33. Khuyến dụ sách tấn
Phẩm trên đã chỉ rõ những điểm thù thắng siêu tuyệt, tịnh định, an lạc của cõi Cực Lạc nhằm làm cho chúng sanh ưa thích, hâm mộ, phát nguyện cầu sanh; phẩm này nói lên những điều tệ ác cõi Sa Bà:
- Chúng sanh chướng nặng, ba độc lừng lẫy
- Do si hoặc nên tạo nghiệp, khổ báo vô tận, chìm đắm trong biển khổ, đau đớn không cách gì diễn tả nổi.
Vì thế, Phật thương xót khuyên bảo nên chán lìa. Phật dạy răn, khuyên lơn chúng sanh nên dứt ác làm lành, tinh tấn hành đạo, cầu sanh An Lạc.
Chánh kinh: Người đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần gấp. Ở ngay trong chốn kịch ác cực khổ, vất vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân. Sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái lo toan chồng chất, bị cái tâm sai khiến. Không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà. Có hay không có tài vật quyến thuộc đều lo cả. Có một phần lại thấy thiếu một phần, lo muốn cho bằng được người. Vừa được chút ít lại lo vô thường, nước, lửa, đạo tặc, oan gia, chủ nợ đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu tan mòn diệt. Tâm keo, ý chắc, chẳng buông bỏ nổi. Mất mạng là mất hết, đem theo được thứ gì? Giàu nghèo đều vậy, lo lắng, ưu khổ muôn bề!
Giải: Trong đoạn kinh này, trước hết đức Phật chỉ rõ: toàn bộ chúng sanh cõi này đều bị phiền não, khuyên lơn chúng sanh nên nhàm lìa.
‘Người đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần gấp’: người đời cùng tranh cạnh nhau những chuyện thế tục không quan trọng, khẩn yếu, chẳng trọng đại sự cấp bách nơi bản thân, chẳng biết vô thường nhanh chóng, sanh tử là việc lớn; chỉ tham danh lợi nên sầu khổ muôn bề, chẳng biết lúc nào thoát khỏi.
Sách Hội Sớ nói: ‘Phàm vật thì có gốc, ngọn; việc có gấp, hoãn. Chỉ nên coi một đại sự là nhiệm vụ cấp bách trước hết. Ví như người vào trong tòa thành lớn, trước tiên phải kiếm chỗ ở yên, rồi sau mới ra tay làm lụng. Ðến khi chiều tà tăm tối, còn có chỗ nghỉ đêm. “Trước hết kiếm chỗ ở yên” chính là tu Tịnh Ðộ; “đến khi chiều tà tăm tối” chính là đại hạn xảy đến (chết). “Có chỗ nghỉ đêm” là sanh trong hoa sen, chẳng lạc vào nẻo ác. Vậy mà người ta cứ lơ là đối với việc gấp như lửa cháy, hối hả lo liệu việc chẳng gấp rút gì. Khi mạng người sắp hết, dẫu hối ích gì?’
‘Kịch ác cực khổ’: “kịch” là rất, hết mức. Phẩm Trược Thế Ác Khổ có câu: ‘Chỉ có mỗi thế gian có năm sự ác này là khổ sở nhất’ và: ‘Năm sự ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt cháy như thế ví như lửa lớn thiêu đốt thân người’. Ác là nhân, khổ là quả. Giết chóc, trộm cắp, nói dối, uống rượu là những điều rất ác. Hễ tạo ác ắt phải chịu quả ác nên những điều ấy được gọi là ‘năm thứ đau đớn, năm thứ đốt cháy’ như lửa đốt thân nên bảo là ‘cực khổ’ (khổ sở cùng cực).
Sách Hội Sớ còn nói: ‘Hừng hực nung người đời như đống lửa nên bảo là “kịch ác cực khổ”.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vất vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân’ (nguyên văn: ‘cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế’) như sau:
‘Doanh là lo toan, đổ sức vào việc gì gọi là “vụ”. Thân siêng năng, vất vả làm những điều ấy gọi là ‘cần thân’. ‘Cấp’ là làm cho đủ; khiến cho đồ vật được đầy đủ, dư dả là ‘cấp’. ‘Cấp’ còn có nghĩa là cung cấp. ‘Tế’ là qua’.
Do đó, câu ‘cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế’ có nghĩa là: nhọc nhằn, vất vả cái thân, toan tính, làm lụng để mình được đầy đủ, no ấm cho qua khỏi cái kiếp này.
Câu ‘sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái’ chỉ hết thảy các loại người trong đời. Người có địa vị cao quý trong đời là ‘sang’, địa vị thấp là ‘hèn’. Lắm của là ‘giàu’, ít của là ‘nghèo’. Lớn tuổi là ‘già’, nhỏ tuổi là ‘trẻ’. Trai, trai, gái, gái bao hạng sai khác nhưng chẳng ai lại không cùng ôm tấm lòng ngu si, tham dục, lao tâm khổ tứ, lo nghĩ chất chồng, bôn ba, nhọc nhằn chẳng lúc nào yên. Bởi thế Phật mới bảo: ‘Lo toan chồng chất, bị cái tâm sai khiến’.
Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Lo mãi chuyện đã qua, lo hoài chuyện chưa tới nên bảo là “lo toan chồng chất”. Thường bị dục tâm lôi kéo khiến chộn rộn, bôn ba nên bảo là “bị cái tâm sai khiến”. Vì thế, tâm niệm ấy chẳng lúc nào an vì hễ tâm có điều mong muốn thì thân phải nhọc nhằn theo. Ví dụ như: lòng muốn sắm sửa vật mình yêu thích thì nào ngại bưng bê, khuân vác bề bộn, bôn ba sửa soạn; cho nên kinh mới nói là: ‘Bị cái tâm sai khiến’; chỉ vì tâm ham muốn mà phải bôn tẩu.
Ngài Gia Tường dùng câu ‘tâm chất chứa tài sản chẳng buông bỏ’ để giảng câu ‘lo toan chồng chất’, dùng câu ‘siêng cầu chẳng ngơi’ để giảng câu ‘bị cái tâm sai khiến’. Ý ngài nói: Những điều canh cánh trong tâm niệm chỉ toàn là tài vật, cho nên ‘lo toan chồng chất’. Chăm chăm mong cho có nên thân tâm chẳng an, đấy gọi là ‘bị cái tâm sai khiến’.
Ngài Cảnh Hưng lại giảng: ‘Bị tâm sai khiến là như con dê khát nước chạy đuổi theo bóng nắng gợn, kẻ mắt kéo màng thấy hoa đốm lăng xăng trên không, đều do cái tâm thấm đẫm nước ái, chẳng rõ hoa đốm là bệnh nên cứ đuổi quàng theo’. Bóng nắng gợn (dương diệm) chính huyễn ảnh xuất hiện trong sa mạc, nhìn xa tưởng là chỗ có nước. Những con nai, con ngựa bị khát, tâm thèm nước thiết tha nên cứ đuổi theo tìm uống nhưng chỉ phí công. Lại như người mắt bệnh kéo màng, ngỡ trên hư không có những đốm sáng bay lẩn vẩn toan chụp bắt, chẳng biết vốn chẳng có hoa đốm, nên mới bảo là ‘bị cái tâm sai khiến’.
Cả một đoạn dài từ câu ‘có ruộng lo ruộng’ cho đến ‘ưu khổ muôn bề’ là để giảng rõ ý ‘lo toan chất chồng’. ‘Quyến thuộc’ là người trong nhà, thân thuộc, tôi tớ v.v… ‘Tài vật’ là gia tài, sản nghiệp, các vật dụng để sinh sống. Những thứ nói trên đều là những điều khiến ta phải lo lắng. Chưa có thì muốn, lo sao cho có; nhưng có rồi lại sợ mất đi, nên lại lo hơn nữa. Bể dục khó lấp bằng, lo được, lo mất nên mới nói: ‘Có hay không có đều lo cả!’.
‘Có một phần lại thấy thiếu một, lo muốn cho bằng được người’: Ví như kẻ đã có được tài khoản một vạn đồng, thấy người khác có đến hai vạn, liền nghĩ cách sao cho có được một vạn nữa. Ðã có một cái ti vi, thấy người ta có hai cái liền muốn mình có thêm cái nữa cho bằng người ta. Muốn mà chưa được thì lại sanh lo buồn. Thỏa nguyện rồi cũng chẳng hết lo nghĩ; bởi ham muốn không cùng nên vĩnh viễn lo lắng không dứt.
Vừa mới có được một chút lại toan khư khư giữ lấy, sợ gặp tai biến, lo mất mát đi, nên kinh mới nói: ‘Vừa được chút ít lại lo vô thường’.
‘Vô thường’ chính là những tai họa bất thường được kinh nêu tiếp ngay sau câu trên (tức là câu ‘vừa được chút ít lại lo vô thường’) như: nước trôi, lửa cháy, đạo tặc cướp đoạt… ‘Nước, lửa’ là thủy tai, hỏa tai, ‘đạo tặc’ là cái họa cướp đoạt, trộm cắp. ‘Oan gia’ là những kẻ kết oán với mình. ‘Chủ nợ’ là những người mình thiếu nợ chưa trả.
Các điều như trên đều là những tai họa thình lình phát sanh, như lửa có thể đốt cháy rụi, nước cuốn trôi mất, kẻ cướp cướp đoạt, kẻ trộm cuỗm mất, oan gia báo cừu, chủ nợ xiết nợ. Thậm chí trong khoảnh khắc chẳng còn một thứ gì là của mình nữa. Cái giàu sang ngày trước đột nhiên chẳng còn sót lại chút gì nên bảo là ‘đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu tan, mòn diệt’. Sách Hội Sớ nói: ‘Ðốt là đốt cháy, là các nạn như chiến tranh tàn phá, hỏa tai bất ngờ… Trôi là cuốn trôi, là các nạn như nước lũ, sóng gió… Cướp đoạt là nạn đạo tặc. Bị oan gia làm cho tiêu tan, bị chủ nợ làm cho mòn diệt’.
Người đời ‘tâm keo, ý chắc’ nghĩa là người đời tấm lòng keo kiệt đến mức ngoan cố. Tài vật mà bị mất thì trong lòng càng thêm phẫn hận, lo buồn, oán hận, sầu khổ, không rảnh trí nổi nên kinh mới nói: ‘Chẳng buông bỏ nổi’.
Bốn câu từ ‘mất mạng là mất hết’ trở đi phiếm chỉ hết thảy người đời. Lúc lâm chung, hết thảy tài vật quyến thuộc yêu dấu, tiếc nuối đều phải buông bỏ hết; một mình mình đến, một mình mình đi, không ai bầu bạn. Dẫu người mình thương yêu nhất cam chịu chết cùng lúc với mình thì cũng chẳng thể đến cùng một chỗ! Nghiệp nhân bất đồng, quả báo sai khác ngàn lần nên mỗi người sẽ sanh về một chỗ khác nhau. Bởi thế kinh dạy: ‘Ðem theo được thứ gì?’
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có dạy: ‘Người ấy lúc lâm chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại, hết thảy thân thuộc đều lìa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều tan mất. Phụ tướng, đại thần, cung thành trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng của báu, hết thảy những thứ như vậy chẳng có thứ nào theo mình’. Ðoạn kinh ấy có cùng ý nghĩa với đoạn kinh ở đây.
Thường nghe: ‘Mọi thứ đều bỏ hết, chỉ còn nghiệp theo thân’; bất luận giàu nghèo, không ai là chẳng giống vậy, ai nấy ưu khổ vô tận nên kinh mới nói là: ‘Ưu khổ muôn bề!’
Chánh kinh: Nhân dân trong thế gian: cha con, anh em, vợ chồng, thân thuộc phải nên kính ái nhau, chẳng nên ganh ghét nhau. Kẻ có chia xẻ cho người không chẳng nên tham tiếc. Lời lẽ, vẻ mặt thường hòa hoãn, chớ nên chống trái nhau. Nếu có lúc tâm tranh chấp nhau, sanh ra giận dữ thì đời sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành mối oán hận lớn. Sự trong thế gian càng thêm tai hại tuy chẳng thấy ngay lập tức. Phải gấp nghĩ cách phá đi!
Giải: Ðoạn kinh này khuyên dạy người đời đối với thân thuộc phải nên hòa kính, vì nếu chẳng hòa kính sẽ trở thành oán thù.
‘Kính ái’ là cung kính và từ ái, ‘ganh ghét’ là ghét bỏ và ganh tị. Sách Hội Sớ nói: ‘Giọng vui vẻ chẳng nóng giận, lời lẽ chẳng chống trái, gay gắt, ôn hòa, khiêm cung. Mặt chẳng cau có thì gọi là thường hòa hoãn’. Như vậy, ‘vẻ mặt, lời nói thường hòa hoãn’ chính là như ở phần trên kinh đã dạy ‘hòa nhan ái ngữ’ vậy.
Trên đây, Phật đã khuyên thường hòa hoãn, tiếp theo, Phật dạy nếu bất hòa sẽ kết thành đại oán. Chữ ‘tranh’ trong câu ‘nếu có lúc tâm tranh chấp nhau’ nghĩa là kèn cựa. Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng ‘tranh’ là ‘kiện tụng’.
Sách Hội Sớ bảo: ‘Thói đời lúc bình thường vốn chẳng phẫn hận, chợt gặp cảnh trái nghịch nên bất thình lình tranh chấp nhau nên mới bảo là ‘nếu có lúc’. Có lúc chợt khởi lên cái tâm đấu đá, kiện cáo, tranh chấp nhau nên mới nói là ‘nếu có lúc tâm tranh chấp’.
‘Giận dữ’ (sân khuể) là nóng nảy, phẫn nộ. Giận dữ là một trong tam độc. Một khi tâm sân lên thì tạo thành mối hận nhỏ, oan oan tương báo không lúc nào thôi. Kẻ oán ghét thường chạm mặt nhau, sát hại lẫn nhau, càng lúc thêm dữ dội nên kinh mới bảo: ‘Ðời sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành mối oán hận lớn’ (như vua Lưu Ly vì muốn báo thù cái oán đời trước mà giết hại cả dòng họ Thích).
‘Sự trong thế gian càng thêm tai hại’ là những sự báo oán trong thế gian tạo thành họa hại. Ðã tạo nghiệp nhân, ắt kết thành ác quả. Vì sự báo ứng chẳng lập tức hiển hiện ngay trong hiện tại nên kinh mới nói ‘tuy chẳng thấy ngay lập tức’, nhưng nhân quả chẳng hư, quyết sẽ báo ứng trong đời sau nên kinh mới nói: ‘Phải gấp nghĩ cách phá đi’. Chúng sanh sợ quả, Bồ Tát sợ nhân là vậy!
Chánh kinh: Trong ái dục, con người sanh một mình, chết một mình. Mình mình đến, mình mình đi, khổ vui tự chịu lấy, chẳng ai thế cho. Thiện, ác biến hóa theo đuổi đến từng kiếp sống. Ðường lối bất đồng, không dịp gặp gỡ. Sao chẳng ngay trong lúc còn khỏe mạnh, nỗ lực tu thiện, còn muốn đợi đến khi nào?
Giải: Ðoạn này, Phật khuyến dụ người đời bỏ ác tu thiện.
‘Ái dục’ là tình ái và tham dục; ái dục chính là cội gốc sanh tử. Ái chẳng nặng chẳng đọa Sa Bà. Toàn thể thế nhân chìm đắm trong ái dục cho nên chết đây sanh kia, lưu chuyển vô cùng. Dẫu cho quyến thuộc đầy nhà nhưng lúc sanh tử: sanh thì trơ một thân đi đến, chết thời riêng một mình mình ra đi, chẳng có ai theo, không ai thay được. Vì thế, kinh nói: ‘Sanh một mình, chết một mình; mình mình đến, mình mình đi’.
Câu ‘khổ vui tự chịu lấy, chẳng ai thế cho’ ý nói: quả báo sướng hay khổ đều do tự mình tạo, tự mình hưởng, cũng không ai khác thay thế được. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Tự chịu lấy tức là tự mình nhận lấy’.
Câu ‘thiện ác biến hóa’ được ngài Cảnh Hưng giảng như sau: ‘Thiện biến hóa chính là quả báo trong đường lành. Ác biến hóa là quả báo trong đường ác’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Ðời này tuy là thiện quả, nhưng tạo nghiệp nhân ác thì đời sau sẽ chiêu cảm, biến thành tai ương. Ðời này tuy là ác quả nhưng làm lành thì đời sau sẽ hưởng phước báo. Thiên biến vạn hóa chẳng thể nói trọn’. Ðây lại là một cách giải thích khác của chữ ‘biến hóa’. Ngài Gia Tường lại giảng: ‘Nhân ác chịu khổ, nhân lành hưởng vui. Quả báo nhanh chóng’.
‘Theo đuổi đến từng kiếp sống’ nghĩa là sanh về đâu quả báo cũng đuổi theo ngay đó, chẳng hề bỏ rời. Tùy theo nghiệp nhân mà cảm được quả báo thiện hay là ác.
Gia Tường Sớ giảng câu ‘đường lối bất đồng’ như sau: ‘Làm lành thì quả báo chốn thiên đường chờ sẵn. Làm ác thì núi đao rừng kiếm đón chờ’. Nhân quả mỗi người sai khác nên sẽ sanh về những nơi khác xa nhau. Bởi vậy, lúc lâm chung chia tay nhau trọn thành vĩnh biệt. Một phen chịu báo trong tam đồ là cả năm ngàn kiếp, trôi lăn trong sáu nẻo, biết ngày nào gặp lại nhau. Dẫu có trùng phùng cũng chẳng hề nhận biết nổi nhau nên mới nói: ‘Không dịp gặp gỡ’.
Bởi đấy, đức Thế Tôn xót thương cảnh tỉnh khuyên lơn người đời sao chẳng ngay lúc mạnh khoẻ ‘nỗ lực tu thiện’ chứ còn đợi đến khi nào nữa? Người già thể xác suy yếu, khó bề siêng tu như kinh Niết Bàn đã bảo: ‘Này Ca Diếp! Ví như cây mía đã bị ép rồi, bã mía chẳng còn vị gì. Tuổi trẻ sắc đẹp cũng giống như thế, khi bị tuổi già ép thì chẳng còn có ba thứ vị: một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền’. Tuổi già mất cả ba thứ vị như vậy nên phải gấp rút nỗ lực, chớ nên chần chừ.
Chánh kinh: Người đời chẳng thể tự thấy thiện ác, cát, hung, họa, phước, tranh nhau mà làm. Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm, đâm ra tin nhận các giáo lý khác, điên đảo tiếp nối. [Do] căn bổn vô thường [nên] mù mịt, tối tăm, càn rỡ, chẳng tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa. Ai nấy chỉ muốn khoái ý, mê man nóng giận, tham lam tài sắc, trọn chẳng ngừng nghỉ.
Ôi! Ðáng thương thay! Người đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức; [cha ông] không bàn đến [thì con cháu chẳng biết gì] thật chẳng có gì là lạ! Nẻo sanh tử, đường thiện ác đều chẳng tin tưởng, nói là đời nào có! Hãy quan sát xem để tự thấy biết lấy: nào cha khóc con, hoặc con khóc cha. Anh, em, chồng, vợ khóc thương lẫn nhau.
Giải: Cả phẩm kinh này chỉ rõ chúng sanh trong uế độ này ba độc lẫy lừng, tạo ác đáng sợ. Ðoạn đầu tiên nói về tham độc ‘giàu nghèo đều vậy, ưu khổ muôn bề’; đoạn kế đó nói về sân độc ‘đến nỗi thành mối oán hận lớn’. Ðoạn này giảng về si độc: ‘Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm’, ‘chẳng tin kinh pháp’, ‘đường thiện ác đều chẳng tin tưởng’.
Cái họa si độc làm thương tổn huệ mạng của con người. Si độc chính là cái gốc của cả ba độc, vì thế nó gây hại rất sâu.
Ðoạn kinh này ý nói: Người đời ngu si, chẳng biết thế nào là thiện, thế nào là ác, cứ theo ý mình càng phân biệt sai quấy thêm; chẳng thể tin nổi quy luật thường hằng nhân quả thiện ác trong ba đời nên kinh nói: ‘Người đời chẳng thể tự thấy thiện ác’. Ðã chẳng biết nhân lại chẳng sợ quả, chỉ cốt khoái ý chốc lát, chẳng sợ hậu hoạn vô cùng. Phóng túng càn rỡ, mặc sức làm ác, đua nhau gây nhân ác, chẳng đoái hoài hung họa tương lai nên kinh mới bảo: ‘Cát, hung, họa phước tranh nhau mà làm’.
Ngài Gia Tường lại giảng: ‘Người đời cho rằng: lúc chết, vì cúng tế mà sát sanh là hung, những dịp như cưới gả v.v… là cát. Ðối với hai việc này, người đời đua nhau mà làm’. Ý nói: Cát, hung là nhân; họa phước là quả. Sát sanh để cúng tế là hung, sát nghiệp cảm lấy quả báo trong tam đồ nên là họa. Người đời cho rằng cưới gả là cát, nhưng chẳng biết do vui mừng mà sát sanh thì lại trở thành hung sự, chiêu cảm cái họa vô cùng trong tương lai. Ấy là vì thế nhân chẳng hiểu dù thiện hay ác đều chiêu cảm quả báo.
Sách Gia Tường Sớ giảng câu ‘thân ngu dốt, tinh thần tối tăm’ như sau: ‘Do thân tạo ác nên bảo là thân ngu dốt, tâm chẳng tin nên bảo là tinh thần tối tăm’. Còn Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm là tâm ý bế tắc, chẳng thể tự thấy nổi chuyện thiện ác sanh tử’. Như vậy, ngu dốt, tối tăm chính là si độc.
Do ngu si nên tâm ý bế tắc chẳng thể chánh tín nhân quả, chẳng tin nhận nổi kinh pháp hòng nhập chánh đạo. Ngược lại, càng dễ đâm ra tin thờ các tà thuyết ngoại đạo. Bởi thế, kinh nói: ‘Ðâm ra tin nhận các giáo lý khác’. Thấy biết điên đảo như thế liên tục chẳng dứt, chìm đắm mãi mãi trong sanh tử; nhưng nguồn gốc của những tà kiến ấy lại chính là si nghiệp. Sanh tử vô thường là do si làm cội gốc. Kinh gọi đó là: ‘Căn bổn vô thường’.
‘Mông minh để đột’ (tạm dịch: Mù mịt, tối tăm, càn rỡ): ‘Mông’ là dẫu có tròng mắt mà chẳng thấy gì. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Mù mịt lại càng thêm mù mịt. Mù mịt là vì bị che lấp nên chẳng sáng suốt. Tối tăm là do ám muội chẳng hiểu biết’. ‘Ðể’ là như con thú dùng sừng húc các vật, ‘đột’ là xông thẳng vào.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu ‘mông minh để đột’ như sau: ‘[Câu này] ý nói chẳng hiểu biết gì, đụng việc là làm càn như đứa trẻ đi đêm, như chó dại chạy quàng, không điều gì không làm’. Do ngu muội, tăm tối nên chẳng hiểu nghĩa kinh; quen tánh hung hăng, thích xung đột nên chẳng tin nhận nổi kinh pháp. Do vậy, ‘tâm chẳng lo xa, chỉ cốt khoái ý’. Sách Hội Sớ viết: ‘Chẳng quan tâm đến đời sau, chỉ cầu cái vui hiện tại nên bảo là “chỉ cốt khoái ý”. Ôm lòng giận dữ, tham tài hiếu sắc chẳng lúc nào ngơi nên Phật mới than: ‘Ôi! Ðáng thương thay!’.
Câu ‘người đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức’ ngụ ý: Ðời cha ông ngu si. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trọn chẳng làm thiện” nghĩa là vô hạnh. “Chẳng biết đạo đức” là chẳng hiểu biết’. Ðã không hiểu biết lại còn vô hạnh thì thật là ngu si cùng cực. Ðời này tiếp nối đời kia, những lời cha dạy con toàn là tà thuyết, chẳng bàn đến quả báo thiện ác nên kinh mới bảo: ‘Chẳng nói gì đến’. Cha ông si độn, ngoan cố thì con cháu vô tri là chuyện tất nhiên nên kinh mới bảo: ‘Thật chẳng có gì là lạ!’.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘nẻo sanh tử, đường thiện ác’ như sau: ‘Chẳng thể tự thấy nẻo sanh tử là chẳng biết quả. Chẳng thể tự thấy đường thiện ác là chẳng hiểu nhân. Tự tâm chẳng biết cả nhân lẫn quả, lại không ai bảo cho nên trọn chẳng hiểu biết’. Bởi thế mới ‘đều chẳng tin nổi, nói là chẳng có’.
Nếu chẳng biết việc sanh tử thì cứ tự xem đi: cha con, anh em, chồng vợ bị cái chết chia lìa, thương khóc lẫn nhau, có ai tránh khỏi đâu!
Chánh kinh: Một sống, một chết, bịn rịn, luyến tiếc nhau. Ưu khổ thắt buộc, không lúc nào tháo nổi. Nghĩ tưởng [những niềm] ân ái, yêu mến, chẳng lìa tình dục, chẳng thể suy sâu nghĩ chín, chuyên ròng hành đạo. Tuổi thọ chớp mắt là hết, biết làm sao đây!
Giải: Người đời ngu si, tham ái, chẳng biết muôn sự trong đời đều như huyễn mộng, như hoa đốm trên không, lầm tưởng thật có; nào hay vô thường vùn vụt, chẳng giữ mãi nổi. Lúc sanh càng thêm yêu mến, lúc chết bội phần xót xa. Lúc sanh tử: kẻ còn thương xót thân nhân từ nay vĩnh biệt; kẻ chết thương mình ra đi vĩnh viễn, lưu luyến nhau khó bỏ nổi, như mũi dao xoáy vào tim. Bởi thế, kinh nói: ‘Một sống, một chết, bịn rịn, luyến tiếc nhau’.
Những ân ái xưa kia nay thành ưu khổ, hai điều này trói buộc thân tâm như dây thắt chặt mối, chẳng thoát ra nổi nên kinh bảo: ‘Ưu khổ thắt buộc, chẳng lúc nào tháo ra nổi’. Mà ‘thắt buộc’ (kết phược) chính là phiền não. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương chép: ‘Phiền não, ám hoặc trói buộc hành nhân nên gọi là “kết”. Nó lại ràng buộc cái tâm nên gọi là “kết” vì nó kết tập hết thảy sanh tử’. Như vậy, vướng vít vào tình ái thì liền bị sanh tử buộc ràng, chẳng có lúc nào thoát khỏi.
‘Nghĩ tưởng [những điều] ân ái, yêu thích’: Xét tận cội nguồn, những điều người đời yêu quý thật sự là do tình dục (4) mà chẳng biết rằng ‘dục là cội khổ’, ‘thuần tình ắt đọa’. Nếu đối với những điều ấy, ta chẳng thể ‘suy sâu nghĩ chín’ để nhất tâm tu đạo hòng cầu giải thoát thì nháy mắt vô thường xộc đến, thọ mạng chấm dứt, đến lúc ấy, làm sao bươn bả, kêu van gì nổi!
Mạng người trong hơi thở nên kinh mới bảo: ‘Tuổi thọ chớp mắt là hết’ (niên thọ toàn tận). ‘Toàn tận’ là nháy mắt đã hết.
Chánh kinh: Kẻ lầm lẫn nơi đạo rất nhiều, kẻ ngộ đạo lại ít. Ai nấy ôm lòng sát hại, độc ác, ác khí mịt mù, làm chuyện sái quấy trái nghịch thiên địa, mặc tình phóng túng tạo tội cùng cực; tuổi thọ chợt bị đoạt mất, lọt xuống ác đạo chẳng có kỳ ra.
Giải: Ðoạn kinh này giảng về cái họa do từ si mê mà khởi lên sân hận.
Trong ba ác nghiệp, sân nghiệp là nhân của địa ngục. Có câu: ‘Một đốm lửa sân tâm thiêu trụi rừng công đức’. Thế nhân ít kẻ tỉnh ngộ chánh đạo, lắm kẻ mê hoặc nên lòng luôn ôm ấp ý giết hại, độc địa, tàn hại mạng người khác. Ác khí hừng hực, từ chỗ tối vào trong chỗ tối nên kinh mới nói ‘ác khí mịt mù’.
‘Mịt mù’ lại có nghĩa là tối tăm, vô tri, đêm tối. Làm cái gì cũng sai lầm nên kinh bảo ‘làm chuyện sái quấy’, bởi thế mới ‘trái nghịch thiên địa’. Ngài Gia Tường bảo: ‘Trên chẳng thuận lòng trời, dưới nghịch ý Diêm La vương’. Mặc lòng tạo ác như thế nên kinh bảo là ‘mặc tình phóng túng’. Suốt ngày tạo tội ngập trời nên bảo là ‘tạo tội cùng cực’. Bởi đó, bị tội nghiệp lôi kéo nên chẳng đợi đến khi tuổi thọ hết đã bị mất mạng ‘rớt xuống ác đạo’.
‘Ðoạt’ là cưỡng lấy, làm cho mất hẳn đi. Mạng sống đột ngột bị mất đi nên mới nói là: ‘Tuổi thọ chợt bị đoạt mất’. Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Do si khởi sân, tàn hại lẫn nhau, ai nấy ôm lòng giết chóc. Ác độc, ác khí mù mịt, làm các điều quấy’. Ngài lại bảo: ‘Kẻ tạo tội ác do sức túc nghiệp sẽ tự nhiên chiêu cảm ác duyên phi pháp, thuận theo [những ác duyên ấy] mặc sức tạo tội. Cho đến khi tội tới mức cùng cực sẽ đọa ác đạo, chịu khổ vô cực’.
Ý nói: Người đời do ngu si nên sanh tâm sân hận mà giết chóc, tàn hại lẫn nhau, mặc tình làm ác; ôm lòng độc ác, chỉ làm các điều xằng bậy. Kẻ tạo tội như thế do nghiệp lực tội ác của đời trước sẽ mặc sức làm ác. Tới khi sự ác ngập đầu, quả báo ắt sẽ hiển hiện nên đột nhiên bị chết mất đi, đọa lạc trong ba ác đạo, chịu lấy quả báo chẳng có cùng cực, không biết khi nào mới thoát nổi nên kinh nói: ‘Chẳng có lúc ra’.
Chánh kinh: Các ngươi nên suy nghĩ chín chắn, xa lìa các ác, chọn lựa điều thiện để siêng thực hành. Ái dục, vinh hoa chẳng giữ mãi được, đều sẽ biệt ly, chẳng thể vui nổi. Phải nên siêng tinh tấn sanh cõi An Lạc. Trí huệ minh đạt, công đức thù thắng. Ðừng chạy theo điều ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt hậu sau người khác.
Giải: Ðoạn cuối này là lời khuyên chung: dứt ác làm lành, cầu sanh Cực Lạc. ‘Suy nghĩ chín chắn’ là như ta thường nói: suy sâu nghĩ chín.
Toàn đoạn kinh từ chữ ‘ái dục, vinh hoa’ đến ‘chẳng thể vui nổi’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Vinh hoa chẳng giữ nổi, hội hợp rồi nhất định ly tán. Ái dục chẳng thường còn, thạnh rồi ắt có suy. Ðiên đảo lầm tưởng là vui nên [những điều ấy] chẳng đáng ưa thích’.
Ông Bành Tế Thanh bảo: ‘Hết thảy người đời coi dục là vui, chẳng biết đó là khổ. Người trí xem thấy chỉ toàn là khổ, không chút vui nào. Vì sao vậy? Cứ coi ‘có’ là vui, ‘không’ là khổ, nào hay ‘có’ chính cái nhân của ‘không’. Xem ‘được’ là vui, coi ‘mất’ là khổ, nào hay ‘được’ chính là cái nhân của ‘mất’. Coi tụ tập là vui, tan lìa là khổ, nào hay tụ tập là cái nhân của tan lìa. Coi sanh là vui, coi diệt là khổ, nào hay sanh chính là cái nhân của diệt’.
Ý nói: Những điều chúng sanh tưởng là vui thật ra chính là cái nhân tạo khổ. Từ cái nhân tạo khổ ấy ắt phải sanh ra quả khổ nên bảo là ‘chẳng thể vui nổi’.
Tiếp đó, Phật khuyên nên tinh tấn cầu sanh Cực Lạc. Ðược sanh về cõi ấy rồi thì ai nấy ắt đều ‘trí huệ minh đạt, công đức thù thắng’. ‘Minh’ là hiểu rành rẽ, ‘đạt’ là thông đạt. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trí huệ minh đạt là đạt được trí huệ thù thắng. Công đức thù thắng là được phước thù thắng’. Trí lẫn phước đều thù thắng nên Phật khuyên người đời siêng năng cầu vãng sanh.
Ngài còn răn dạy: ‘Ðừng chạy theo điều ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt hậu sau người khác’. Kinh là kinh giáo, Giới là giới hạnh. Ở đây, Phật đặc biệt khuyên ta nên trì giới bởi giới là nền tảng của muôn hạnh.
‘Ðừng chạy theo cái tâm’ là như kinh Niết Bàn dạy: ‘Làm thầy của cái tâm chớ để cái tâm làm thầy mình’, nghĩa là: Nếu để cho cái tâm sai khiến được mình thì hành nhân mắc sai lầm lớn. Ấy là vì cái vọng tâm này chính là cội rễ sanh tử, tuân theo cái vọng tâm này thì khác nào nhận giặc làm con, toan nấu cát thành cơm, làm sao ăn nổi? Lẽ đâu rong ruổi theo tâm tánh làm điều càn quấy hay sao? Câu kinh sau đây trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: ‘Cẩn thận đừng tin tâm ý của ngươi, tâm ý ngươi không thể tin nổi!’có cùng một ý nghĩa với câu kinh ở đây. ‘Tụt hậu lại sau người khác’ là thua người khác vậy.