36. Trùng trùng hối miễn (bao lượt khuyên lơn)
Trong phẩm này, vì chiết phục chúng sanh ác nghiệp nên đức Phật lại chỉ bày, khuyên lơn. Trước hết ngài giảng rõ về nhân ác quả ác để chúng sanh biết mà kiêng sợ. Cuối phẩm, ngài lại khuyên nên đoan chánh thân tâm, chẳng quên công phu để khỏi phải hối hận.
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc:
- Ta bảo các ông: Năm sự ác, năm sự đau, năm sự đốt như thế xoay chuyển sanh lẫn nhau. Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy sẽ trải thân trong đường ác; hoặc là trong đời này trước hết bị bịnh tật, tai ương, sống chết không xong, để làm gương cho kẻ khác. Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác. Sầu đau, thảm não tàn khốc tự nung đốt thân.
Giải: Ðoạn kinh này nói về cái họa do ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu sanh ra.
Gia Tường Sớ giảng: “Xoay chuyển sanh lẫn nhau” là ba độc. Chẳng trừ ác thì ác chẳng tuyệt, khổ quả chẳng dứt’. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Năm ác là nhân, nhọc khổ là quả. Dùng quả để răn nhân. “Sanh lẫn nhau” là đời này bị đau khổ, đời sau bị thiêu đốt; điều này làm cái nhân để sanh ra điều kia vậy’.
Cả hai thuyết cùng nói đến ‘sanh lẫn nhau’ nhưng chưa giảng rõ chữ ‘xoay vần’. Các vị Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng và Vọng Tây giảng rõ chữ ‘xoay vần’.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Trước hết nói rõ điều ác sanh ra nỗi đau khổ và thiêu đốt. Tiếp đó là từ thiêu đốt sanh ra điều ác và đau khổ’.
Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Trước hết, nói từ ác sanh đau đớn, sanh ra thiêu đốt. Tiếp đó, nói từ thiêu đốt sanh ra ác, sanh ra đau’.
Ngài Cảnh Hưng cũng giảng giống như thế, nghĩa là: ác, đau khổ và thiêu đốt lần lượt sanh lẫn nhau. Ðiều ác sanh ra nỗi đau đớn, thiêu đốt nên phải sanh trong ác đạo. Nhưng chúng sanh trong ác đạo ba độc quá nặng nên từ sự thiêu đốt ấy lại sanh ra các nỗi ác khổ, đau đớn như gà đẻ ra trứng, trứng lại nở ra gà. Cái này, cái kia lần lượt sanh ra nhau không lúc nào ngớt.
Bởi thế, tiếp đó kinh chép: ‘Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy’. ‘Những điều ấy’ chính là những điều ác. Kẻ dám phạm vào những điều ác ắt sẽ mãi mãi lăn lóc trong nẻo ác nên kinh dạy: ‘Sẽ trải thân trong đường ác’. ‘Trải’ là trải qua, ‘đường ác’ chính cái quả do việc ác chiêu cảm. Bởi thế, kinh nêu lên tướng trạng của quả để răn đe chúng sanh ngõ hầu họ dứt bỏ nhân ác.
Các câu từ ‘hoặc trong đời này’ cho đến ‘để làm gương cho chúng’ là nói về năm sự đau; đấy chỉ là hoa báo trong đời hiện tại. ‘Bị’ là lãnh chịu; ‘bịnh’ là tật bịnh, ‘ương’ là tai họa như thủy tai, hỏa tai, hình phạt v.v... Kẻ làm ác ngay trong hiện đời thì hoặc bị bịnh nặng, hoặc mắc phải tai vạ, mong sống chẳng được, cầu chết không nổi. Sầu khổ muôn mối chẳng thoát khỏi được! Bởi thế, Phật nói: ‘Sống chết không xong’.
Tiếp đó, kinh nói: ‘Ðể làm gương cho kẻ khác’ là chỉ rõ quả ác này để khiến cho tất cả đại chúng đều được thấy rõ mà biết rằng nhân quả chẳng dối, sanh lòng kiêng sợ.
Tiếp đó, kinh chép: ‘Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác’, đó chính là quả báo, tức là năm sự đốt vậy. ‘Sầu đau’ là lo buồn, đau đớn. ‘Khốc độc’ (tạm dịch là ‘thảm não, tàn khốc’) là nỗi đau đớn thảm thiết nhất. Chữ ‘nung đốt’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Nung đốt là dáng vẻ dữ dội của ngọn lửa địa ngục. Chữ “tự” nghĩa là do nghiệp của chính mình chiêu cảm’. Bởi thế, kinh chép là ‘tự nung đốt thân’.
Chánh kinh: Cùng với oan gia lại sát hại, tổn thương lẫn nhau. Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành cái nhân lớn lao dữ dội.
Giải: Tịnh Ảnh Sớ cho rằng cả đoạn trên này là để nói rõ ý nghĩa ‘tự nung đốt thân’.
Ngài Vọng Tây cho rằng ‘lại sát hại, tổn thương lẫn nhau’ chính là ‘điều ác thiêu đốt chúng sanh, giết hại chúng sanh’. Trong trận lửa địa ngục, kẻ ác vì đau đớn quá mức nên nổi sân, đâm ra tàn sát, đả thương lẫn nhau. Ðó chính là trong khi bị thiêu đốt lại gây thêm tội ác, kết thành oán cừu nên bảo là ‘oan gia’. Cứ đòi nợ lẫn nhau, Giáp giết Ất, Ất lại giết Giáp nên bảo là ‘giết hại, tổn thương lẫn nhau’.
Từ bé xé ra to, càng lúc càng phiền toái, càng khốc liệt, chẳng lúc nào hết nên bảo là: ‘Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành cái nhân lớn lao dữ dội’. ‘Dữ dội’ là quá mức, kịch liệt, là nhiều, là tăng thêm. Làm ác chẳng thôi nên khổ càng tăng thêm chẳng ngừng, trở thành cái nhân lớn lao, khiến cái họa càng thêm sâu nên bảo là ‘trở thành cái nhân lớn lao dữ dội’. Bản Ngụy dịch chép là: ‘Lâu ngày thành lớn lao quá mức’. Tịnh Ảnh Sớ giảng:
‘Thân chịu lao khổ, khổ tăng thêm chẳng ngớt nên gọi là lâu ngày thành lớn lao quá mức’.
Chánh kinh: Ðều do tham đắm tài sắc, chẳng chịu bố thí. Ai nấy chỉ muốn tự khoái, chẳng còn biết đến cong vạy hay ngay thẳng. Bị si dục bức bách nên hậu đãi mình, tranh lợi, phú quý, vinh hoa; cốt khoái ý ngay trong lúc ấy, chẳng nhẫn nhục nổi, chẳng chăm tu thiện. Oai thế chẳng lâu đã bị mòn diệt. Ðạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rõ. Bơ vơ, bồn chồn, sẽ vào trong đó. Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!
Giải: Ðoạn kinh này nói về cái nhân ác là ba độc rồi lại răn dạy.
‘Ðều do tham đắm tài sắc’: Cầu được nhiều chẳng chán là ‘tham’, tâm tham kiên cố là ‘đắm’. Kinh Bảo Tích dạy: ‘Tà niệm sanh ra tham đắm, tham đắm sanh ra phiền não’. Trong chữ ‘tài sắc’ thì tài chỉ tiền tài, của cải; sắc là sắc tình, tức là tình ái nam nữ. Gia Tường Sớ giảng: ‘Hoặc là tham tài hay tham xác thịt’. Sách còn viết: ‘Từ câu “đều do tham đắm” trở đi nói đến tội lỗi của ba ác. Tham đắm vinh hoa, tham đắm cái vui hiện tại nên tạo ác’.
‘Chẳng chịu bố thí’ là chẳng chịu đem tài vật ban bố cho người. Sách Hội Sớ viết: ‘Tham dục tuy nhiều nhưng tài sắc là lớn nhất nên kinh đặc biệt nêu lên. Chẳng thể bố thí là tướng trạng của lòng keo kiệt’.
‘Ai nấy chỉ biết tự khoái, chẳng còn biết đến cong vạy hay ngay thẳng’ là chỉ cầu tự lợi để thỏa mãn tấm lòng, chẳng cần biết đến đúng sai, cong vạy hay chất trực. ‘
‘Bị si dục bức bách’: cội gốc của cái tâm tham dục chính là si nên bảo là ‘si dục’. Kinh Di Giáo chép: ‘Nếu có trí huệ thì chẳng tham đắm’. Vì thế, trong đoạn kinh này chỉ nói đến hai cái ác si và tham, còn sân thì đã được đề cập trong đoạn kinh ở phần trên rồi.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘bức bách’ như sau: ‘Ái dục bức bách, thường nghĩ tưởng dục cảnh’. Bởi đó mà tổn hại người khác để mình được lợi, chỉ ham ‘phú quý vinh hoa’, chỉ cầu khoái ý trong phút chốc, chẳng mong nhẫn nhục tu thiện, tích lũy phước báo cho mai sau. Nhưng oai thế nào còn mãi, phút chốc diệt mất.
‘Thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử’ (tạm dịch: ‘Ðạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rõ’): Thi là giương ra, ‘củ’ là chánh, là xem xét, là nêu ra cái sai. Cái lý tự nhiên, cái đạo pháp nhĩ (6) thì gọi là ‘thiên đạo’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Ðạo lý trong thiên hạ tự nhiên lập bày vì thế gọi là “thiên đạo thi trương”. Hễ tạo ác tất bày rõ ra nên gọi là “tự củ cử”. Sách Hội Sớ nói: ‘Nói “thiên đạo” là nói đến nhân quả báo ứng’. Sách còn viết: ‘Sự đã phát sanh thì theo đúng pháp mà cắt đứt. Sự chưa phát hiện thì quan sát kỹ, thì gọi là “củ cử”. Cử là chỉ bày’.
‘Bơ vơ’ là không nơi nương dựa. ‘Bồn chồn’ là tâm hoảng sợ chẳng yên, kinh hoàng, hoảng hốt. Sách Hội Sớ giảng câu ‘sẽ vào trong ấy’ như sau: “Bơ vơ” là tình cảnh đơn độc, một mình sống, mình mình chết. “Bồn chồn” là tâm động, kinh hoàng xen lẫn không xen hở. “Trong ấy” là trong năm đường”. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Kẻ có tội sẽ phải đi về đó, không người bầu bạn nên bảo là bơ vơ, bồn chồn đi vào trong ấy’. Tiếp đó kinh nói: ‘Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!’, ý nói: do tam độc tạo ra nhân ác thì nhất định phải chịu lấy ác quả đớn đau, thiêu đốt.
Trên đây Phật răn điều ác, tiếp đó, Phật khuyên làm lành.
Chánh kinh: Các ông được nghe lời kinh Phật thì phải suy nghĩ chín chắn, ai nấy tự nên giữ vững, trọn đời chẳng lười: tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái. Nên mong cứu đời, nhổ dứt cội rễ sanh tử và các ác thì sẽ lìa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ.
Các ông làm lành như thế nào thì sẽ là bậc nhất? Nên tự đoan chánh cái tâm, nên tự đoan chánh cái thân. Tai, mắt, miệng, mũi đều tự đoan chánh. Thân, tâm khiết tịnh tương ưng với cái thiện. Chớ chạy theo dục vọng, chẳng phạm các ác. Ngôn từ, vẻ mặt nên hòa nhã, thân hạnh nên chuyên; cử động, ngó nhìn an định, thong thả. Làm việc bộp chộp để bị thua thiệt rồi sau hối hận. Làm việc chẳng thận trọng sẽ uổng mất công phu.
Giải: Trong đoạn này, đức Như Lai khuyên tất cả những người nghe kinh nên chuyên ròng, siêng năng tu thiện.
Chữ ‘lời kinh Phật’ chỉ chung hết thảy pháp môn bỏ ác làm lành, bỏ trần cảnh hướng đến giác ngộ. Chữ này còn dùng để chỉ riêng ba kinh Tịnh Ðộ giảng về Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của Phật Di Ðà. Kinh bậc nhất trong ba kinh đó chính là kinh này. ‘Suy nghĩ chín chắn’ tức là nghe xong phải suy nghĩ. ‘Giữ vững, chẳng lười’ là từ tư duy khởi lên tu hành.
‘Giữ vững’ là giữ đúng, phụng hành theo đúng lời dạy. Ngài Cảnh Hưng lại bảo: ‘Giữ vững là dẹp tà, giữ chánh’. Trọn hết đời này giữ đúng theo lời Phật dạy, chẳng hề biếng nhác nên bảo là ‘trọn đời chẳng lười’.
Ðối với câu ‘tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái’, ngài Cảnh Hưng giảng: ‘Chữ “thánh” chỉ chung cả Phật lẫn Tăng. Thiện pháp dù là pháp thế gian hay xuất thế gian cũng đều là của báu vô thượng nên phải kính trọng. Ở đây, “thiện” là Tam Bảo. Nhân ái, từ bi cứu giúp tất cả mọi người nên bảo là “nhân từ, bác ái”, nghĩa là: bác ái giúp đỡ chúng sanh’.
‘Nên mong cứu đời’ là tự độ, độ người, tự giác, giác tha, làm cho khắp hết thảy chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi hư vọng sanh tử.
‘Nhổ dứt cội gốc sanh tử và các ác’ là siêng tu Giới, Ðịnh, Huệ; dứt bặt tham, sân, si. Cội rễ của sự luân hồi sáu đường chính là tham dục. Biển khổ sanh tử chỉ nhờ trí mới vượt nổi. Dùng gươm trí huệ chặt đứt các phiền não: tham dục, vô minh v.v… chính là ‘nhổ dứt cội rễ sanh tử’. Có như vậy mới vĩnh viễn lìa khỏi cái khổ tam đồ. Hễ ác đã tận thì sự thiêu đốt, sự đau khổ cũng hết. Vì thế, kinh nói: ‘Thì sẽ lìa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ’.
Tiếp đó, Phật khuyên nên đoan chánh thân tâm cho tương ứng với điều thiện. Thế Tôn chỉ thẳng cách làm lành bậc nhất.
‘Làm lành’ có thể hiểu thô thiển là làm việc lành, chứ xét theo Thật Ðế thì chính là ‘tâm này làm Phật’.
Nếu hiểu một cách thô thiển, câu‘đoan chánh thân, tâm, tai, mắt, miệng, mũi’ nghĩa là thân tâm đoan chánh như là ‘điều phi lễ chẳng phi nhìn, việc phi lễ chẳng nghe’.
Phân tích ở mức độ sâu hơn thì ‘tai đều tự đoan chánh’ chính là pháp Nhĩ Căn Viên Thông “xoay trở lại nghe nơi tự tánh” của Quán Âm đại sĩ. Ðại Sĩ chẳng đuổi theo thanh trần mà xoay lại nghe nơi tự tánh; ấy chính là ‘đoan chánh nhĩ căn’. Cứ thế suy rộng ra thì chẳng rong ruổi theo sắc trần, quay trở lại quan sát tự tánh chính là ‘đoan chánh con mắt’. Cứ như thế, cả sáu căn chẳng rong ruổi theo sáu trần, chiếu rạng nguồn tâm thì mới gọi là ‘đoan chánh’, thì mới là bậc nhất.
Tiếp đó, câu kinh: ‘Thân tâm khiết tịnh tương ưng với cái thiện’ cũng có hai nghĩa sâu cạn. Hiểu cạn cợt thì thân tâm ly cấu vô nhiễm, việc làm nơi thân, lời lẽ nơi miệng, sự suy nghĩ nơi ý đều lành cả. Hiểu sâu hơn thì Thỉ Giác Trí khế hợp khéo léo với Bổn Giác Lý mới là ‘tương ưng với cái thiện’. Nhưng ta phải biết một cách đúng đắn rằng: xét đến rốt ráo điều thiện bậc nhất này chẳng ngoài ‘chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành’.
Trong Tịnh tông, điều thiện bậc nhất chính là pháp môn Niệm Phật của Ðại Thế Chí Pháp Vương Tử: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối’. Một tiếng Phật hiệu nhiếp trọn sáu căn nên sáu căn đều đoan chánh như Linh Phong đại sư từng bảo: ‘Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành tâm Phật’. Tâm đã là Phật thì tự nhiên sáu căn đều là Phật. Bởi thế mới bảo là: ‘Tai, mắt, mũi, miệng thảy đều tự đoan chánh’. Tự đoan chánh là do một tiếng Phật hiệu khiến cả sáu căn đều tự nhiên đoan chánh, tự nhiên ‘thân tâm khiết tịnh, tương ưng với điều thiện’. Ðiều thiện ở đây chính là ‘tâm này là Phật’.
Cuối phẩm này, Phật lại khuyên răn nên bỏ lòng dục, dứt điều ác, an hòa, chuyên tinh, thành thật. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương quyển 7 giảng chữ ‘dục’ như sau: ‘Nhiễm ái trần cảnh thì gọi là dục’. ‘Trần’ là năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm trần này có khả năng phát khởi lòng tham dục của con người nên được gọi là ‘ngũ dục’. Trí Ðộ Luận viết: ‘Ngũ dục còn gọi là ngũ tiễn (năm mũi tên) vì chúng phá hoại các thiện sự’. Vì thế, đức Thế Tôn khuyên răn chúng sanh ‘chớ ham cầu dục vọng’.
Vả nữa, trong các món dục, dâm dục là độc hại nhất nên Phật buộc người xuất gia chú trọng đoạn dâm. Nếu có thể ly dục thì ‘chẳng phạm các điều ác’. Ðây chính là lời khuyên tha thiết ‘đừng làm các điều ác’.
Ngôn ngữ hòa nhã chính là Ái Ngữ trong Tứ Nhiếp Pháp; vẻ mặt hòa nhã chính là dùng từ quang chiếu soi người khác.
‘Thân hạnh’ là những việc do tự thân làm. ‘Chuyên’ là chuyên nhất, chuyên chú, chuyên ròng tinh tấn. ‘Nên chuyên’ là nên chuyên ròng tinh tấn hành đạo. Nếu nói theo kinh này thì ‘nên chuyên’ chính là nên một bề chuyên niệm.
‘Cử động’ tức là hành động. ‘Thong thả’ là từ từ, hòa hoãn. Vì thế, câu ‘cử động, ngó nhìn an định, thong thả’ nghĩa là nhất cử nhất động đều phải an tường, điềm tĩnh, thung dung, chẳng hấp tấp. Làm việc bộp chộp ắt sẽ bị thảm bại khiến phải hối hận về sau. Chẳng thận trọng, dè dặt trong việc làm thì bị ‘uổng mất công phu’. ‘Uổng’ là đánh mất, phí công. Chữ ‘công phu’ chỉ công phu tu trì.