BÀI THỨ TƯ                I. CHỦNG TỬ SANH                RA THỨC    Chúng sanh khi                mới thọ sanh, đều y ở Thức A lại da mà lần lần tượng thành năm căn                là: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, cho đến khi ra khỏi thai. Vì cái                tác dụng của mỗi Thức không đồng nên có thể phân ra làm tám loại.                Phàm mỗi một Thức nào khi sanh ra, đều do chủng tử  từ trong Thức                A lại da mà sanh cả.    Như khi mắt xem                hoa, thì có một chủng tử (hạt giống) từ  trong Tạng thức khởi ra                hiện hành, làm cho con mắt có tác dụng “thấy hoa”, gọi là “Nhãn                thức” (cái biết của mắt). Khi tai nghe tiếng , thì có một chủng                tử  từ trong Tạng thức khởi ra hiện hành làm cho lỗ tai có tác                dụng “nghe tiếng” gọi là “Nhĩ  thức”  (cái biết của tai). Khi mũi                ngửi mùi thì có một chủng tử từ trong Tạng thức khởi ra hiện hành                làm cho lỗ mũi biết ngửi mùi, thì gọi là “Tỹ thức” (cái biết của                lỗ mũi). Cho đến y Thiệt căn (lưỡi) khởi lên cái biết nếm vị, gọi                la øThiệt thức (cái biết của lưỡi), y thân căn khởi lên cái biết                cảm xúc các vật cứng, mềm gọi là Thân thức, (cái biết của thân) y                Ý căn khởi lên cái biết phân biệt các pháp trần thì gọi là Ý thức.                II CĂN LÀ CHỖ Y                CHỈ CỦA THỨC    “Thức” là cái hay                phân biệt, còn “Căn” là cái khí cụ để chứa Thức. Nếu “Căn” mà                không có “Thức”, thì không thể khởi ra cái tác dụng phân biệt                được. Cũng như người chết tuy có “Nhãn căn” mà không thể thấy                được.    Còn “Thức” mà                không có “Căn”, thì không có cái gì để chứa lại, dù có chủng tử đi                nữa, cũng không thể khởi ra hiện hành. Như người nhắm mắt lại, chỉ                dùng tai hay mũi để xem hoa, thì không thể thấy được.  III. THỨC THỂ                THÌ CHƠN, MÀ THỨC TƯỚNG  LẠI TỤC    Về tướng dụng của                Thức tuy có tám món; nhưng nếu đứng về Thể mà nói, thì chỉ có một                cái “Thức A lại da”, nay  dẫn một bài kệ trong  Kinh Lăng Già để                nói rõ.    Bài kệ nói:                “Tâm, ý, thức bát                chủng  Chơn cố tướng vô                biệt  Tướng, sở tướng vô                 cố.”    Nghĩa là: Tâm, Ý                và Thức có tám món; đứng về tục đế thì “tướng” nó có khác, còn về                Chơn đế thì “tướng” nó lại không khác; vì Năng tướng và Sở tướng                đều không vậy.    Trong bài kệ này                nói chữ “Tâm”, tức chỉ cho Thức thứ tám  A lại da. Nghĩa chữ “Tâm”                là “nhóm lại và sanh ra”. Vì nó hay chứa nhóm hạt giống của các                pháp, rồi sanh ra hiện hành nên gọi là “Tâm”.    Trong bài kệ nói                chữ  “Ý” tức chỉ cho Thức thứ bảy là Mạt na. Nghĩa chữ “Ý” suy                nghĩ lo lường. Vì nó thường suy nghĩ  lo chấp Thức A lại da làm                “Ta”, nên gọi là “Ý”.    Trong bài kệ nói                chữ “Thức”, tức là chỉ chung cho sáu Thức trước: Nhãn thức, Nhĩ                thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức. Chữ “Thức” nghĩa là                “phân biệt”. Vì sáu Thức  này nó có năng lực phân biệt rất thù                thắng, cho nên kêu là “Thức”.  IV. TÂM VÀ THỨC                KHÔNG HAI    “Thể” của Thức                thì một, mà “dụng” của Thức thì lại chia ra có  tám Thức, nếu hiệp                lại thì còn ba:Tâm, Ý và Thức. Trong bài kệ nói chữ “tục”, tức là                chỉ về phần “dụng” của Thức; có ba Thức hoặc tám Thức v.v… riêng                khác. Trong bài kệ nói chữ “Chơn”, là chỉ về phần “thể”, chỉ có                một bản thể Thức A lại da, không có ba Thức hay tám Thức riêng                khác.    Tại sao thế? -Vì                phần “thấy” và phần “bị thấy” đều chỉ là Thức. Như khi mắt xem                hoa, thì cái “phân biệt” đó là kiến phần (phần thấy) của Nhãn                thức. Còn cái hoa bị phân biệt là  tướng phần (phần bị thấy) của                Nhãn thức. Phần “thấy” và phần “bị thấy” đều từ một Thức mà sanh,                nguyên nó không thật có; cho nên bài tụng nói: “năng tướng và sở                tướng đều không”.- Năng tướng và sở tướng của một Thức còn không,                thì làm gì lại riêng có ba Thức hay tám Thức.    Xét một bài kệ                này, thì biết Duy thức tức là Duy tâm”. Nên tuy bàn về Thức tướng                có phân biệt, nhưng mà thật ra là quy về Chơn tâm vô phân biệt. Có                người nghi rằng: Duy thức không bằng Duy tâm; hoặc chê Duy thức                chỉ kể suông  những danh từ và hành tướng của Thức mà không đạt                đến chỗ chơn tâm thật tướng. Phê phán như thế, không khác nào như                người si mà nói việc mộng, lại thêm phân biệt thế này xấu, thế nọ                tốt v.v… thật đáng thương xót!    Thức  1-      Thể (chơn):                Chơn như (nhứt tâm)  2-      Dụng (tục):                Tâm: A lại da                                            Ý: Mạt na                                            Thức: Sáu thức trước. 
NÓI VỀ TƯỚNG CỦA THỨC CHIA VÀ HIỆP 
(CÓ BỐN ĐOẠN)
Tục cố tướng hữu biệt 
