tánh khiến trụ tự tánh. Nhưng các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba  la mật đa thẳm sâu, vì có phương tiện khéo léo nên năng an lập hữu tình  khiến trụ thật tế, mà hữu tình tế chẳng khác thật tế. Hữu tình tế cùng  thật tế không hai, không hai chỗ.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật  rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là các Bồ tát Ma ha tát phương tiện  khéo léo, các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu,  do sức phương tiện khéo léo đây, nên an lập hữu tình khiến trụ thật tế  mà năng chẳng hoại tướng thật tế được?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các  Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu trọn nên phương  tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện khéo léo đây nên an lập hữu  tình khiến trụ bố thí. Đã an lập rồi, vì thuyết bố thí ngằn trước sau  giữa không tướng sai khác, là nói lời này: Bố thí như vậy, ngằn trước  sau giữa không chẳng đều không, kẻ thí, kẻ thọ, thí ra được quả cũng lại  đều không. Tất cả như thế, với trong thật tế trọn vô sở hữu đều bất khả  đắc. Các ngươi chớ chấp bố thí, kẻ thí, kẻ thọ, quả thí mỗi mỗi có  khác. Nếu các ngươi được chẳng chấp bố thí, kẻ thí, kẻ thọ, quả thí mỗi  khác, sở tu phước thí thời tới cam lồ. Quyết định được quả cam lồ, lấy  cam lồ mà làm hậu biên.
Lại nói lời này: Các ngươi dùng sở tu bố  thí đây, chớ lấy sắc cho đến thức. Chớ lấy nhãn xứ cho đến ý xứ. Chớ lấy  sắc xứ cho đến pháp xứ. Chớ lấy nhãn giới cho đến ý giới. Chớ lấy sắc  giới cho đến pháp giới. Chớ lấy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chớ  lấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra  các thọ.
Chớ lấy địa giới cho đến thức giới. Chớ lấy nhân duyên  cho đến tăng thượng duyên. Chớ lấy theo duyên sanh ra các pháp. Chớ lấy  vô minh cho đến lão tử. Chớ lấy bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba  la mật đa. Chớ lấy bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chớ lấy  bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Chớ lấy không, vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn. Chớ lấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không.  Chớ lấy chơn như cho đến bất tư nghì giới. Chớ lấy khổ tập diệt đạo  thánh đế. Chớ lấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Chớ lấy  Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Chớ lấy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân  địa. Chớ lấy tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Chớ lấy năm nhãn, sáu  thần thông. Chớ lấy Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng. Chớ lấy ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Chớ lấy pháp  vô vong thất, tánh hằng trụ xả.
Chớ lấy nhất thiết trí, đạo tướng  trí, nhất thiết tướng trí. Chớ lấy quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề.  Chớ lấy tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chớ lấy chư Phật Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề. Chớ lấy pháp thiện phi thiện. Chớ lấy pháp hữu ký vô ký. Chớ  lấy pháp hữu lậu vô lậu. Chớ lấy pháp thế gian xuất thế gian. Chớ lấy  pháp hữu vi vô vi.
Sở dĩ vì sao? Tất cả bố thí, tánh bố thí  không; tất cả kẻ thí, tánh kẻ thí không; tất cả kẻ thọ, tánh kẻ thọ  không; tất cả quả thí, tánh quả thí không. Trong không, bố thí, kẻ thí,  kẻ thọ và các quả thí đều bất khả đắc. Vì cớ sao? Tự tánh các pháp sai  biệt như thế đều rốt ráo không. Trong rốt ráo không, các pháp như thế  bất khả đắc vậy. Bởi các pháp đây bất khả đắc, nên các pháp bị lấy kia  cũng bất khả đắc.
Lại nữa Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi  hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, trọn nên phương tiện khéo léo như  thế, do sức phương tiện khéo léo đây nên an lập hữu tình khiến trụ tịnh  giới. Đã an lập rồi, lại nói lời này: Các ngươi ngày nay đối các hữu  tình nên rất thương xót, lìa giết sanh mạng. Nói rộng cho đến nên lìa tà  kiến, tu hành chánh kiến. Sở dĩ vì sao? Các pháp như thế đều không tự  tánh. Các ngươi chẳng nên phân biệt chấp trước. Các ngươi lại nên như  thật quán sát pháp nào gọi sống, muốn giết mạng kia, lại bởi duyên nào  mà giết mạng nó. Nói rộng cho đến pháp nào gọi là cảnh tà kiến, muốn  khởi tà kiến, lại bởi duyên nào mà khởi tà kiến. Tất cả như thế tự tánh  đều không.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi hành bát nhã Ba  la mật đa thẳm sâu, trọn nên phương tiện khéo léo như thế, năng khéo  thành thục các loại hữu tình, đem vô lượng môn vì thuyết quả bố thí và  tịnh giới đều bất khả đắc, khiến biết quả bố thí và tịnh giới tự tánh  đều không. Kia đã biết rõ quả sở tu bố thí và tịnh giới tự tánh không  rồi, năng đối trong ấy chẳng sanh chấp trước. Do chẳng chấp trước, tâm  không tán loạn. Không tán loạn, nên năng phát diệu huệ. Do diệu huệ đây,  dứt hẳn tùy miên và các buộc rồi, vào cõi Vô dư y Niết bàn.
Thiện  Hiện! Như vậy y thế tục mà thuyết, chẳng y thắng nghĩa. Sở dĩ vì sao?  Trong không, không có chút pháp khá được. Hoặc đã Niết bàn, hoặc sẽ Niết  bàn, hoặc nay Niết bàn, hoặc kẻ Niết bàn, hoặc do đây nên được vào Niết  bàn, tất cả như thế trọn vô sở hữu, đều rốt ráo không. Tánh rốt ráo  không tức là Niết bàn. Lìa Niết bàn đây không riêng có pháp.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, trọn nên phương tiện khéo léo như thế, do sức phương tiện khéo léo  đây nên thấy các hữu tình tâm nhiều giận dữ rất sanh thương xót, phương  tiện dạy răn, nói lời như vầy: Các ngươi ngày nay nên tu an nhẫn, vui  pháp an nhẫn, điều phục nơi tâm, thọ hành an nhẫn. Pháp ngươi đã giận  dữ, tự tánh đều không, vì sao với trong mà sanh giận dữ?
Các  ngươi lại nên như thật quán sát: Ta do pháp nào mà sanh giận dữ, ai năng  giận dữ, giận dữ với ai. Các pháp như thế đều bản tánh không. Pháp bản  tánh không chưa từng chẳng không. Tánh không như thế chẳng Phật làm ra,  chẳng Bồ tát làm, chẳng Độc giác làm, chẳng Thanh văn làm; cũng chẳng  trời, rồng, các thần, dược xoa, kiện đạt phược, a tố lạc, yết lộ trà,  khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người phi người làm ra; cũng chẳng trời  Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại làm ra, cũng chẳng trời  Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh làm ra, cũng chẳng trời Không vô  biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm ra.
Các ngươi  lại nên như thật quán sát: Giận dữ như thế do đâu mà sanh, hãy thuộc  nơi ai, lại dối ai khởi, sẽ được quả gì, hiện được lợi ích chi. Tất cả  pháp này đều bản tánh không. Chẳng phải trong không tánh có thứ giận dữ,  nên phải an nhẫn để tự nhiêu ích.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ  tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, trọn nên phương  tiện khéo léo tối thắng, an lập hữu tình nơi lý tánh không, nhân quả  tánh không, dần đem Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chỉ hiện khuyên dẫn, khen  gắng vui mừng, khiến khéo an trụ chóng năng chứng được.
Thiện  Hiện! Như vậy y thế tục mà thuyết, chẳng y thắng nghĩa. Sở dĩ vì sao? Vì  trong bản tánh không, năng đắc, sở đắc, đắc xứ, đắc thời, tất cả phi  hữu.
Thiện Hiện phải biết: Đấy gọi lẽ thật tế bản tánh không, các  Bồ tát Ma ha tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình, nên nương lẽ thật tế  bản tánh không đây, hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, chẳng đắc hữu  tình và thi thiết kia. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp lìa hữu  tình vậy. Hữu tình lìa, nên pháp bất khả đắc. Pháp và hữu tình đối đãi  nhau mà thành lập vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát  khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, trọn nên phương tiện khéo léo  như thế, do sức phương tiện khuyên dẫn khiến nó phát khởi thân tâm tinh  tiến, tu các pháp lành, nói lời như vầy: Các thiện nam tử! Nên rất tín  thọ. Trong bản tánh không, không pháp biếng nhác, không kẻ biếng nhác,  không chỗ biếng nhác, không thời biếng nhác, không do pháp đây phát sanh  biếng nhác. Tất cả bản tánh như thế đều không, lý chẳng vượt không.
Các  ngươi nên phát thân tâm tinh tiến, bỏ các biếng nhác, siêng tu pháp làn  là tu bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Hoặc tu bốn  tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám  thánh đạo chi. Hoặc tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Hoặc  trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc trụ chơn như cho đến  bất tư nghì giới. Hoặc trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Hoặc tu tám giải  thoát cho đến mười biến xứ.
Hoặc tu Tịnh quán địa cho đến Như Lai  địa. Hoặc tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tu tất cả đà la ni  môn, tam ma địa môn. Hoặc tu năm nhãn, sáu thần thông. Hoặc tu Như Lai  mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tu ba mươi hai tướng  Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Hoặc tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả.
Hoặc  tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Hoặc tu quả Dự  lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Hoặc tu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Hoặc  tu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Hoặc tu bao nhiêu vô lượng Phật  pháp. Nên siêng tinh tiến, chớ sanh lười nhác, nếu sanh lười nhác chịu  khổ vô cùng.
Các thiện nam tử! Tất cả pháp này đều bản tánh  không, không các chướng ngại. Các ngươi nên quán lý bản tánh không.  Trong không chướng ngại, không pháp lười nhác, không kẻ lười nhác, xuyên  cứ thời đây cũng bất khả đắc.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma  ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, trọn nên phương tiện  khéo léo thù thắng, an lập hữu tình khiến trụ lý các pháp bản tánh  không. Dù khiến an trụ mà không hai tưởng. Sở dĩ vì sao? Lý bản tánh  không, không hai không riêng, chẳng phải pháp không hai khá đối trong ấy  mà làm hai tưởng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này hành  bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nương bản tánh không, dạy răn dạy trao  các loại hữu tình khiến siêng tu học, là nói lời này: Các thiện nam tử!  Ngươi đối pháp lành nên siêng tinh tiến. Nếu khi tu bố thí Ba la mật đa  cho đến bát nhã Ba la mật đa, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng  hai chẳng hai.
Nếu khi tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi trụ khổ tập diệt đạo thánh đế, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu năm nhãn, sáu thần thông, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu khi tu quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu  khi tu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai.
Nếu  khi tu bao nhiêu vô lượng Phật pháp, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ  tướng hai chẳng hai. Vì cớ sao? Thiện nam tử! Các pháp như thế đều bản  tánh không. Lý bản tánh không, chẳng nên suy nghĩ hai chẳng hai vậy.
Như  vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, trọn nên phương tiện khéo léo hành hạnh Bồ tát, thành thục hữu  tình. Các loại hữu tình đã thành thục rồi, tùy kia sở ưng lần lữa an lập  hoặc khiến trụ quả Bất hoàn, hoặc khiến trụ quả A la hán, hoặc khiến  trụ Độc giác Bồ đề, hoặc khiến trụ Bồ tát thắng vị, hoặc khiến trụ Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha  tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu trọn nên phương tiện khéo léo  như thế, do sức phương tiện khéo léo đây nên thấy các hữu tình tâm  nhiều tán loạn, đối các dục cảnh chẳng nhiếp các căn, phát khởi nhiều  thứ nghiệp chẳng vắng lặng. Thấy rồi phương tiện khiến vào thắng định,  là nói lời này: Đến đây, thiện nam tử! Ngươi nên tu tập thắng tam ma  địa, chớ khởi tán loạn và tưởng thắng định. Sở dĩ vì sao? Tất cả pháp  này đều bản tánh không. Trong bản tánh không, không pháp khá được khá  gọi tán loạn, hoặc gọi nhất tâm. Nếu các ngươi năng trụ thắng định đây,  ra làm thiện sự đều mau thành mãn, cũng tùy sở dục trụ bản tánh không.
Những  gì gọi là ra làm thiện sự? Nghĩa là khởi nghiệp thắng tịnh thân ngữ ý.  Hoặc tu bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Hoặc tu bốn  niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Hoặc tu không, vô tướng, vô nguyện  giải thoát môn. Hoặc trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc  trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Hoặc trụ khổ tập diệt đạo thánh  đế.
Hoặc tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tu  tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc tu Tịnh quán địa cho đến Như  Lai địa. Hoặc tới Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Hoặc tu Cực hỷ địa cho đến  Pháp vân địa. Hoặc tu tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Hoặc tu năm  nhãn, sáu thần thông. Hoặc tu Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp  Phật bất cộng. Hoặc tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Hoặc  tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả.
Hoặc tu nhất thiết trí,  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Hoặc tu đạo Thanh văn, đạo Độc  giác, đạo Bồ tát, đạo Như Lai. Hoặc tu quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ  đề. Hoặc tu hạnh Bồ tát Ma ha tát và Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.  Hoặc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi p. Tất cả thắng tịnh thiện  pháp như thế, do sức thắng định đều mau thành xong và tùy sở nguyện trụ  bản tánh không.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành  bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, từ sơ phát tâm cho  đến cứu cánh muốn cầu làm thiện lợi thường không gián đoạn. Vì muốn lợi  vui các hữu tình nên từ một cõi Phật đến một cõi Phật, gần gũi cúng  dường chư Phật Thế Tôn, ở chỗ chư Phật nghe kinh thọ Chánh phá. Xả thân  thọ thân trải vô lượng kiếp, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ở thời  gian giữa trọn chẳng quên mất.
Bồ tát Ma ha tát này được đà la ni  các căn không giảm. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này hằng đủ khéo tu  Nhất thiết trí trí, các hữu sở tác năng khéo suy nghĩ. Do đủ khéo tu  Nhất thiết trí trí, các hữu sở tác năng khéo suy nghĩ, đối tất cả đạo  đều năng tu tập, là đạo Thanh văn hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Bồ tát,  hoặc đạo chư Phật, hoặc đạo thắng thiên, hoặc đạo thắng nhân, hoặc đạo  thắng thần thông Bồ tát.
Bồ tát Ma ha tát này do trụ đạo thần  thông thù thắng, nên thường làm các việc lợi vui hữu tình. Dù phải trải  qua các thú sanh tử luân hồi, mà thắng thần thông thường không lui giảm.  Do không lui giảm dị thục thần thông, thường làm việc thắng nhiêu ích  mình người.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu trụ bản tánh không, phương tiện khéo léo năng  khéo lợi vui các loại hữu tình, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu trọn nên phương tiện khéo léo như thế, do sức phương tiện khéo  léo đây, nên trụ bản tánh không, thấy các hữu tình trí huệ mỏng ít, ngu  si điên đảo, gây các ác nghiệp, phương tiện dẫn vào bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu, nói lời như vầy: Đến đây, thiện nam tử! Nên tu bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu, quán tất cả pháp bản tánh không, vắng lặng. Nếu các  ngươi năng tu bát nhã Ba la mật đa đây, quán sát tất cả pháp bản tánh  không, vắng lặng, các sở tu hành nghiện thân ngữ ý đều đến cam lồ. Được  định quả cam lồ, lấy cam lồ mà làm hậu biên.
Các thiện nam tử!  Tất cả pháp này đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và  pháp dù bất khả đắc mà sở tu hành cũng không lui mất. Vì cớ sao? Thiện  nam tử! Lý bản tánh không chẳng tăng chẳng giảm. Trong bản tánh không,  không có pháp tăng giảm. Sở dĩ vì sao? Lý bản tánh không vô tánh làm  tánh, lìa các phân biệt, tuyệt các hý luận, nên đối trong đây không pháp  tăng giảm, do đây sở tác cũng không lui mất. Vậy nên, các ngươi nên tu  bát nhã Ba la mật đa quán bản tánh không, làm việc đáng làm.
Như  vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, phương tiện khéo léo dạy răn dạy trao các loại hữu tình khiến vào  bát nhã Ba la mật đa, trụ bản tánh không, tu các nghiệp lành.
Thiện  Hiện! Bồ tát Ma ha tát này dạy răn dạy trao hữu tình như thế thường  không lười bỏ. Nghĩa là tự thường hành mười thiện nghiệp đạo, cũng  khuyên người thường hành mười thiện nghiệp đạo. Tự thường thọ trì năm  giới cận sự, cũng khuyên người thường thọ trì năm giới cận sự. Tự thường  thọ trì tám giới cận trụ, cũng khuyên người thường thọ trì tám giới cận  trụ. Tự thường thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người thường thọ trì  giới xuất gia.
Tự thường tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn  vô sắc định, cũng khuyên người thường tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,  bốn vô sắc định. Tự thường tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo  chi, cũng khuyên người tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
Tự  thường tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cũng khuyên  người thường tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tự  thường tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa, cũng  khuyên người thường tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la  mật đa.
Tự thường an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không,  cũng khuyên người thường an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh  không. Tự thường an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, cũng khuyên  người thường an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Tự thường an trụ  khổ tập diệt đạo thánh đế, cũng khuyên người thường an trụ khổ tập diệt  đạo thánh đế.
Tự thường tu hành tám giải thoát cho đến mười biến  xứ, cũng khuyên người thường tu hành tám giải thoát cho đến mười biến  xứ. Tự thường tu hành các bậc Bồ tát, cũng khuyên người thường tu hành  các bậc Bồ tát. Tự thường tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn;  cũng khuyên người thường tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn.
Tự  thường tu học năm nhãn, sáu thần thông, cũng khuyên người thường tu học  năm nhãn, sáu thần thông. Tự thường tu học Như Lai mười lực cho đến  mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người thường Như Lai mười lực  cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Tự thường tu học ba mươi hai  tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo; cũng khuyên người thường tu học ba mươi  hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Tự thường tu học pháp vô vong thất,  tánh hằng trụ xả; cũng khuyên người thường tu học pháp vô vong thất,  tánh hằng trụ xả. Tự thường tu học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí; cũng khuyên người thường tu học nhất thiết trí, đạo  tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Tự thường phát khởi trí quả Dự  lưu cho đến trí Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác  Bồ đề. Cũng khuyên người thường phát khởi trí quả Dự lưu cho đến trí Độc  giác Bồ đề, hoặc khiến trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề.
Tự  thường phát khởi các hạnh Bồ tát Ma ha tát, cũng khuyên người thường  phát khởi các hạnh Bồ tát Ma ha tát. Tự thường phát khởi đạo chư Phật Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng khuyên người thường phát khởi đạo  cpvtcbd.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, tự tu thiện nghiệp  thường không lười bỏ, dạy răn dạy trao các loại hữu tình khiến tu thiện  nghiệp thường không lười bỏ.
Thiện Hiện! Đấy gọi các Bồ tát Ma ha  tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, do sức  phương tiện khéo léo đây nên an lập hữu tình nơi trong thật tế mà năng  chẳng hoại tưởng thật tế.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa  Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều bản tánh không, trong bản  tánh không, hữu tình và pháp đều bất khả đắc. Do ở trong đây cũng không  phi pháp, Bồ tát Ma ha tát làm sao vì loại hữu tình cầu chứng Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề, muốn thường làm nhiêu ích tận đời vị lai?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, các pháp sở hữu đều  bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và pháp đều bất khả đắc.  Do ở trong đây cũng không phi pháp.
Thiện Hiện phải biết: Nếu  tất cả pháp chẳng bản tánh không, các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu chẳng nên an trụ lý bản tánh không, cầu chứng Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì nhiêu ích hữu tình thuyết pháp bản tánh  không. Vì tất cả pháp đều bản tánh không, vậy nên Bồ tát Ma ha tát khi  hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu trụ lý tất cả pháp bản tánh không,  cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì nhiêu ích hữu tình thuyết pháp  bản tánh không.
Thiện Hiện! Những các Phật háp nào bản tánh đều  không mà các Bồ tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thật rõ biết bản tánh không rồi, trụ bản tánh không vì người thuyết  pháp?
Thiện Hiện! Sắc cho đến thức bản tánh đều không. Nhãn xứ  cho đến ý xứ bản tánh đều không. Sắc xứ cho đến pháp xứ bản tánh đều  không. Nhãn giới cho đến ý giới bản tánh đều không. Sắc giới cho đến  pháp giới bản tánh đều không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới bản  tánh đều không. Nhãn xúc cho đến ý xúc bản tánh đều không. Nhãn xúc làm  duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bản tánh  đều không.
Địa giới cho đến thức giới bản tánh đều không. Nhân  duyên cho đến tăng thượng duyên bản tánh đều không. Theo duyên sanh ra  các pháp bản tánh đều không. Vô minh cho đến lão tử bản tánh đều không.  Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa bản tánh đều không.
Bốn  tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định bản tánh đều không. Bốn niệm trụ  cho đến tám thánh đạo chi bản tánh đều không. Không, vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn bản tánh đều không. Nội không cho đến vô tánh tự  tánh không bản tánh đều không. Chơn như cho đến bất tư nghì giới bản  tánh đều không. Khổ tập diệt đạo thánh đế bản tánh đều không. Tám giải  thoát cho đến mười biến xứ bản tánh đều không.
Tịnh quán địa cho  đến Như Lai địa bản tánh đều không. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa bản  tánh đều không. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn bản tánh đều không.  Năm nhãn, sáu thần thông bản tánh đều không. Như Lai mười lực cho đến  mười tám pháp Phật bất cộng bản tánh đều không. Ba mươi hai tướng Đại  sĩ, tám mươi tùy hảo bản tánh đều không. Pháp vô vong thất, tánh hằng  trụ xả bản tánh đều không.
Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí bản tánh đều không. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề  bản tánh đều không. Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát bản tánh đều không. Chư  Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề bản tánh đều không. Dứt hẳn tập khí  phiền não nối nhau bản tánh đều không.
Các Bồ tát Ma ha tát khi  hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, như thật rõ biết sắc thảy các uẩn  cho đến dứt hẳn tất cả tập khí phiền não nối nhau bản tánh không rồi,  trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như  thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tánh nội không bản tánh chẳng  không; nếu tánh ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,  thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế  không, tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp  không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh  không cũng bản bản tánh chẳng không ấy, thời các Bồ tát Ma ha tát khi  hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nên vì các hữu tình thuyết tất cả  pháp đều bản tánh không.
Nếu tác thuyết này hoại bản tánh không.  Nhưng lý bản tánh không chẳng thể hoại được, vì phi thường phi đoạn, Sở  dĩ vì sao? Lý bản tánh không, không phương không xứ, không từ đâu đến  cũng không đi đâu. Không lý như thế cũng gọi pháp trụ. Trong đây không  pháp không nhóm không tan, không thêm không bớt, không sanh không diệt,  không nhiễm không tịnh. Tất cả pháp này tánh trụ bản sở.
Các Bồ  tát Ma ha tát an trụ trong ấy cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chẳng  thấy có pháp có chỗ cầu tới, chẳng thấy có pháp không chỗ cầu tới. Vì  tất cả pháp trọn vô sở trụ, nên gọi pháp trụ.
Các Bồ tát Ma ha  tát an trụ trong đấy hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thấy tất cả  pháp bản tánh không rồi, định đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng  quay lui. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy có pháp năng làm  chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không chướng ngại nên bèn đối Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng sanh nghi hoặc, nên chẳng quay lui.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát trụ trong tất cả pháp tánh bản  tánh không, quán bản tánh không đều vô sở đắc. Nghĩa là ngã, hữu tình,  mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng,  tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, đều bất khả đắc.
Sắc cho đến  thức cũng bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng bất khả đắc. Sắc xứ  cho đến pháp xứ cũng bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới cũng bất khả  đắc. Sắc giới cho đến pháp giới cũng bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến  ý thức giới cũng bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng bất khả đắc.  Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các  thọ cũng bất khả đắc.
Địa giới cho đến thức giới cũng bất khả  đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Theo duyên  sanh ra các pháp cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử cũng bất khả  đắc. Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc.  Nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng bất khả đắc. Chơn như cho  đến bất tư nghì giới cũng bất khả đắc. Khổ tập diệt đạo thánh đế cũng  bất khả đắc.
Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi cũng bất khả  đắc.Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng bất khả đắc. Tám  giải thoát cho đến mười biến xứ cũng bất khả đắc. Không, vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn cũng bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai  địa cũng bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng bất khả đắc.  Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn cũng bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần  thông cũng bất khả đắc. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng cũng bất khả đắc. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả cũng bất khả  đắc.
Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng  bất khả đắc. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng bất khả đắc. Tất cả  hạnh Bồ tát Ma ha tát cũng bất khả đắc. Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề cũng bất khả đắc. Pháp thiện, pháp phi thiện cũng bất khả đắc. Pháp  hữu ký, pháp vô ký cũng bất khả đắc. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu cũng bất  khả đắc. Pháp thế gian, pháp xuất thế gian cũng bất khả đắc. Pháp hữu  vi, pháp vô vi cũng bất khả đắc. ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy  hảo cũng bất khả đắc.