Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
Phật  nói: Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Như vậy, như vậy. Như lời ngươi  đáp. Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc khá lấy khá đắm, chẳng thấy thọ  tưởng hành thức khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay  đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng  lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy  nhãn xứ khá lấy khá đắm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ khá lấy khá  đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi  pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng  đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc xứ lấy khá đắm, chẳng  thấy thanh hương vị xúc pháp xứ khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có  pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi  chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta  cũng chẳng thấy nhãn giới khá lấy khá đắm; chẳng thấy sắc giới, nhãn  thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ khá lấy khá  đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi  pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng  đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhĩ giới khá lấy khá đắm;  chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh  ra các thọ khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm,  cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy,  chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tỷ giới  khá lấy khá đắm; chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc  làm duyên sanh ra các thọ khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp  hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng  thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng  chẳng thấy thiệt giới khá lấy khá đắm; chẳng thấy vị giới, thiệt thức  giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ khá lấy khá đắm.  Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy  có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện  Hiện! Ta cũng chẳng thấy thân giới khá lấy khá đắm; chẳng thấy xúc  giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ khá  lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng  thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy  nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy ý giới khá lấy khá  đắm; chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra  các thọ khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm,  cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy,  chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy địa giới  khá lấy khá đắm; chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới khá lấy khá  đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi  pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng  đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy vô minh khá lấy khá đắm;  chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,  lão tử sầu thán khổ ưu não khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp  hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng  thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng  chẳng thấy bố thí Ba la mật đa khá lấy khá đắm; chẳng thấy tịnh giới, an  nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa khá lấy khá đắm. Ta cũng  chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy  có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện  Hiện! Ta cũng chẳng thấy nội không khá lấy khá đắm; chẳng thấy ngoại  không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu  vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến  dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết  pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự  tánh không khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm,  cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy,  chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy chơn như  khá lấy khá đắm; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất  biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật  tế, hư không giới, bất tư nghì giới khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy  có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi  chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta  cũng chẳng thấy khổ thánh đế khá lấy khá đắm; chẳng thấy tập diệt đạo  thánh đế khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm,  cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy,  chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bốn tĩnh  lự khá lấy khá đắm; chẳng thấy bốn vô lượng, bốn vô sắc định khá lấy  khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi  pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên  chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tám giải thoát khá lấy  khá đắm; chẳng thấy tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ khá lấy  khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy  bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên  chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bốn niệm trụ khá lấy  khá đắm; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy  đẳng giác chi, tám thánh đạo chi khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có  pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi  chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta  cũng chẳng thấy không giải thoát môn khá lấy khá đắm; chẳng thấy vô  tướng, vô nguyện giải thoát môn khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có  pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi  chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta  cũng chẳng thấy Bồ tát thập địa khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có  pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi  chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta  cũng chẳng thấy năm nhãn khá lấy khá đắm, chẳng thấy sáu thần thông khá  lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng  thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy  nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy Phật mười lực khá  lấy khá đắm; chẳng thấy bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,  đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khá lấy khá đắm. Ta cũng  chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy  có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện  Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp vô vong thất khá lấy khá đắm, chẳng thấy  tánh hằng trụ xả khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay  đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên  chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng  thấy nhất thiết trí khá lấy khá đắm; chẳng thấy đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay  đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng  lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất  cả đà la ni môn khá lấy khá đắm, chẳng thấy tất cả tam ma địa môn khá  lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy  bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên  chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả Dự lưu khá lấy khá  đắm; chẳng thấy quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán khá lấy khá đắm. Ta  cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có  lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện  Hiện! Ta cũng chẳng thấy Độc giác Bồ đề khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng  thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm.  Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện  Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát khá lấy khá đắm.  Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy  có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện  Hiện! Ta cũng chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khá lấy  khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy hay đắm, cũng chẳng thấy bởi  pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên chẳng lấy, chẳng lấy nên  chẳng đắm.
Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất cả Như Lai Ứng  Chánh Đẳng Giác có bao Phật tánh, Như Lai tánh, Tự nhiên pháp tánh, Nhất  thiết trí trí tánh khá lấy khá đắm. Ta cũng chẳng thấy có pháp hay lấy  hay đắm, cũng chẳng thấy bởi pháp ấy có lấy có đắm. Bởi chẳng thấy nên  chẳng lấy, chẳng lấy nên chẳng đắm.
Thiện Hiện! Vậy nên Bồ tát Ma  ha tát cũng chẳng nên lấy đắm sắc, chẳng nên lấy đắm thọ tưởng hành  thức. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm nhãn xứ, chẳng nên lấy đắm  nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm sắc xứ;  chẳng nên lấy đắm thanh hương vị xúc pháp xứ.
Bồ tát Ma ha tát  cũng chẳng nên lấy đắm nhãn giới; chẳng nên lấy đắm sắc giới, nhãn thức  giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Bồ tát Ma ha tát  cũng chẳng nên lấy đắm nhĩ giới; chẳng nên lấy đắm thanh giới, nhĩ thức  giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Bồ tát Ma ha tát  cũng chẳng nên lấy đắm tỷ giới; chẳng nên lấy đắm hương giới, tỷ thức  giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Bồ tát Ma ha tát cũng  chẳng nên lấy đắm thiệt giới; chẳng nên lấy đắm vị giới, thiệt thức giới  và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Bồ tát Ma ha tát  cũng chẳng nên lấy đắm thân giới; chẳng nên lấy đắm xúc giới, thân thức  giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Bồ tát Ma ha tát  cũng chẳng nên lấy đắm ý giới; chẳng nên lấy đắm pháp giới, ý thức giới  và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bồ tát Ma ha tát cũng  chẳng nên lấy đắm địa giới; chẳng nên lấy đắm thủy hỏa phong không thức  giới. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm vô minh; chẳng nên lấy đắm  hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu  thán khổ ưu não. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm bố thí Ba la  mật đa; chẳng nên lấy đắm tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát  nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm nội  không; chẳng nên lấy đắm ngoại không, nội ngoại không, không không, đại  không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô  tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,  cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh  không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Bồ tát Ma ha tát  cũng chẳng nên lấy đắm chơn như; chẳng nên lấy đắm pháp giới, pháp tánh,  bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát Ma ha  tát cũng chẳng nên lấy đắm khổ thánh đế, chẳng nên lấy đắm tập diệt đạo  thánh đế.
Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm bốn tĩnh lự;  chẳng nên lấy đắm bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát Ma ha tát cũng  chẳng nên lấy đắm tám giải thoát; chẳng nên lấy tám thắng xứ, chín thứ  đệ định, mười biến xứ. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm bốn niệm  trụ; chẳng nên lấy đắm bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,  bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên  lấy đắm không giải thoát môn; chẳng nên lấy đắm vô tướng, vô nguyện giải  thoát môn. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm Bồ tát thập địa. Bồ  tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm năm nhãn, chẳng nên lấy đắm sáu  thần thông.
Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm Phật mười  lực; chẳng nên lấy đắm bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,  đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng  nên lấy đắm pháp vô vong thất, chẳng nên lấy đắm tánh hằng trụ xả. Bồ  tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm nhất thiết trí; chẳng nên lấy đắm  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy  đắm tất cả đà la ni môn, chẳng nên lấy đắm tất cả tam ma địa môn.
Bồ  tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm quả Dự lưu; chẳng nên lấy đắm quả  Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm  Độc giác Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm tất cả hạnh Bồ  tát Ma ha tát. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm chư Phật Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng nên lấy đắm tất cả  Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật tánh, Như Lai tánh, Tự nhiên  pháp tánh, Nhất thiết trí tánh.
Bấy giờ, các vị thiên tử cõi Dục,  cõi Sắc thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế rất  là thẳm sâu, khó thấy khó giác, chẳng thể tầm nghĩ , vượt cảnh tầm nghĩ,  vắng lặng mầu nhiệm, chắc thật kín đáo. Kẻ thông minh trí giả mới năng  trọn biết. Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình năng sâu tin hiểu Bát nhã Ba  la mật đa như thế, phải biết cúng dường vô lượng các Phật quá khứ, ở chỗ  các Phật phát hoằng thệ nguyện, trồng nhiều căn lành, đã được vô lượng  các thiện tri thức nhiếp thọ, mới có thể tin hiểu Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu.
Bạch Thế Tôn! Giả sử các loại hữu tình Tam thiên đại  thiên thế giới, tất cả đều thành thục tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ  bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác. Kia đã trọn nên  hoặc trí, hoặc đoạn, chẳng bằng có người một ngày đối Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu đây nhận vui, suy nghĩ, xưng lường, xem xét. Người nầy đối  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, đã trọn nên khẩn hơn trí đoạn của kia  vô lượng vô biên. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vì các tùy tính hành có bao  trí đoạn, đều là đã được phần ít nhẫn của Bồ tát Ma ha tát Vô sanh pháp  nhẫn vậy. Bạch Thế Tôn! Các tùy pháp hành, đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất  hoàn, A la hán, Độc giác có bao trí đoạn, đều là đã được phần ít nhẫn  của Bồ tát Ma ha tát Vô sanh pháp nhẫn vậy.
Bấy giờ, Phật bảo các  thiên tử rằng: Như vậy, như vậy. Như lời các ngươi vừa nói. Các tùy tín  hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,  Độc giác có bao trí đoạn, đều là đã phần ít nhẫn của Bồ tát Ma ha tát Vô  sanh pháp nhẫn. Thiên tử phải biết: Nếu các các thiện nam tử, thiện nữ  nhân tạm nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, nghe rồi biên chép,  thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tu tập. Các các thiện nam tử, thiện nữ nhân  này mau ra sanh tử chứng được Niết bàn, hơn các các thiện nam tử, thiện  nữ nhân ham cầu Thanh văn, Độc giác, xa lìa Bát nhã Ba la mật đa học các  kinh điển khác, hoặc trải một kiếp hoặc một kiếp hơn. Vì cớ sao? Các  thiên tử! Vì ở trong kinh Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây rộng thuyết  tất cả thắng pháp nhiệm mầu, nên các kẻ tùy tín hành, hoặc tùy pháp  hành, đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma  ha tát đều nên đối đây tinh tiến tu học. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng  Giác đều y đây hoặc đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề.
Khi ấy, các thiên tử đồng phát tiếng rằng: Bạch Thế Tôn!  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế là đại Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn!  Bát nhã Ba la mật đa như thế là chẳng khá nghĩ bàn Ba la mật đa. Bạch  Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế là chẳng khá xưng lường Ba la mật  đa. Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế là không số lượng Ba la  mật đa. Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế là không ngang ngang  Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Các tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành,  đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đều đối Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế tinh siêng tu học, mau ra sanh tử chứng  được Niết bàn. Tất cả Bồ tát Ma ha tát đều đối Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu như thế tinh siêng tu học, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Bạch  Thế Tôn! Tuy các thanh văn, Độc giác, Bồ tát đều y Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu tinh siêng tu học, đều được rốt ráo, mà Bát nhã Ba la mật đa  nầy chẳng thêm chẳng bớt.
Khi ấy, các chúng thiên tử cõi Dục, cõi  Sắc nói lời này rồi, đảnh lễ chân Phật, đi quanh hữu ba vòng, từ giã  Phật về cung lại, cách hội chẳng xa bỗng nhiên chẳng hiện.
 
Hội Thứ Nhất
Phẩm Các Dụ
Thứ 44 - 1
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha  tát nghe thuyết pháp Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế rất sanh tin  hiểu, lại hay biên chép, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tu tập. Bồ tát Ma ha  tát này từ chỗ nào chết đến sanh nơi đây?
Phật nói: Thiện Hiện!  Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế  rất sanh tin hiểu, chẳng khiếp chẳng nhược, chẳng sợ chẳng hãi, chẳng  nghi chẳng lầm, vui mừng yêu mến, buộc niệm suy nghĩ bao nhiêu nghĩa thú  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, hoặc đi hoặc đứng, hoặc ngồi hoặc nằm  từng không nới bỏ. Thường theo Pháp sư cung kính thỉnh hỏi, như là con  mới sanh chẳng rời mẹ nó. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì cầu Bát  nhã Ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu, trọn chẳng xa lìa Bát nhã pháp sư,  cho đến chưa được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu kinh điển tại tay, thọ  trì đọc tụng, suy nghĩ tu tập, rốt ráo thông lợi, chẳng lìa theo Pháp sư  chưa từng chút bỏ. Thiện Hiện! Phải biết Bồ tát Ma ha tát này, từ nhân  thú chết đến sanh nhân địa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Các thiện nam tử,  thiện nữ nhân Bồ tát thừa này, đời trước đối Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, tinh tiến tu tập, lại năng  biên chép, các ngọc trau dồi. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu,  hương bột, hương xoa thảy, áo mặc, chuỗi lạc, bảo tràng, phan lọng, kỹ  nhạc, đèn sáng, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Do căn lành  đây, từ nhân thú chết sanh lại nhân đạo, nghe Bát nhã Ba la mật đa này  rất sanh tin hiểu, lại năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ tu  tập.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vả có Bồ  tát nào trọn nên công đức thù thắng như thế, cúng dường tứ sự các Phật  phương khác. Từ chỗ kia chết đến sanh nơi đây, nghe thuyết Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu như thế tất sanh tin hiểu, lại năng biên chép, thọ trì  đọc tụng, suy nghĩ tu tập mà không biếng lười chăng? Phật nói: Thiện  Hiện! Như vậy, như vậy. Có Bồ tát Ma ha tát trọn nên công đức thù thắng  như thế, cúng dường thừa sự các Phật phương khác. Từ chỗ kia chết sanh  đến nơi đây, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế rất sanh  tin hiểu, lại năng biên chép thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tu tập không có  biếng lười. Sở dĩ vì sao? Là Bồ tát Ma ha tát này đời trước từ chỗ vô  lượng các Phật phương khác, từng nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu như thế rất sanh tin hiểu, lại năng biên chép thọ trì đọc tụng, suy  nghĩ tu tập không có biếng lười. Kia nhờ sức căn lành như thế, nên từ  chỗ kia chết sanh đến nơi đây.
Lại nữa, Thiện Hiện! Cũng có Bồ  tát Ma ha tát từ trời Đỗ sử đa chúng đồng phận chết sanh đến nhân đạo,  phải biết kia cũng trọn nên công đức thù thắng như thế. Sở dĩ vì sao? Là  Bồ tát Ma ha tát này đời trước đã ở trời Đỗ sử đa, chỗ Di Lặc Bồ tát Ma  ha tát thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Kia  nhờ sức căn lành như thế, nên từ chỗ kia chết sanh đến nơi đây. Nghe  thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế rất sanh tin hiểu, lại năng  biên chép, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ tu tập không có biếng lười.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe Bát nhã Ba la mật đa mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay  sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm  kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe tĩnh lự  Bát nhã Ba la mật đa mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh  trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia  mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có  Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe tinh tiến Bát nhã  Ba la mật đa mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người  nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do  dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa  bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe an nhẫn Bát nhã Ba la mật đa  mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp  nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc  già la, tuy ở đời trước được nghe tịnh giới Bát nhã Ba la mật đa mà  chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược,  hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la,  tuy ở đời trước được nghe bố thí Ba la mật đa mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa  thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,  thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế  không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng  tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,  tự tánh không, vô tánh tự tánh không mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm  sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe chơn như pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,  bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không  giới, bất tư nghì giới mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh  trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia  mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe khổ tập  diệt đạo thánh đế mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong  người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê  ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe bốn tĩnh  lự mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe  thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự  khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ  đặc già la, tuy ở đời trước được nghe bốn vô lượng mà chẳng thỉnh hỏi  nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu  khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước  được nghe bốn vô sắc định mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay  sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm  kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa,  Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe tám  giải thoát mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người  nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do  dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa  bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe tám thắng xứ mà chẳng thỉnh  hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh  hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời  trước được nghe chín thứ đệ định mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu.  Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế,  tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe mười biến  xứ mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe  thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự  khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát  thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe bốn niệm trụ mà chẳng  thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc  sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở  đời trước được nghe bốn chánh đoạn mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm  sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa,  Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe bốn  thần túc mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người  nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do  dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa  bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe năm căn mà chẳng thỉnh hỏi  nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu  khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước  được nghe năm lực mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong  người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê  ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ  tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe bảy đẳng giác chi mà  chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược,  hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la,  tuy ở đời trước được nghe tám thánh đạo chi mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú  thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe không giải thoát môn mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay  sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm  kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe vô tướng,  vô nguyện giải thoát môn mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh  trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia  mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe Bồ tát  thập địa mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người  nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do  dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ  tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe năm nhãn mà chẳng  thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc  sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở  đời trước được nghe sáu thần thông mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm  sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe Phật mười lực mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong  người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê  ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ  tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe bốn vô sở úy mà chẳng  thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc  sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở  đời trước được nghe bốn vô ngại giải mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm  sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa,  Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe đại  từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay  sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm  kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe mười tám  pháp Phật bất cộng mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong  người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê  ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe pháp vô  vong thất mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người  nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do  dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa  bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe tánh hằng trụ xả mà chẳng  thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc  sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già  la, tuy ở đời trước được nghe nhất thiết trí mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa  thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.  Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe đạo tướng trí mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong  người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê  ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ  tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe nhất thiết tướng trí  mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp  nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa  bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe tất cả đà la ni môn mà chẳng  thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc  sanh hiểu khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở  đời trước được nghe tất cả tam ma địa môn mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú  thẳm sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu  như thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu.  Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế,  tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được nghe  chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm  sâu. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như  thế, tâm kia mê ngất, do dự khiếp nhược, hoặc sanh hiểu khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát thừa bổ đặc già la, tuy ở đời trước được  nghe Bát nhã Ba la mật đa, cũng từng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu mà  chẳng năng hỏi một ngày, hai ngày, ba bốn năm ngày tùy thuận tu hành.  Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế,  nếu trải một ngày cho đến năm ngày kia tâm bền chắc không ai hoại được,  nếu lìa đã nghe liền bèn lui mất. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát thừa bổ  đặc già la này, do ở đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu,  tuy đã thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu mà chẳng như thuyết tùy thuận tu  hành. Nên với đời nay, nếu gặp bạn lành ân cần khuyên gắng là vui nghe  chịu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu không bạn lành ân cần khuyên  gắng, bèn đối kinh này chẳng vui nghe chịu. Kia đối Bát nhã Ba la mật đa  hoặc khi vui nghe, hoặc khi chẳng vui nghe, hoặc khi bền chắc, hoặc khi  lui mất, tâm kia nhẹ động tiến thối phi thường như bông đỗ la theo gió  bay bổng. Thiện Hiện! Phải biết bổ đặc già la như thế phát tới Đại thừa  trải thời chưa lâu, chưa gần gũi nhiều chơn thiện tri thức, chưa từng  cúng dường các Phật Thế Tôn, chưa từng thọ trì đọc tụng, biên chép suy  nghĩ diễn nói Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Thiện Hiện! Phải  biết bổ đặc già la như thế chưa từng tu học bát nhã Ba la mật đa thẳm  sâu, chưa từng tu học tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba  la mật đa. Chưa từng tu học nội không; chưa từng tu học ngoại không, nội  ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không,  vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không,  bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không,  bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.  Chưa từng tu học chơn như; chưa từng tu học pháp giới, pháp tánh, bất  hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định,  pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Chưa từng tu học  khổ thánh đế, chưa từng tu học tập diệt đạo thánh đế. Chưa từng tu học  bốn tĩnh lự; chưa từng tu học bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chưa từng  tu học tám giải thoát; chưa từng tu học tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ. Chưa từng tu học bốn niệm trụ; chưa từng tu học bốn chánh  đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo  chi. Chưa từng tu học không giải thoát môn; chưa từng tu học vô tướng,  vô nguyện giải thoát môn. Chưa từng tu học Bồ tát thập địa. Chưa từng tu  học năm nhãn, chưa từng tu học sáu thần thông. Chưa từng tu học Phật  mười lực; chưa từng tu học bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại  bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chưa từng tu học pháp  vô vong thất, chưa từng tu học tánh hằng trụ xả. Chưa từng tu học nhất  thiết trí; chưa từng tu học đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chưa  từng tu học tất cả đà la ni môn, chưa từng tu học tất cả tam ma địa môn.  Chưa từng tu học pháp quả Dự lưu; chưa từng tu học pháp quả Nhất lai,  Bất hoàn, A la hán. Chưa từng tu học pháp Độc giác Bồ đề. Chưa từng tu  học tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chưa từng tu học Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề.
Thiện Hiện! Phải biết bổ đặc già la như thế là tâm pháp  thú Đại thừa. Đối pháp Đại thừa trọn nên phần ít tin kính yêu mến, chớ  chưa năng biên chép, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tu tập, vì người diễn  nói Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
