Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

23. Mười phương Phật ngợi khen

 Phẩm này gồm ba ý chính:

* Mười phương chư Phật khen ngợi.

* Thâm ý những lời khen của chư Phật.

* Công đức chẳng thể nghĩ bàn của nhất niệm tịnh tín.

 Chánh kinh: Lại này A Nan! Hằng hà sa số thế giới ở phương Ðông, trong mỗi một thế giới, [các vị] Phật như hằng hà sa, mỗi vị đều hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang nói lời thành thực khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật trong hằng sa thế giới nơi phương Nam, Tây, Bắc cũng khen ngợi như thế. Chư Phật trong hằng sa thế giới ở bốn phương bàng, trên, dưới cũng khen ngợi như vậy.

 Giải: Trước hết nói đến phương Ðông là thuận theo thế tục: mặt trời mọc từ phương Ðông. Các thế giới trong phương Ðông nhiều như số cát sông Hằng (hằng hà sa số). Trong mỗi một thế giới đều có hằng hà sa số Phật. Mỗi đức Phật ‘đều hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang nói lời thành thật’.

‘Tướng lưỡi rộng dài’ chính là một trong băm hai tướng hảo. Lưỡi to, dài, mềm mại, đỏ tươi, mỏng mảnh, thè ra có thể che cả mặt đến tận mí tóc. Trong sách Viên Trung Sao, đại sư Cừ Am viết: ‘Hiện tướng lưỡi rộng dài nhằm biểu thị chẳng hư vọng. Từ vô lượng kiếp đến nay, miệng không có bốn lỗi nên cảm được tướng này’. Sách Sớ Sao cũng nói: ‘Bởi Thế Tôn nhiều kiếp nói lời thành thật nên tướng lưỡi rộng dài khác lạ thường nhân. Nhưng [tướng lưỡi của Phật] lại có thường tướng và hiện tướng khác biệt. Nếu là thường tướng thì ngậm vào vừa khít trong miệng, thè ra thì che cả mặt đến tận mí tóc. Ðể làm cho ngoại đạo sanh lòng tin, Phật đã từng hiện bày tướng như vậy. Còn nếu là hiện tướng thì có lớn, nhỏ sai khác’. Kinh A Di Ðà chép: ‘Hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở trong nước mình hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới nói lời thành thật: ‘Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức được hết thảy chư Phật hộ niệm này’.

Kinh bảo: ‘Che khắp tam thiên đại thiên thế giới’, đấy chính là ‘hiện tướng’ thù thắng. Ðem so kinh này với Tiểu Bổn thì Ðại kinh chẳng nói ‘che khắp’ nhưng nói ‘phóng vô lượng quang’ thì biết là tướng lưỡi này chính là quang minh ấy, quang minh ấy chính là tướng lưỡi này chẳng hai, chẳng khác. Kinh nói: ‘Phóng vô lượng quang’ nên ta biết rằng pháp âm vang vọng vượt khỏi cả tam thiên đại thiên thế giới.

Sách Viên Trung Sao còn viết tiếp rằng: ‘Kinh Pháp Hoa chỉ nói đến cao nhưng không nói đến rộng nên kinh ấy chỉ nói [pháp âm] thấu đến trời Phạm Thế. Kinh này nói về rộng nhưng chẳng nói đến cao nên bảo là “che khắp tam thiên đại thiên thế giới”. Cần biết rằng hai kinh nói giống nhau, chỉ vì kinh văn giản lược nên chỉ riêng nêu một phương diện, nhưng đều cùng biểu thị chẳng hư vọng; hiện tướng này để người nghe mau sanh lòng tin mà thôi. Lại xét về nghĩa, thì kinh Pháp Hoa nói đến việc vượt ra ngoài tam giới theo chiều dọc nên chỉ nói đến cao. Kinh này nói cách vượt ngang khỏi tam giới nên chỉ bàn về rộng. Nhưng ngang chính là dọc, dọc chính là ngang, văn tuy giản lược nhưng ý nghĩa tương đồng’. Giáo nghĩa này của sách Viên Trung Sao thật là tinh diệu khiến người sanh lòng tin sâu xa.

Từ Ân pháp sư lại bảo: ‘Ðể chứng thực việc nhỏ thì Phật hiện tướng lưỡi  hiện che cả mặt đến tận mí tóc. Nay kinh đây nói che khắp đại thiên là để chứng thực đại sự’. Ngài còn bảo: ‘Bồ Tát đắc tướng lưỡi che mặt nên chẳng nói hai lời, toàn nói lời chơn thật. Lưỡi mới chỉ che mặt thì đã chẳng hư vọng, huống là che được cả đại thiên!’ Vì vậy, bọn chúng ta phải nên sanh lòng tin chơn thật đối với lời khen ngợi của chư Phật.

‘Nói lời thành thật’: nói lời chí thành, chơn thật, chẳng dối. Sách Di Ðà Sớ Sao nói: ‘Thành thật ắt là đáng tin vì thành là chơn thật, khẩn thiết, không trá ngụy. Thật là chắc chắn đúng, chẳng dối. Ðó là sư tử hống, vô úy thuyết, dẫu ngàn thánh nhân xuất hiện cũng chẳng thay đổi được, muôn đời giữ lấy làm khuôn phép vậy’. Sách còn viết: ‘Thuần chơn, dứt vọng, vạn kiếp vẫn như thế. Nói lời thành thật còn gì hơn thế’. Như vậy, lời chư Phật khen ‘Vô Lượng Thọ Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn’ chính là lời cực chơn, cực thật, ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thể biến cải, muôn đời tuân thủ chẳng thể trái nghịch; thuần là chơn thật chẳng hề hư vọng. Do vậy, bọn chúng ta đều phải nên tin chắc, chớ ôm lòng nghi.

Về chữ ‘công đức chẳng thể nghĩ bàn’ xin xem lại lời giải thích trong phẩm mười một.

Kế đó, kinh nói mười phương hằng sa chư Phật cũng đều khen ngợi đức Di Ðà như thế. Sách Hội Sớ nói: ‘Tuy chư Phật chứng đắc bình đẳng như một, nhưng cái lợi ích Niệm Phật được vãng sanh là diệu pháp bất cộng của Phật Di Ðà nên chư Phật nhượng đức, dạy quy về một đức Phật. Ðấy là kết quả của lời nguyện mười bảy vậy’. Ý nói: Phật, Phật đạo đồng, chẳng có cao, thấp. Nhưng pháp môn niệm Phật vãng sanh chính là diệu pháp bất cộng của Phật Di Ðà nên cái lợi ích đó cũng là bất cộng. Vì vậy, chư Phật kính nhường đức ngài, nhằm hiển thị công đức vô biên của hết thảy chư Phật đều quy về một đức Phật Di Ðà ngõ hầu mười phương chúng sanh đều nhập Di Ðà nguyện hải, vãng sanh thế giới Cực Lạc. Ðấy chính là nguyện thứ mười bảy ‘chư Phật khen ngợi’ được thành tựu. Mười phương khen ngợi thì  danh hiệu mới có thể vang khắp mười phương, phổ nhiếp vô biên chúng sanh cùng quy hướng Cực Lạc.

 Chánh kinh: Vì sao thế? Muốn khiến cho tất cả chúng sanh trong các phương khác nghe danh hiệu Phật ấy phát tâm thanh tịnh, ức niệm, thọ trì, quy y, cúng dường cho đến phát sanh được một niệm tịnh tín, [đem] tất cả thiện căn chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia, tùy nguyện đều sanh, đắc bất thối chuyển cho đến thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề.

 Giải: Ðoạn này giảng rõ nguyên nhân chủ yếu vì sao chư Phật khen ngợi: vì muốn cho chúng sanh nghe danh hiệu sanh lòng tin, phát nguyện cầu sanh, ắt chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

Sách Hội Sớ nói: ‘Ðây chính là nguyện mười tám được thành tựu. Chỗ quy thú của cả bộ kinh chỉ là ở điểm này. Vì sao vậy? Tuy cả bốn mươi tám nguyện đều thù thắng nhưng Niệm Phật Vãng Sanh là cốt yếu nhất. Tuy thành tựu của mỗi nguyện đều là khó nghĩ tưởng nổi, nhưng nguyện này thành tựu mới là bất cộng; vì vậy chư Phật ngợi khen’.

Sách Giáo Hạnh Tín Chứng giảng câu ‘nghe danh hiệu Phật ấy’ như sau: ‘Chữ “Nghe” có nghĩa là chúng sanh nghe gốc ngọn sanh khởi của lời Phật nguyện mà chẳng có tâm nghi thì đó mới là ‘nghe’. Nghe danh hiệu được phước nên có thể phát sanh lòng tin thanh tịnh. ‘Tâm thanh tịnh’ chính là lòng tin chẳng nghi, còn có nghĩa là lòng tin trong sạch chẳng cấu nhiễm. Sách Thắng Man Bảo Quật, quyển thượng nói: ‘Thanh tịnh tâm là lòng tin trong sạch, khởi tâm tin trong sạch, lại còn có nghĩa là tâm chẳng có phiền não lẫn vào thì gọi là tâm thanh tịnh’.

‘Ức niệm thọ trì’: Thọ là tin nhận, Trì là giữ vững. Ức là nhớ đến công đức của Phật. Niệm là niệm danh hiệu Phật. ‘Quy y’ là thân tâm quy hướng, nương theo chẳng bỏ. ‘Cúng dường’ là như sách Huyền Tán bảo: ‘Dâng tài, hạnh là cúng; giữ gìn, giúp đỡ là dường’. Chữ ‘tài, hạnh’ chỉ hai thứ cúng dường:

a. Một là tài cúng dường tức là cúng những vật như: hương, hoa, thuốc men, tài vật, đầu, mắt, tủy, não, núi, sông, đại địa…

b. Hai là pháp cúng dường: tu hành đúng như lời dạy để cúng dường.

Sách Di Ðà Sớ Sao viết: ‘Thanh Lương đại sư nói: ‘Ðại Hạnh hòa thượng đời Cao Tề tôn sùng niệm Phật, dùng bốn chữ để dạy dỗ: hai chữ ức niệm chẳng rời nơi tâm; hai chữ xưng kính chẳng rời nơi miệng’. Ðấy chính là ý chỉ của câu ‘ức niệm thọ trì, quy y cúng dường’ trong kinh này.

Sách Sớ Sao còn nói:‘Ðể vãng sanh Tịnh Ðộ phải có lòng tin. Ngàn người tin ngàn người sanh, vạn người tin vạn người sanh. Tin vào danh hiệu Phật thì chư Phật liền cứu, chư Phật liền hộ trì. Tâm luôn nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thân luôn kính Phật thì mới gọi là thâm tín. Dù phát tâm sớm hay muộn cũng chẳng hề trụ vào pháp nào của cõi Diêm Phù Ðề nữa. Cách thúc đẩy, phát khởi này là thiết yếu nhất’.

Ðoạn kinh này lại đặc biệt nói ‘nhất niệm tịnh tín’‘chí tâm nguyện sanh’; đấy đều là công đức tùy nguyện vãng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Sách Hội Sớ giảng chữ ‘nhất niệm’ như sau: ‘Nghĩa là chánh nhân vãng sanh chỉ cốt ở tin trong mỗi niệm, chẳng nệ là niệm nhiều hay ít’. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng cũng nói: ‘Một niệm có nghĩa là tín tâm không nhị tâm nên bảo là ‘nhất niệm’. Ðấy gọi là Nhất Tâm. Nhất tâm là cái nhân chơn chánh của thanh tịnh báo độ, đạt được kim cang chơn tâm, vượt ngang khỏi năm đường tám nạn, ắt đạt được mười thứ lợi ích ngay trong đời hiện tại: một là được quỷ thần, thánh chúng thủ hộ cho đến điều lợi ích thứ mười là nhập chánh định tụ’.

Sách Di Ðà Sớ Sao lại viết: ‘Tín chính là tịnh tâm. Thành Duy Thức Luận nói: “Tín là thật đức có thể nhẫn được dục lạc một cách sâu xa. Tâm tịnh là tánh. Sao lại bảo là tịnh tâm? Là vì tâm thù thắng như thủy thanh châu lóng trong nước đục. Các nhiễm pháp lại đều có tự tướng. Chỉ do chẳng tin nên tự tướng bị vẩn đục, lại khiến cho tâm, tâm sở cũng bị vẩn đục như vật cực dơ đã tự khiến mình dơ lại còn làm dơ vật khác. Tín có thể chuyển biến điều ấy nên tịnh là tướng”. Nay tu Tịnh Ðộ thì tâm tịnh là điều cốt yếu nên tín là nhiệm vụ cấp bách thật đã quá rõ vậy’.

Do đó, kinh A Di Ðà Cổ Âm Thanh Vương Ðà Ra Ni nói: ‘Thế giới An Lạc: tất cả Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, thần thông biến hóa, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu tin được những việc như vậy thì nên biết là người ấy là chẳng thể nghĩ bàn, đạt được nghiệp báo cũng chẳng thể nghĩ bàn’. Sách Yếu Giải cũng nói: ‘Chỉ có bậc đại trí mới có thể tin chắc thật’.

Sách An Lạc Tập dựa theo sách Luận Chú lập ra ba tâm: một là Thuần Tâm tức là tín tâm sâu dày; hai là Nhất Tâm tức là tín tâm thuần nhất; ba là Tương Tục Tâm tức là tín tâm liên tục chẳng tạp các niệm khác, lại còn bảo: ‘Nếu có thể liên tục thì chính là nhất tâm. Nếu có thể nhất tâm thì chính là thuần tâm. Ðủ cả ba tâm này mà lại chẳng sanh thì quyết chẳng có lẽ ấy’.

Xét chung các kinh, luận: Sớ Sao bảo ‘tín chính là tịnh tâm’, Cổ Âm kinh bảo tin được những việc như thế là chẳng thể nghĩ bàn; Yếu Giải bảo tín chính là đại trí; An Lạc Tập bảo ‘đủ cả ba tâm ấy mà lại chẳng sanh thì quyết chẳng có lẽ ấy’. Các thuyết trên cùng chỉ rõ tín tâm thanh tịnh là quý nhất. Kinh này lại thêm hai chữ ‘nhất niệm’ thành ra ‘nhất niệm tịnh tín’ đủ thấy tín tâm này chính là ‘nơi đầu sào trăm thước tiến thêm bước nữa’,  há thể suy lường nổi ư! Câu: ‘Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm, ngôn ngữ bặt dứt, chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai’ trong sách Tín Tâm Minh của Tứ Tổ Thiền Tông thật có cùng một ý chỉ với kinh này.

Sách Hội Sớ bảo tâm tịnh tín là ‘chánh nhân để vãng sanh’; sách Giáo Hạnh Tín Chứng xưng tụng tín tâm là ‘cái nhân chơn thật của thanh tịnh báo độ’. Cả hai sách cùng bảo ‘nhất niệm chính là nhất tâm’ (Chỉ Quán, quyển 5 bảo: ‘Nhất tâm có đủ cả mười pháp giới’. Do đó, nhất tâm chính là thật thể của vạn hữu mà cũng chính là Chơn Như). Nhất tâm còn được gọi là kim cang tâm, có khả năng mở toang con mắt trí huệ trong tâm mỗi người.

Trong câu ‘chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia’, chí tâm chính là tâm chí thành được nói trong Quán kinh. Sách Tứ Thiếp Sớ (Quán kinh Sớ của tổ Thiện Ðạo) nói: ‘Chí là chơn, thành là thật. Ý nói: Hết thảy chúng sanh khi tu các hạnh giải nơi thân, khẩu, ý nghiệp thì đều phải thực hiện bằng tâm chơn thật; chẳng được bề ngoài làm ra vẻ hiền, thiện, tinh tấn, bên trong ôm lòng hư giả, tham, sân, tà ngụy, gian trá trăm chiều, ác tánh khó lay, sự như rắn rết. Tuy khởi tam nghiệp nhưng chỉ đáng gọi là sự lành tạp độc, cũng gọi là hạnh hư giả, chẳng thể gọi là nghiệp chơn thật’.

‘Hồi hướng’ là đem hết thảy thiện căn chính mình đã tu hướng đến chúng sanh cũng như hướng đến Phật đạo.

Tiếp đó, kinh nói: ‘Nguyện sanh cõi kia’ là hồi hướng tín hạnh của chính mình để cầu vãng sanh. Ðây cũng chính là tâm hồi hướng phát nguyện trong ba tâm được nói trong Quán kinh. Kinh dạy: ‘Một là tâm chí thành, hai là thâm tâm, ba là tâm hồi hướng phát nguyện. Ðủ cả ba tâm thì ắt sanh cõi kia’.

Sách Hội Sớ nói: ‘Hồi hướng có tự lực hồi hướng và tha lực hồi hướng. Nếu đem nhân hạnh của chính mình để hồi hướng đến cái quả trong mai sau thì là tự lực. Chuyên cậy vào Phật nguyện, chẳng cậy đến sức lực của chính mình thì là tha lực; chẳng phải là phàm tình hồi hướng nên cũng gọi là bất hồi hướng’ (Chẳng cậy vào tự lực, hoàn toàn dựa vào tha lực thì phàm tình chẳng hiểu biết được nổi sự hồi hướng như thế nên gọi là ‘bất hồi hướng’). Kinh Ðại Phẩm Bát Nhã nói: ‘Bồ Tát hồi hướng như vậy thì chẳng đọa vào tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm điên đảo, vì cớ sao? Vì Bồ Tát ấy chẳng tham đắm mà hồi hướng. Ðó gọi là vô thượng hồi hướng’ (Phàm tình gọi đó là bất hồi hướng, nhưng thật ra chính là vô thượng hồi hướng).

Tịnh Ðộ là tha lực pháp môn, sáu chữ hồng danh Di Ðà và Nhất Thừa nguyện hải đều là Tha Lực. Nương vào Phật nguyện hồi hướng vãng sanh chính là vô thượng hồi hướng. Vì vậy, sanh được một niệm tịnh tín, đem tất cả thiện căn chí thành hồi hướng thì ‘tùy nguyện đều sanh’ như sách Hội Sớ đã khai thị: ‘Chỉ cốt tin được trong một niệm, chẳng nệ niệm nhiều hay ít’. Sách Yếu Giải cũng bảo: ‘Nếu tín nguyện kiên cố thì dẫu lâm chung mười niệm hay một niệm cũng quyết định được vãng sanh. Nếu không tín nguyện thì dù có trì danh đến mức gió chẳng thổi lọt, mưa chẳng ướt nổi khác nào tường đồng vách sắt thì cũng chẳng vãng sanh nổi’.

Các bậc đại đức của Trung Hoa lẫn Nhật Bản đều xem tín nguyện là chánh nhân vãng sanh, đều xem tín nguyện là con mắt của cả trời lẫn người. Sách Di Ðà Sớ Sao cũng nói: ‘Chỉ có nguyện thì không một người nào chẳng sanh. Ðã biết là nguyện lực rộng lớn như thế thì há đâu chẳng tin, lẽ nào chẳng nguyện!’. Người tu Tịnh nghiệp thật phải nên khắc cốt ghi tâm, chẳng chút tạm quên câu ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’ của kinh này cũng như câu ‘tín nguyện trì danh’ trong kinh Tiểu Bổn vậy.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận cũng bảo ‘nhất niệm’ có cùng ý nghĩa với ‘chí tâm hồi hướng’. Luận bảo:

‘Một niệm chí tâm hồi hướng liền được vãng sanh. Hành giả như có thể một niệm chơn thành tin nhận thì cần gì phải bận tâm đến những thứ phụ trợ khác. Hết thảy chúng sanh nổi trôi trong sanh tử chỉ nghĩ đến một niệm này, không nghĩ gì khác; dẫu cho đến lúc ngộ được Chơn Tánh, trở về nguồn gốc, thành Ðẳng Chánh Giác vẫn chỉ có một niệm này không có niệm nào khác.

Ðại Trí Ðộ Luận nói: “Hành Bát Nhã Ba La Mật Ða thì trong một niệm có thể nghiền thành vi trần hết thảy đại địa, núi non trong các tam thiên đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng trong cả mười phương”. Sức của nhất niệm chẳng thể nghĩ bàn. Niệm Phật như vậy thì tâm này chính là Phật, Phật chính là tâm, chẳng trong, chẳng ngoài, không trói buộc, không giải thoát, khắp cả núi, sông, đại địa, mười phương hư không chẳng một nơi nào dẫu nhỏ bằng hạt cải lại chẳng phải là chỗ đức Vô Lượng Thọ Phật hiện thân thuyết pháp, cho đến ly chính là phi ly, nhập ngay vào đại quang minh tạng của Như Lai’.

Xem mục lục