Hướng Dẫn trên Con Đường của
Sự Chuyển Di
Kính lễ đức Quán Thế Âm !
Đây là những giáo huấn thực hành sâu xa của Quán Thế Âm. Nếu bạn chết mà không đi đến cùng đích của thực hành nhờ thiền định này, thì hãy đem theo sự hộ tống này trên con đường của chuyển di. Cái này có lợi lạc dù bạn không có sự thực hành, vì Truyền Thống Palmo, Truyền Thống Dawa Gyaltsen và Truyền Thống Tshombu của Những Giáo Huấn Cốt Lõi của Quán Thế Âm gọi nó là “lời khuyên bảo để chuyển di đến giác ngộ mà không thiền định”.
– Nếu qua nghe, suy nghĩ và thiền định bạn chưa đạt đến cùng đích của thực hành này, thì khi chết, bạn cần ghi tâm khắc cốt những giáo lý về chuyển di tâm thức này. Nếu thực hành những giáo lý chuyển di này, chúng sẽ dẫn đến tái sanh vào một cõi Phật. Dù gọi là chuyển di đến giác ngộ không phải thiền định, tuy nhiên thực hành này có kèm thiền định. Vẫn không có bấm nút nào để đến giác ngộ ! –
Tantra Tóm Tắt những Tham Thiền của Samanta-bhadra nói :
Nếu điều này được áp dụng khi những dấu báo cái chết chưa xảy ra,
Con sẽ mắc nghiệp xấu lớn lao là giết một bổn tôn.
Điều này ngăn cản có được đời làm người trong năm trăm lần tái sanh.
– Những bói toán, giấc mộng và sự chẩn đoán của y sĩ là một số kiểm chứng được dùng để xác định khi nào cái chết sắp đến. Nếu như vậy bạn có trách nhiệm áp dụng bất kỳ phương tiện nào để đuổi xa cái chết, bằng thuốc thang, lễ nghi tôn giáo v.v... Chỉ khi những phương pháp ấy bất lực mới nên đi vào thực hành hoàn toàn chuyển di. Làm sớm sẽ dẫn đến nghiệp xấu lớn lao là giết một bổn tôn – những hóa thần bổn tôn bình an ở trong tim bạn và những hóa thần hung nộ ở trong đầu bạn. Hơn nữa, những kinh mạch thuộc về bản chất những vira, và những khí sinh lực thuộc về bản chất những dakini. Bởi thế nếu bạn thực hành giai đoạn phát sanh và áp dụng những giáo lý chuyển di sớm, nó tương đương với việc giết hóa thần bổn tôn đang là cốt lõi của thực hành của bạn. Nếu bạn theo một thực hành bình thường mà chuyển di sớm, đó là giết một mạng người. Trường hợp nào cũng phạm tội lỗi kinh khủng. –
Những dấu báo cái chết là những chẩn đoán từ bói toán, tính số tử vi, và những giấc mộng, những sự suy thoái nơi vóc dáng, sự chuyển động của hơi thở qua lỗ mũi phải hay trái lâu đến hai tuần, sự vắng mặt của một hình thể đời sống trong không gian trước mặt,(10) một cảm giác đảo lộn, hình thể tam giác, hay như một xác chết đang liệm, và sự vắng mặt một ánh sáng trắng của đôi mắt và tiếng rầm rì trong tai... Dù bạn không biết những dấu báo đó, mà y sĩ của bạn cho bạn biết không thể qua khỏi, hãy thực hành ba lần bất cứ phương tiện nào bạn biết để thoát chết. Dù bạn không biết phương tiện nào cả, hãy làm bất cứ nghi thức nào bạn có thể. Nếu điều đó cũng không giúp được, và cái chết là chắc chắn, sự chuyển di được phép thực hành.
Dù bạn thực hành chuyển di hay một pháp môn nào khác, quan trọng là phải thoát khỏi bám luyến và khao khát. Những tantra Đại Toàn Thiện nói :
Than ôi ! Vào lúc này khi tiến trình quá độ của cái chết xuất hiện với tôi,
Tôi sẽ bỏ bám luyến, khao khát và bám nắm vào bất cứ cái gì.
Không dao động, tôi sẽ đi vào kinh nghiệm của những lời dạy thực hành trong sáng.
Tôi sẽ chuyển di tánh giác vô sanh của tôi đến không gian tuyệt đối của không gian.
Tôi sắp từ bỏ thân xác hợp tạo bằng xương thịt của tôi.
Hãy biết rằng nó vô thường và huyễn hóa !
Trong không gian trước mắt bạn hãy tưởng tượng tất cả những vị thầy và những bổn tôn đã chọn, như bạn làm khi quy y. Hãy gom vào một mạn đà la đơn nhất mọi đối tượng bám luyến của sự bám luyến và khao khát của bạn, gồm thân thể, tài sản, nhà, đất đai, gia súc và bà con ; rồi nhiệt thành cúng dường những cái đó ba lần cho thầy và Tam Bảo. Đọc tụng bài kệ cúng dường (mạn đa la) ba lần. Rồi, giống như một thí chủ hoàn tất sự cúng dường, hãy có sự tin chắc rằng bất cứ ai lấy chúng và bất cứ ai làm gì với chúng, những sự vật ấy đều không có chủ.
– Ở Tây Tạng, khi một người không lập gia đình sắp chết, ông ta thường cúng dường mọi thứ sở hữu cho thầy và tu viện. Những người sống trong tu viện thì cúng dường mọi tài sản của mình cho những thiền giả khác. Những người có gia đình có thể cho tất cả bằng tâm thức.
Tôi nhớ một vị tăng tên là Yeshe Rabsel ẩn tu ở bắc Ấn ba mươi năm hay hơn. Một năm ba hay bốn lần, ông rời chỗ ẩn tu, và cúng dường mọi thứ cho Đức Ngài Dudjom Rinpoche, trừ y phục đang mặc. Một vị trụ trì tên là Akyong Khenpo cúng dường mọi thứ trong tu viện của mình ba hay bốn lần trong một năm cho trường Phật học. Thật ra có một số vị tăng trong tu viện cất giữ những sở hữu ưa thích nhất, nhưng mọi thứ khác đều được cúng dường.
Không phải những sở hữu làm hại chúng ta, mà chính là sự bám níu của chúng ta vào chúng. Thật khó cho đi cái gì bề ngoài có vẻ là nguyên nhân cho hạnh phúc của chúng ta. Nếu khổ, dễ cho những sở hữu, bởi vì chúng ta đều muốn thoát khổ. Đó là tại sao có nói rằng sự thích thú thì khó hơn sự trái nghịch. Quan trọng nhất, là cho đi mà không mong nhớ ơn, không hãnh diện, không tự hỏi những cái ấy sẽ được dùng như thế nào. Hãy bỏ mọi mong mỏi, dù bạn cho hàng trăm ngàn đô la hay chỉ một xu. Không thành vấn đề nếu người nhận đem món tặng của bạn cho một con chó hay cho Tam Bảo. Hành động bố thí đã xong, và bạn chỉ cần tùy hỷ công đức. –
Rồi hãy tập chú tỉnh giác của bạn vào sự chuyển di hay thực hành khác của bạn. Kệ Kim Cương của Quán Thế Âm nói :
Người hiểu biết và thiện xảo nghĩa của chuyển di
Sẽ được chuyển di do thân, ngữ, tâm giác ngộ,
Sau khi tự làm quen với những báo hiệu của cái chết,
Cái nhìn thấy (màu trắng), sự lan tỏa (màu đỏ), sự đạt đến (màu đen) và tịnh quang vô sanh.
Tantra của những Chứng Ngộ Dakini nói :
Nếu thức, cưỡi lên sinh khí,
Được chuyển di qua một lối đi dưới thấp,
Thì dù một người có quen biết Pháp,
Cũng sẽ tái sanh trong một trạng thái khốn khổ của hiện hữu,
Như một người khởi hành một chuyến đi
Bị ảnh hưởng bởi những bạn đồng hành.
Nếu thức, cưỡi lên sinh khí,
Được chuyển di qua một lối đi trên cao,
Thì dù một người quen biết với tội lỗi
Cũng sẽ tái sanh trong một trạng thái thuận lợi của hiện hữu,
Như một người khởi hành một chuyến đi
Bị ảnh hưởng bởi những bạn đồng hành.
– Do những ảnh hưởng nghiệp, dù bạn có làm công đức mà không phát triển một số khuynh hướng thói quen hướng dẫn sự tỉnh giác của bạn vào hướng đi lên, thức của bạn có thể thoát ra qua một lối ở dưới thấp khi chết, và bạn sẽ tái sanh vào khổ cảnh. Người ta có thể bắt đầu một cuộc hành trình với ý định đi về một hướng, nhưng các bạn bè ảnh hưởng, nó có thể theo chiều ngược lại. Như vậy, sự thực hành chuyển di giống như một sự hộ tống trên một chuyến đi giúp bạn đến chỗ đã chọn. –
Tantra Tóm Tắt những Tham Thiền của Samanta-bhadra nói :
Do chuyển di như vậy, không có sự trở lại,
Sẽ không có sợ hãi trong trạng thái trung ấm,
Và bạn sẽ biểu hiện thức tỉnh tâm linh hoàn hảo.
Đây là sự tổng hợp của Truyền Thống Tshombu, Dawa Gyaltsen và Palmo của Những Giáo Huấn Cốt Lõi của Quán Thế Âm, được Phật A Di Đà dạy cho Acarya Padmasambhava. Sự Chuyển Di Của Trí Huệ Bổn Nguyên của Đại Lạc : Những Giáo Huấn về Việc Làm Trống Không Vòng Sanh Tử là một tác phẩm chuyên môn của Đại Thành Tựu giả Karmapaksi. Karmapaksi nói rằng khi nào chúng ta truyền nói những giáo lý công khai, chúng ta cho những giáo huấn này. Dù bạn thực hành những pháp khác cho tiến trình chết, nếu cái này được tụng lớn giọng bởi ai đó và sự chuyển di được thi hành, bạn sẽ giác ngộ trong khoảnh khắc. Ngài nói, với bất kỳ ai, sự chuyển di này có một ban phước khổng lồ.
Hãy tưởng tượng chính bạn là Quán Thế Âm, màu trắng, một mặt và bốn tay, bên trong thân trống không vô nhiễm. Hãy tưởng tượng những lỗ phía dưới, sinh dục, miệng, rốn, hai lỗ mũi, hai lỗ tai, điểm giữa hai lông mày và lỗ thóp Brahma mỗi cái được đóng kín bởi một chữ Hrih màu đỏ. Giữa thân bạn là kinh mạch trung ương, trắng ở ngoài và đỏ bên trong. Phần chót phía trên của nó ở đỉnh đầu được mở ra như một cái miệng của kèn trompet. Phần chót phía dưới rốn ở chỗ ba kinh mạch nối kết được đóng bằng một chữ Phat không mở ra được. Trên một hoa sen và một chỗ ngồi mặt trăng ở tim bạn, với bản chất là sinh khí, tâm và thức của bạn là Quán Thế Âm, màu trắng, một mặt bốn tay. Cao bằng đốt ngón tay cái đầu, hình thể nhỏ này có tất cả những phẩm tính của Quán Thế Âm, rực rỡ và chói sáng. Trên đỉnh đầu bạn khoảng một bàn tay hãy tưởng tượng một hoa sen đỏ ngàn cánh và một dĩa mặt trăng. Trên đó, với bản chất của tất cả những vị thầy truyền dòng, những bổn tôn đã chọn, chư Phật, chư Bồ tát, là Phật A Di Đà, màu đỏ hồng ngọc, với một mặt và hai tay. Trong hai bàn tay trong ấn quân bình thiền định, ngài giữ một bình bát chứa đầy cam lồ. Đầu ngài có dấu hiệu một usnisa (Phật đảnh), chân có những bánh xe và trang nghiêm bằng những tướng và biểu tượng giác ngộ. Ngài mặc ba loại y xuất gia và ngồi trên một tòa kim cương.
Bằng tâm trí, hãy mời tất cả những vị bạn đặt niềm tin và hy vọng, gồm A Di Đà ở Cực Lạc, và tất cả những vị thầy, những bổn tôn đã chọn, chư Phật chư Bồ tát trong những cõi Phật khắp mười phương. Các ngài hòa tan vào (nhân vật được quán tưởng). Với sự tin chắc rằng tất cả những đối tượng quy y hiện thân ở đó, tụng ba lần : “Kính lễ Phật A Di Đà.” Rồi thốt lên âm tiết Om, hãy tưởng tượng tâm của chính bạn, như là Quán Thế Âm, đi lên đỉnh đầu bạn ; và phần trên thân màu trắng chói sáng của ngài nhô lên trên đỉnh đầu bạn. Với sự tụng mani padme hum, hãy tưởng tượng tâm của bạn, với tư cách là Quán Thế Âm, đi xuống trái tim bạn và trụ ở đó. Tốt khi thực hành phần trước này vài lần.
Khi bạn đến ngưỡng cửa cái chết, nên có người xướng tụng du dương sáu âm này với giọng lớn. Với sự thốt lên mạnh mẽ âm Om, thức của bạn được gởi qua kinh mạch trung ương của Quán Thế Âm đến đỉnh đầu bạn, và nó tan vào tim của A Di Đà. Lại quán tưởng Quán Thế Âm ở tim bạn, và ngài đi lên trở lại và trở lại. Hãy thiền định như thế cho đến khi bạn tắt hơi.
Những dấu hiệu của chuyển di thành công có thể kể là một sự hội tụ của sức nóng nơi đỉnh đầu, hơi nước và phình lên trên đỉnh đầu, và những cầu vồng và những hạt xá lợi sẽ xuất hiện vào lúc đó, hay sau ba, năm, bảy ngày hay hơn nữa. Ngoài ra, nếu bạn đã khá quen thuộc với Đại Toàn Thiện trong đời này, và bạn thường trực thấy những hiện thân thiêng liêng của giai đoạn Nhảy Qua, thì không có gì thêm nữa để bạn thực hành.
– Vào lúc bạn trì tụng “Kính lễ Phật A Di Đà” ba lần, bạn có thể tụng những thần chú cầu khẩn danh hiệu những vị Phật khác. Với âm Om, đức Quán Thế Âm ở tim bạn đi lên nửa đường đến đỉnh đầu. Với mani padme hum ngài đi xuống trở lại và trú tại tim bạn. Thực hành như vậy trong cuộc đời bạn, bạn có thể dễ dàng sử dụng sự tâäp luyện này vào lúc chết. Khi thực sự sắp chết, hãy gởi đức Quán Thế Âm ở tim bạn lên qua đỉnh đầu, tan vào tim A Di Đà. Khác với những thời thực hành khi sống, vào lúc này, Quán Thế Âm không đi xuống kinh mạch trung ương nữa. Lại quán tưởng Quán Thế Âm ở tim và gởi ngài đi lên qua đỉnh đầu đến tim của A Di Đà. Hãy lập lại đến chừng nào bạn còn ý thức.
Để có những dấu hiệu thành công, bạn phải thực hành ngay bây giờ. Còn nếu bạn đã hoàn thành cái nhìn thấy của tiến bộ trong thực hành Nhảy Qua, trong đó bạn thường trực thấy những hiện thân thiêng liêng, thì không cần duy trì sự thực hành ở trên. –
Một Dẫn Nhập Tinh Túy của Pháp Giới Trong Sáng nói :
Khi một người ngã xuống vì bệnh, khi điềm báo của cái chết đã đầy đủ, nhất là khi sức mạnh của các nguyên tố đang rút đi, hơi thở ra thì dài và hơi thở vào khó khăn, khi những cái nhìn thấy trắng và đỏ sanh khởi và thức của bạn trở nên rối loạn, “con đường bí mật của Vajrasattva” xuất hiện trong không gian trước mặt bạn, như một sợi dây bằng ánh sáng trắng kéo dài từ caksu (tiếng Sanskrit có nghĩa là mắt) của bạn, như một cây giáo thẳng đứng lên, hay như một cái thang, liên tục xuất hiện đi vào bầu trời. Nó cũng có thể có năm màu. Vào lúc đó hãy tập trung tánh tỉnh giác của bạn vào khả năng thị giác, và tập trung khả năng thị giác vào sợi dây ánh sáng. Do làm thế tánh tỉnh giác của bạn sẽ tan vào ánh sáng, vào ngay lúc đó chắc chắn bạn sẽ giác ngộ một cách trọn vẹn, rõ ràng.
Cần thấy sợi dây dẫn lên sự rỗng rang bên trên của những cõi thanh tịnh, được gọi là “con đường của tham thiền về bốn trí huệ bổn nguyên”. Con đường này không có đức hạnh và tội lỗi, thiện hạnh hay ác hạnh. Đây là điểm then chốt của phương pháp mạnh mẽ để giác ngộ cho những người tội lỗi lớn lao.
Điều này do Orgyen Vĩ Đại nói.
– Nếu bạn thực sự ở trên giai đoạn Nhảy Qua, bạn chỉ đơn giản tập trung vào con đường bí mật của Vajrasattva này, sợi dây bằng ánh sáng này, và bạn sẽ thành Phật. Nếu bạn chưa ở mức cái nhìn thấy của Nhảy Qua, mà ở giai đoạn Phá Thấu, bạn chỉ đơn giản tham dự vào bản tánh của tỉnh giác của chính bạn trong tiến trình chết. Không gian bên trong và không gian bên ngoài được thấy là đồng một bản tánh không thể phân chia. Hãy biết bản tánh của bạn là bản tánh của tất cả sanh tử và niết bàn. Tánh giác xưa nay thanh tịnh này là tâm của tất cả chư Phật.
Con đường tham thiền về bốn trí huệ bổn nguyên hoàn toàn siêu việt những ranh giới của hành động như đức hạnh, không đức hạnh, tốt hay xấu. Trên ngưỡng cửa của cái chết, cả hai loại người đều có cùng một cơ hội dịp may đặc biệt như nhau để đạt đến giác ngộ bằng cách thấy được bản tánh của mình. –
Một người đã chứng ngộ không-thiền định không ở lại trong thực hành tâm linh, vì một người như vậy đã giác ngộ trong đời này. Ở lại trong thực hành tâm linh là dành cho những ai còn phải tiến bộ trong sự trau dồi đường đạo. Người đã chứng ngộ một vị không ở lại quá ba năm, hay bảy ngày, vì họ đã giác ngộ như là Pháp thân vào lúc chết. Người đã chứng ngộ thoát khỏi tạo tác ý niệm có sự kiểm soát lớn với việc họ ở lại bao lâu. Những người với nhất tâm lớn ở lại lâu và vững chắc ; nhưng nếu họ bám luyến và khao khát những kinh nghiệm lạc, trong sáng và vô niệm, họ sẽ lạc vào ba cõi của chư thiên. Họ có đi lạc hay không tùy thuộc vào khi sống họ có đi lạc hay không. Những người với nhất tâm vừa sẽ có thể duy trì sự thực hành tâm linh nếu bệnh làm chết người của họ nhẹ và họ có một sự giúp đỡ. Nhưng nếu họ bối rối khi chết và không có sự giúp đỡ, họ sẽ không duy trì được sự thực hành. Người duy trì được sự thực hành sẽ làm theo quyết định của họ ở lại một số ngày cho phép, vì khi chết họ có năng lực của tâm. Những người với cấp độ nhỏ của nhất tâm sẽ không duy trì được sự thực hành của họ. Những bình luận này được truyền xuống từ những giáo lý của Drungchen Kun-ga Namgyal.
– Trong giai đoạn này, “ở lại trong thực hành tâm linh” nghĩa là bạn có thể duy trì tịnh quang của cái chết trong giai đoạn sau cùng của tiến trình chết. –
Tantra của Sự Biểu Lộ Uống Máu nói :
Thành tựu (siddhi) của lúc chết
Được dạy theo tiến trình chết.
Nghĩa của câu trên được giải thích trong Luận về Sáu Pháp của Đức Chokyi Wangchuk :
Khi một người tham thiền thăm dò kinh nghiệm cái chết cho chính mình, nó cần xem xét thế này : “Đối với cái gì thật sự chân thật thì không thể tiêu tan. Khi tri giác cái chết và sợ hãi, nó thật không có nền tảng, thế nên cái chết xuất hiện dù nó không có nền tảng trong thực tế.” Do suy nghĩ theo cách ấy, bạn sẽ duy trì một thái độ thản nhiên với cái chết. Bấy giờ bạn cúng dường những tài sản, lương thực cho Tam Bảo. Bạn bỏ đi những nguyên nhân làm rối samadhi của bạn, như lo buồn cho thân quyến. Nếu có thể, hãy ngồi trong tư thế như bạn đang thực hành tummo,(11) nhưng nếu bạn không thể, thì ở trong tư thế con sư tử ngủ. Hướng tâm đến vị thầy, Tam Bảo và bổn tôn đã chọn, hãy phát sanh đức tin chân thành, và làm quy y đặc biệt. Hãy nhận biết thật tánh cái chết của bạn là thực tại tối hậu của tịnh quang. Hãy phát sanh trở đi trở lại nguyện vọng và quyết định vững chắc cho lợi lạc của tất cả chúng sanh để thể hiện trạng thái hợp nhất Đại Ấn trong tiến trình quá độ của sự trở thành.
Rồi khi bạn chết, những xuất hiện thuộc thị giác tan biến, thế nên các hình sắc không rõ ràng ; những xuất hiện thuộc thính giác tan biến, thế nên âm thanh không nghe được ; những xuất hiện khứu giác tan biến, nên mùi không thể cảm... Do đất tan vào nước, bạn mất sức mạnh ; do nước tan vào lửa, miệng và mũi khô ; do lửa tan vào gió, thân nhiệt mất ; do gió tan vào thức, hơi thở bên ngoài dứt trong khi hơi thở bên trong chưa hoàn toàn dứt.
Trong thời gian đó, khi phần đầu tiên có những cái nhìn thấy, dấu hiệu bên trong giống như khói và dấu hiệu bên ngoài giống như mặt trăng mọc. Thứ hai, vào thời của sự tăng trưởng, dấu hiệu bên trong giống như đôm đốm và dấu hiệu bên ngoài giống như mặt trời mọc. Thứ ba, vào thời đạt đến, dấu hiệu bên trong giống như một ngọn đèn dầu, dấu hiệu bên ngoài giống như bóng tối. Rồi trong phần thứ tư, sự đạt đến tan vào trong tịnh quang, và dấu hiệu bên ngoài giống như sự xuất hiện của bình minh, trong khi dấu hiệu bên trong là thức như bầu trời không mây. Tịnh quang vô niệm, siêu trí năng sanh khởi, không có chu vi hay trung tâm. Vào lúc đó, tịnh quang mà người ta thiền định cho tới nay và tịnh quang tự nhiên cả hai đều hiện diện như một đứa con gặp mẹ nó. Như một kết quả, tám mươi bản chất ý niệm dừng dứt và sự sáng tỏ vô niệm tự nhiên của pháp thân trở thành biểu lộ.
– Khi một thiền giả biết chắc chắn cái chết đã rất gần, nó cần nhận biết mọi xuất hiện đều thuần là hư vọng trong bản chất. Nghĩa là thậm chí biến cố chết cũng không có nền tảng trong thực tế ; nó chỉ là một xuất hiện mà bạn có thể đối mặt không sợ hãi. Điều này gọi là có được tự tin. Không phải cho rằng cái chết không đến, như bịt mắt để khỏi thấy cái làm cho sợ hãi. Đây là sự chứng biết bản tánh của nó với thái độ của một chiến sĩ.
Bạn thấy những tài sản, bạn bè, thân thuộc của bạn như giấc mộng, không thực hiện hữu. Bạn làm sự quy y đặc biệt, không chỉ là cách quy y bên ngoài và bên trong của Kim Cương thừa hay cách bên ngoài và bên trong của Kinh thừa, mà sự quy y độc nhất của Dzogchen. Điều này là sự quy y về tinh túy, bản tánh và lòng bi của tánh giác : Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Bạn quy y tánh giác của bạn như là ba thân. Bạn quy y tất cả xuất hiện như là thân của Phật, mọi âm thanh như là ngữ của Phật, và mọi tư tưởng là tâm của Phật.
Vào lúc tám mươi bản chất của ý niệm dừng dứt, tư tưởng phiêu bạt lan man dừng dứt, tâm ý niệm hoàn toàn ngủ say, sự sáng tỏ, giác chiếu tự nhiên và vô niệm của Pháp thân biểu lộ. –
Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Sự Thấy, một dẫn nhập do Orgyen Rinpoche dạy, nói rằng :
Khi bạn chết, đất tan vào trong nước, nước tan vào lửa, lửa tan vào không khí, không khí tan vào thức, và thức tan vào tịnh quang. Vào lúc kết thúc của những xuất hiện của những cái nhìn thấy con đường trắng, con đường đỏ, và con đường đen, bấy giờ tịnh quang nền tảng, Phật nguyên thủy, bổn lai thanh tịnh, Phật Samatabhadra đích thực, bèn gặp được. Khi tánh giác an trụ trong trạng thái của chính nó, trong nền tảng của chính nó, sự dừng dứt hơi thở và sự xuất hiện của tịnh quang của mạn đà la chói ngời tự nhiên của Pháp thân xảy ra một cách đồng thời. Điều này giống như mặt trời và mặt trăng tròn cùng mọc một lúc, không có chút bóng tối nào.
– Trong những trường hợp tốt nhất, những người đã tu hành tốt thì không trải nghiệm cái chết hay trạng thái trung ấm, bởi vì sự dừng dứt của đời này thì đồng thời với sự chứng đắc hoàn toàn Phật tánh. Những người ở cấp độ thấp hơn có thể đến một cõi Phật, nhưng trong trường hợp nào thì cũng không có kinh nghiệm trung ấm và không có sự tiếp tục trong vòng sanh tử. –
Tantra Nguyên Thủy về sự Thâm Nhập của Âm Thanh nói :
Ở đây tiến trình quá độ của chuyển di vào thực tại được giải thích.
Khi bạn đến cái chết,
Thức tan vào không gian.
Khi không gian tan vào tịnh quang,
Mọi xuất hiện thô và tế dứt bặt...
Ngay trên sự dừng dứt của bốn nguyên tố bên ngoài,
Những nguyên tố bên trong được giải phóng vào tịnh quang
Những Giáo Huấn Trắng của Quán Thế Âm về Nghĩa của Tham Thiền Ban Ngày nói :
Thiện nam tử ! Vào lúc chết hãy ghi nhớ không dao động lời chỉ dạy này. Chớ dính bám với những xuất hiện bất tịnh của thế gian này. Chớ khao khát chúng. Hãy tập trung thức của con ở đỉnh đầu và không để cho tâm phân tán. Trong tiến trình quá độ thứ nhất, có sự hội nhập của không gian tuyệt đối và tánh giác thành giống như không gian nguyên sơ tinh khôi. Con sẽ kinh nghiệm một cảm thức thống nhất của lạc trong sáng và vô niệm, trong đó tâm con trong trẻo, trong sáng và thoát khỏi những tư tưởng. Điều này là chung cho tất cả chúng sanh, và nó là một dấu chỉ ra rằng năng lực sinh khí và tâm hội tụ trong kinh mạch trung ương. Thế nên vào lúc đó hãy nhận biết cái đó là Pháp thân, nó là bất nhị với kinh nghiệm thiền định trước kia của con. Do thế, con sẽ giác ngộ trong tiến trình quá độ thứ nhất.
Những Giáo Huấn của Quán Thế Âm về Giải Thoát Tự Nhiên khỏi những Trạng Thái Khốn Khổ của Hiện Hữu nói :
Bấy giờ hơi thở ra của con dừng lại không thể thở vào nữa. Vào lúc đó con kinh nghiệm một mức độ lớn, vừa hay nhỏ của khổ đau như một kết quả của công đức hay tội lỗi lớn, nhỏ hay vừa. Bấy giờ nếu con là người tham thiền tự tịnh hóa với sự làm chủ trên chính mình, thì bởi vì tâm không lệ thuộc cái chết, nó hòa lẫn với tịnh quang, như một đứa con gặp mẹ nó. Hay “sự hòa nhập của không gian tuyệt đối với tánh giác” có thể xảy ra vào lúc đó, thế nên con trở thành giác ngộ trong trạng thái của A Di Đà, bản tánh bổn nhiên thanh tịnh của Đại Toàn Thiện.
Những Giáo Huấn của Hoa Sen Bình An và Hung Nộ của Quán Thế Âm nói :
Lúc nào hơi thở bên ngoài sắp dừng, hãy nằm về phía phải như tư thế sư tử, điều này sẽ ngăn chặn những dao động của khí. Hãy ấn chặt vào mạch nhảy của hai động mạch yết hầu. Điều này ngăn ngừa khí rời bỏ kinh mạch trung ương và bảo đảm nó sẽ rời bỏ qua lối đi của chỗ mở Brahma trên đỉnh đầu. Hãy nhận biết tánh giác vào lúc đó.
– Nếu bạn là một hành giả có kinh nghiệm, đây là lúc cho vị thầy của bạn hay ai khác chỉ cho bạn tánh giác. Nếu không có ai có khả năng làm điều này, hãy đơn giản thực hành chuyển di. –
Để duy trì sự thực hành của bạn, rất quan trọng là ấn nhẹ với những ngón tay vào những động mạch yết hầu.
Nếu bạn nghi ngờ bạn duy trì sự thực hành được hay không, hay thậm chí nếu bạn có thể, nếu bạn băn khoăn một con mèo có thể ở bên cạnh, hay có tiếng ồn, hãy đi vào sự hợp nhất của thực hành với chuyển di theo cách Pháp thân : Trước hết, hãy tưởng tượng thân thể bạn trong hình tướng của bổn tôn chọn lựa, như Quán Thế Âm. Hãy đóng tám lỗ với chữ Hrih. Quán tưởng kinh mạch trung ương của bạn và Phật A Di Đà trên đỉnh đầu. Hãy phóng thức của bạn, như một bindu trắng có chữ Hrih ở tim bạn, đến tim của A Di Đà ở đỉnh đầu, làm như thế nhiều lần. Rồi hãy để cho sự thực hành của bạn là sự nuôi dưỡng bản tánh cốt lõi của tâm, bằng cách tập trung tánh tỉnh giác của bạn ở tim mà không tưởng tượng cái gì cả. Bất cứ cái gì xuất hiện, như những cái nhìn thấy của con đường trắng và con đường đỏ, hãy quan sát bản tánh của những xuất hiện.
Khi hơi thở bên ngoài dừng lại, thân thể nên được đắp phủ và chăm sóc cẩn thận. Hãy ấn nhẹ bằng những ngón tay của bạn lên động mạch cổ (của người chết). Nếu bạn biết quán tưởng như thế nào sự thực hành (của người này), hãy làm điều bạn có thể. Nếu bạn không biết làm thế nào, hãy gọi tên người ấy và nói ba lần, “Chớ xao lãng khỏi thực hành tâm linh của bạn.” Như một kết quả, người ấy trước nhất có thể nhớ lại những giáo huấn đã thu hóa trước kia từ thầy mình ; thứ hai, với sự nhận biết này, chắc chắn nó sẽ được giải thoát như là Pháp thân, không có sự hợp nhất hay tách lìa. Có nói rằng một người như vậy được giải thoát do nhận ra tịnh quang thứ nhất.
– “Sự thực hành tâm linh” ở đây là sự thực hành đặc biệt được thực hiện trong và tiếp theo tiến trình chết. Nếu bạn ngại không thể duy trì thực hành tâm linh và tiếp theo tiến trình chết, hãy nghĩ những can thiệp bên ngoài có thể quấy nhiễu samadhi của bạn, thì hãy đi vào sự hợp nhất của sự thực hành của bạn với sự chuyển di Pháp thân.
Chớ đóng kín kinh mạch trung ương của bạn khi bạn thực hiện quán tưởng này. Hơn nữa tôi cảm thấy có thể tốt hơn khi sửa đổi kỹ thuật trên cho những hành giả giống như chúng ta : Hãy để cho tánh giác của bạn ở yên trong bản tánh của chính nó, không tập trung vào tim bạn mà ở đỉnh đầu, tưởng tượng tâm của bạn không chia biệt với tâm của A Di Đà. Bất cứ cái gì xuất hiện, như cái nhìn thấy màu trắng, màu đỏ hay màu đen, chớ chú tâm vào những đặc tính của cái nhìn thấy mà chỉ chú tâm vào tánh giác. –
Dolpupa toàn giác nói :
Dù cho nhiều thứ tốt xấu xuất hiện, (thật ra) không có gì để tốt hay xấu.
Mọi sự là sự nhảy múa của Pháp thân.
Như thế, chỉ đơn giản quan sát bất cứ cái gì xuất hiện
Không hy vọng lo sợ, lấy hay bỏ, xác nhận hay phủ nhận.
Hãy yên nghỉ trong tánh bình đẳng, thoát khỏi mọi tạo tác ý niệm.
Nếu có ai ở với bạn thì không có khoảng hở trong đó bạn xao lãng,
Sau khi hơi thở bên ngoài ngừng và trước khi hơi thở bên trong tắt,
Bạn sẽ an trụ trong trạng thái tịnh quang, như trong một sự hôn mê,
Tới ba, bốn, năm, sáu ngày hay hơn.
Nếu trước đó bạn đã nhận diện rõ ràng bản tánh và đã quen biết triệt để với nó,
Bạn sẽ hòa tan trong trạng thái tịnh quang của tánh giác,
Dù bạn không tan vào, điều này vẫn cao hơn
Sự thiền định nhọc nhằn khác trong hàng tháng, hàng năm không ngừng.
– Một hành giả có kinh nghiệm mà thân thể không bị quấy nhiễu có thể ở lại trong sáu ngày trong trạng thái tiếp theo sự dứt hơi thở bên ngoài, nhưng trước sự dứt hơi thở bên trong. Thực hành vẫn tiếp tục, và nhờ xác quyết tánh giác, một người như vậy có thể yên nghỉ trong tịnh quang của tánh giác trong tiến trình chết. Với kinh nghiệm có trước nào đó, trong tiến trình chết người ta có thể chứng ngộ trong chỉ vài khoảnh khắc, điều mà phải hàng tháng hàng năm thực hành trong cuộc đời. Điều này cho một dịp may rất quý báu để thực hành. Tuy nhiên, nếu không có kinh nghiệm từ trước, thì khi đi vào giai đoạn cuối cùng của tiến trình chết bạn như trở nên hôn mê. –
Trách nhiệm của người phụ trợ cho người chết là chú trọng vào tư thế thân thể người chết. Thân thể có thể ở trong tư thế sư tử ngủ ; mắt khép hờ, miệng nên mỉm cười. Nếu người chết thiền định về bản tánh cốt lõi của tâm, và nếu những chứng ngộ tốt đẹp sanh khởi, đó là thực hành lành mạnh. Với những người bám luyến vào những kinh nghiệm lạc, trong sáng và vô niệm, thân thể họ có một vẻ đẹp rực rỡ v.v... Những người đã an lập vững vàng trong giai đoạn phát sanh sẽ làm mạnh thêm thực hành của họ bằng cách để cho tánh tỉnh giác của họ trụ nơi chủng tử tự ở tim. Nếu họ không ngừng đi vào quán chiếu, họ tiến bộ trên con đường mà không bị lạc. Có người không có thực hành và thậm chí không có cả những giáo huấn nhưng vẫn ở lại trong thân với vẻ đẹp rực rỡ và oai nghiêm là do bị chiếm hữu bởi những càn thát bà và những hồn linh xấu ác và cản trở chứ không phải là chứng ngộ.
Nếu tịnh quang không được nhận biết, thì vừa khi tỉnh giác và vật chất tách lìa. Tịnh quang thứ hai xuất hiện. Có nói rằng vào lúc đó nếu người phụ trợ lại nói, “Chớ xao lãng khỏi thực hành tâm linh của bạn”, người chết có thể lại nhận biết sự thực hành và không mê lầm dù sau khi tỉnh giác và vật chất đã hoàn toàn tách rời. Đại Toàn Thiện cho một giải thích rộng rãi về cách người ta được giải thoát theo sau những xuất hiện của tám cách thức tan rã.
Dù thực hành không được duy trì, thức người ta vẫn ở trong thân mà không có tỉnh giác. Những người tội rất nặng và những người tính khí quá xấu sẽ đi đến một địa ngục bằng một lỗ phía dưới thấp sau thời gian một bữa ăn. Nếu sự chuyển di thành công, người ta sẽ đi lên một cõi thanh tịnh bằng lối đỉnh đầu. Nếu đến một cõi vô sắc, khi chết tâm người ta ở trong khoảng không gian nơi mức độ trái tim và 80.000 năm họ hôn mê, không có tỉnh giác. Ngoài ba trường hợp này, tiến trình quá độ sẽ xuất hiện, và người ta ở lại một ngày, hay đến sáng ngày thứ ba. Tuyển Tập Kadam nói rằng một số người ở lại bảy ngày, thế nên thực hành chuyển di cho đến lúc đó là thích hợp.
Những xuất hiện sanh khởi như thế nào nếu thực hành không được duy trì, Những Giáo Huấn của Quán Thế Âm về Giải Thoát Tự Nhiên khỏi những Trạng Thái Khốn Khổ của Hiện Hữu nói :
Nếu tự làm chủ chưa thành tựu, sau ba ngày con trở nên hôn mê, và với ý nghĩ, “Tôi là ai ?” con không tin vào chính mình. Những xuất hiện thất thường sanh khởi, và con cảm thấy như bị để trong một hang động của ánh sáng, những bindu, và những cầu vồng. Ngay trên sự phát sanh thình lình thân thể con như là Quán Thế Âm và để yên tâm con trong định, thân con sẽ được trang nghiêm với những tướng và biểu tượng của giác ngộ, khác với thân thể xuất hiện bây giờ. Trong một khoảnh khắc, con sẽ giác ngộ hoàn toàn...
Cùng lúc đó con sẽ có những phẩm tính không thể diễn tả của ba hiện thân, tất cả sự sáng rỡ tự nhiên của năm trí bổn nguyên, những thần lực và hiểu biết cao hơn ; dù con đi đâu trong những cõi thanh tịnh, con cũng đã đạt được tự làm chủ. Con có thể đến Cực Lạc, Cung Điện của Ánh Sáng Hoa Sen, Abhirati và v.v..., chỉ bằng cách nghĩ đến chúng.
Những Giáo Huấn Trắng của Quán Thế Âm về Nghĩa của Tham Thiền Ban Ngày nói :
Hỡi thiện nam tử ! Nếu tiến trình quá độ thứ nhất không được nhận biết, trong tiến trình quá độ thứ hai toàn thể vũ trụ được tràn đầy với những ánh sáng năm màu của trí huệ bổn nguyên hiện diện tự nhiên. Mọi ánh sáng đều chuyển động, và những tia sáng phát xuất mạnh mẽ như những vũ khí. Hãy biết rằng chúng là sự sáng chói tự nhiên của trí huệ bổn nguyên tánh giác của chính con. Do làm thế, con sẽ là bậc Tỉnh Thức trong tiến trình quá độ thứ hai.
Hỡi thiện nam tử ! Nếu nó không được nhận biết, tiến trình quá độ thứ ba gọi là “ba thứ những âm thanh, ánh sáng và tia sáng” sẽ xảy ra. Trong những ánh sáng này sẽ hiện đến những sắc tướng hòa bình và hung nộ của Quán Thế Âm, với nhiều tay và nhiều mặt khác nhau, để huấn luyện chúng sanh như họ cần. Hãy biết rằng những cái đó khởi phát từ chính con. Trong môi trường của chúng sẽ sanh khởi những âm thanh của một ngàn tiếng vang rền của sấm, những ánh sáng sẽ dọi đến và những tia sáng phóng chiếu mạnh mẽ như cơn mưa vũ khí. Chớ hốt hoảng bởi những hiện thân này. Chớ sợ những âm thanh. Chớ hãi những ánh sáng. Chớ kinh hoàng vì những tia sáng. Hãy nhận biết chúng là những xuất hiện của chính con.
Cũng thế, Những Giáo Huấn của Quán Thế Âm về Giải Thoát Tự Nhiên khỏi những Trạng Thái Khốn Khổ của Hiện Hữu nói :
Tất cả những thực hành của thân, ngữ, tâm của con sẽ trong sáng hơn một trăm lần bây giờ. Như thế, về thân của con, với sự kiêu hãnh thiêng liêng của thực hành yoga bổn tôn, nó sẽ giống như toàn thể thế giới hiện tượng hòa trộn với ánh sáng và tia sáng. Về ngữ của con, mọi âm thanh của yoga thần chú sẽ trống không, như những tiếng vang của những âm thanh du dương của sáu âm. Về tâm của con, yoga của tự thân thực tại, bao gồm quang minh và tánh không không thể phân chia, sẽ giống như sự không thể phân chia của mặt trời và ánh sáng. Bất cứ âm thanh, ánh sáng, tia sáng và những hình tướng khác nhau nào xuất hiện, không có sợ hãi, con sẽ được giải thoát khi chúng tự nhiên xuất hiện như chính bản thân con. Bởi thế, đây là cái cao nhất của mọi giáo huấn chỉ dạy thực hành sâu xa.
Nếu con không giải thoát ở đây, tất cả những chúng hội của một trăm loại hiện thể an bình và hung nộ cao cả, gồm những bổn tôn an bình, hung nộ và hung nộ nhẹ nhàng, sẽ dần dần xuất hiện. Những cái nhìn thấy những lưu xuất sẽ xuất hiện trong bảy, mười bốn hay hai mươi ngày. Có lúc con sẽ chạy trốn trước những sắc tướng ấy, con sợ hãi những ánh sáng, những bindu, những âm thanh và không thể nhìn những tia sáng. Vào lúc đó hãy thiền định về Đức Quán Thế Âm. Hãy trì tụng sáu âm. Hãy tham thiền tất cả ánh sáng là ánh sáng của tự mình, tất cả âm thanh là âm thanh của tự mình, tất cả sắc tướng là sắc tướng của tự mình, xuất hiện và trống không, và hãy tham thiền tất cả tia sáng là những tia sáng tự nhiên xuất hiện của tự mình. Sau hai tuần rưỡi, con sẽ biết rằng con đã chết, và nhìn xác cũ của con, con sẽ không thể trở lại. Con có nói gì với bà con và bạn bè, họ sẽ không trả lời. Bấy giờ con có một cảm thức buồn bã và khốn khổ không thể chịu đựng. Vào lúc đó, nếu con nghĩ đến bổn tôn Quán Thế Âm và thần chú sáu âm, sự sợ hãi của con sẽ tự nhiên lắng xuống.
Những Giáo Huấn của Hoa Sen Bình An và Hung Nộ của Quán Thế Âm nói :
Tốt nhất là sự chuyển di đến chỗ ở của những dakini. Hãy có quyết định này : “Than ôi ! Sau bao nhiêu kiếp vô số không thể tính đếm từ thời vô thủy, tôi vẫn còn ở trong đầm lầy của vòng sanh tử luân hồi này. Khốn nạn làm sao ! Sao tôi không được giải thoát trong quá khứ, khi đã từng có nhiều vị Phật ? Bây giờ tôi kinh tởm và khủng khiếp vòng sanh tử này. Tôi phải trốn thoát. Bây giờ tôi sẵn sàng thoát đi. Tôi phải được sự tái sanh kỳ diệu giữa một hoa sen bừng nở trong sự hiện diện của Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc phương Tây.” Suy nghĩ như vậy, hãy tập trung mạnh mẽ sự mong mỏi tha thiết của con đối với cõi Cực Lạc phương Tây. Hoặc có thể tập trung sự mong mỏi tha thiết của con vào một cõi Phật con ao ước, Abhirati, Ghanavyuha, Atakavati, Núi Potala, được ở trong sự hiện diện của Orgyen trong Cung Điện Ánh Sáng Hoa Sen, hay bất cứ cõi Phật khác mà con muốn. Hãy tập trung vào nó một cách nhất tâm, không xao lãng, và con sẽ tức khắc được sanh vào đó. Bằng cách tập trung nguyện vọng của con với ý nghĩ, “Vào dịp này của trung ấm, thời đã đến để tôi đi vào sự hiện diện của Pháp của Ajita ở Tusita (Đâu Xuất)”, con sẽ được sanh một cách kỳ diệu trong trái tim của một hoa sen trong sự hiện diện của Di Lặc.
– Điều quan trọng nhất là bạn thực hành bây giờ. Không đủ nếu chỉ nghe và đọc những giáo lý. Bạn phải suy nghĩ về chúng và quan trọng hơn hãy thiền định. Cái đó mới đem lại sự chuyển hóa. –
Tantra của Đại Dương của Trí Huệ Bổn Nguyên nói :
Đây là những giáo huấn quý báu để đạt được chứng ngộ vững chắc
Khi đứng trước những sợ hãi lớn lao của trạng thái trung ấm.
Đây là những giáo huấn quý báu để không ngớ ngẩn vụng về
Khi đứng trước những sợ hãi lớn lao của trạng thái trung ấm.
– Trong trung ấm, có sự lợi lạc lớn lao khi thành tựu được chứng ngộ vững chắc trong sự hợp nhất giai đoạn phát sanh và giai đoạn thành tựu. Ngày nay, những giáo lý của nhiều truyền thống đang thịnh hành – Ấn giáo, Boššn, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Phật giáo Tây Tạng... Mỗi cái có giá trị riêng của nó, nhưng để được lợi lạc đầy đủ từ chúng, cốt yếu là không trộn lẫn chúng với nhau. Nếu bạn tùy tiện “hòa hợp” mọi truyền thống này lại, có lẽ bạn chẳng có lợi lạc gì, thế nên tôi gợi ý bạn cần chú tâm vào một truyền thống đặc biệt bạn chọn và theo đúng con đường đó. –
Truyền Thống Dawa Gyaltsen của Những Giáo Huấn Cốt Lõi của Quán Thế Âm nói :
Trong sự tham thiền về tiến trình quá độ của trở thành
Con sẽ có một hình tướng của trở thành chưa từng có,
Những khả năng giác quan của con sẽ trọn vẹn, con sẽ có thể di chuyển không ngăn ngại ;
Và với cái nhìn thấy thanh tịnh thiêng liêng con sẽ thấy những người ngang với con...
Trong tiến trình quá độ, thân bạn là mạn đà la của bổn tôn, ngữ bạn là mạn đà la của thần chú, và tâm bạn là mạn đà la của samadhi. Nếu bạn không lìa khỏi ba mạn đà la này, bạn sẽ là bậc Thức Tỉnh khỏi những sợ hãi v.v... của trạng thái trung ấm. Truyền thống Tshombu của Những Giáo Huấn Cốt Lõi của Quán Thế Âm nói rằng bằng cách thiền định về những giai đoạn phát sanh và thành tựu ở cửa vào tử cung, thì không cần thiền định nào khác.
– Vào lúc tiến trình quá độ của trở thành, bạn đối mặt với sự nhập thai, tái sanh lần nữa ở một trong sáu cõi. Bạn sẽ cố gắng lấy một thân khác. Ở điểm này hãy từ từ ! Hãy quán tưởng những chúng sanh này, họ xuất hiện như những giống đực và những giống cái và làm khởi dậy sự bám luyến và gây ra sự tức giận của bạn, hãy quán tưởng họ như là bổn tôn với phối ngẫu – là Vajrasattva, Quán Thế Âm, hay Guru Rinpoche. Dù là bổn tôn an bình hay hung nộ, hãy quán tưởng bổn tôn đã chọn với phối ngẫu, và thực hành giai đoạn phát sanh. Nếu bạn có thể thực hành giai đoạn thành tựu, khi gặp những chúng sanh đó, hãy thấy họ như sự hợp nhất của những xuất hiện và tánh không, với bổn tôn nam tượng trưng những xuất hiện, và nữ là tánh không. Bằng cách đó bạn sẽ đóng tử cung, và không tái sanh, bạn sẽ giải thoát. Trong một số trường hợp, như một tulku muốn làm lợi lạc cho những người khác, một người muốn tìm ra một nam và nữ căn bản tốt đẹp và hoàn cảnh thuận lợi cho mình và những người khác. Với cảm thức lòng bi này, một người như vậy đi vào tử cung trong khi tưởng tượng bà mẹ là phối ngẫu thiêng liêng và tử cung của bà là một cung điện. Bấy giờ bằng cách phát sanh chính mình là chủng tử tự của bổn tôn đã chọn và vào cung điện của tử cung, sự mang thai xảy ra. –
Những Giáo Huấn của Quán Thế Âm về Giải Thoát Tự Nhiên khỏi những Trạng Thái Khốn Khổ của Hiện Hữu nói :
Sau sáu tuần, tâm trở nên rối loạn, và những tiếng ồn vô biên, khủng khiếp được nghe. Những âm thanh của đất, nước, lửa và không khí, cùng với những âm thanh của năm nguyên tố hòa hợp xuất hiện. Vào lúc đó, nếu con đem vào tâm âm thanh của mani padme hum, điều này sẽ giúp đỡ con.
Rồi con bị chìm ngập bởi những tia sáng, và con mất cảm giác về một con đường. Lúc đó sẽ giúp ích khi tập trung vào thực tại của định không tạo dựng trong bản thân thực tại.
Rồi năm ánh sáng và sáu con đường xuất hiện. Sáu lối của sáu trạng thái sanh tử là trắng, vàng, đỏ, lục, xanh và đen. Khi con đi lối trắng, những xuất hiện của chư thiên sẽ sanh khởi. Cũng thế, lối lục là của a tu la, vàng của người, đen của thú vật, xanh nhạt của quỷ đói, và đỏ sậm là của chúng sanh địa ngục. Lúc đó, nếu con cầu nguyện thầy của con, bổn tôn đã chọn và những dakini, các vị sẽ tiên tri, “Ta là bổn tôn đã chọn của con. Hãy tụng chú căn bản. Hãy đi con đường trắng ! Đây sẽ là chỗ tốt cho con tái sanh, và thân con sẽ như thế này. Đây sẽ là Pháp của con.” Sự tiên tri đó sẽ thành sự thật.
Bấy giờ con sẽ kinh nghiệm một cái nhìn thấy một sự sanh khởi đồng thời của thần và quỷ luận về tội và công đức của con. Vào ngay lúc đó, con sẽ nhớ lại Quán Thế Âm, con sẽ chiến thắng và có khả năng tái sanh nơi thuận cảnh.
Sau bảy tuần, con sẽ có cảm giác có một thân thể, và con sẽ tự hỏi, “Tôi sẽ tái sanh đi đâu và vào loại thân nào ?” Bằng năng lực khí của con, con sẽ gặp Pháp trong đời tới. Bổn tôn Quán Thế Âm ban cho những ơn phước không thể nghĩ bàn.
Những Bài Kệ về Con Đường Phương Tiện Thiện Xảo của Phagmo Drušpa nói :
Hãy tạo thành tư tưởng này :
Với ý định tái sanh một cách kỳ diệu
Trong tịnh độ Cực Lạc,
Hay trong tịnh độ của Padmavati,
Hãy lập một quyết tâm vững chắc.
Theo cách này, hãy đi đến cõi Tịnh Độ ấy.
– Tất cả chúng ta đều mong muốn hạnh phúc, nhưng mong muốn thì chưa đủ. Phải đi vào những thực hành nghe, suy nghĩ và thiền định, với sự nhấn mạnh vào thiền định. Nhưng dù vậy vẫn chưa đủ ; chúng ta phải thiền định với sự tự tin và sự phó thác. Chúng ta phải đặt sự tin cậy hết lòng vào những bậc giác ngộ đã phát lộ Pháp cho chúng ta. Chỉ có sự tin tưởng tuyệt đối mới khiến chúng ta tiến bộ trong thiền định. Nếu bạn có sự nghi ngờ nào rằng bạn không sanh vào Cực Lạc được, chắc chắn bạn sẽ không được sanh. Nếu bạn vất bỏ mọi nghi ngờ và có đức tin rốt ráo rằng bạn sẽ được sanh ở đó, bạn sẽ được. Về chuyện đó xin chớ có nghi ngờ nào !