BÀI THỨ BA                I. CHỦNG TỬ CỦA                NHƠN SANH (HẠT GIỐNG CỦA LOÀI NGƯỜI)    Duy thức học là                môn học vấn để thực hành; cho nên mỗi vấn đề đều lấy những việc                hiện tiền  ở thế gian để chứng minh. Những điều chúng ta cần biết                gấp hơn hết là vấn đề:    Chúng ta sanh ra                đây, từ đâu mà đến? Và khi chết rồi sẽ đi về đâu?    Nay dùng Duy thức                học để giải thích cái nguyên do của nhơn sanh. Vậy trước hết xin                dẫn một bài kệ trong Khế Kinh để giải thích.    Bài kệ nói:                Vô thỉ thời lai                “giới”  Nhứt thiết pháp                đẳng y.  Do thử hữu chi thú,                Cập Niết bàn chứng                đắc.    Nghĩa la:ø có một                cái “nguyên nhân”, mà nguyên nhân ấy nó đã có từ hồi nào giờ. Các                pháp đều y nơi đó sanh ra, tất cả chúng sanh do nơi đó mà có, quả                Niết bàn cũng từ nơi đây mà đặng.    Tại sao bài kệ                này có thể chứng minh được cái nguyên do của nhơn sanh? –Phải suy                nghĩ và suy nghĩ thật nhiều mới hiểu được.    Trong bài kệ nói                chữ “giới”, là chỉ cho cái “nguyên nhân”, cũng tức là “chủng tử” (hạt                giống) của các pháp. Theo Duy thức thì nói: “Tất cả các pháp,                không có một pháp nào chẳng do “chủng tử” mà sanh. Loài cỏ cây                trong thế gian còn do chủng tử  sanh, thì nhơn loại quyết định                cũng có chủng tử sanh.  II. CÁC PHÁP CÓ                VÀ KHÔNG, THỈ  VÀ CHUNG     Các pháp tuy                nhiều nhưng tóm lại có thể chia ra làm ba món:  a) Hữu thỉ và hữu                chung. Thân thể của con người, do cha mẹ sanh ra, “hữu thỉ”, đến                khi già chết, là “hữu chung”.  b) Vô thỉ và vô                chung. Bản thể của A lại da thức và các chủng tử vô lậu thanh tịnh                thuần thiện chứa trong Thức này, đều “vô thỉ và vô chung”.                 c) Vô thỉ mà hữu                chung. Cái “tướng” (dụng) của A lại da thức và các chủng tử hữu                lậu tạp nhiễm chứa trong Thức này, đều “vô thỉ mà hữu chung”.                III. A LẠI DA                THỨC VÔ THỈ VÀ VÔ CHUNG    Tại sao biết Thức                A lại da là “vô thỉ vô chung”? – Vì Thức này chứa nhóm chủng tử                của các pháp. Như bài kệ trong Khế kinh đã nói “… Tất cả các pháp                đều y nơi Thức này…” (nhứt thiết pháp đẳng y). Bởi thế , nên Thức                này nếu có chung tận, thì tất cả các pháp cũng phải mất hẳn, vì                không có chỗ nương tựa. Như thế thì thành ngoại đạo, vì chấp đoạn                diệt. Trong Đạo Phật không có cái thuyết đoạn diệt. Nên   biết A                lại da thức quyết định vô chung.  Cái loài cỏ cây v.v…                đều thấy có bắt đầu sanh (hữu thỉ); còn Thức A lại da này, khi                chúng sanh chưa sanh, nó nẫn có trước (vô thỉ), khi chúng sanh                chết rồi nó vẫn không diệt (vô chung). Mặc dù chúng sanh, sanh                sanh tử tử, trải qua trăm ngàn muôn kiếp, nhưng trọn không thể tìm                được chỗ sanh khởi hay thôi dứt của Thức này, nên Thức này không                những “vô chung” mà  cũng là “vô thỉ”.  IV. CHƠN NHƯ VÀ                VÔ MINH ĐỒNG THỜI CÓ    Hạt giống vô lậu                trong Thức A lại da là  cái “chánh nhơn” để thành Phật, nên kêu là                Phật tánh” cũng gọi là “Chơn như”. Còn hạt giống hữu lậu trong                Thức này, là cái “nghiệp nhân” để thành chúng sanh nên kêu là                “phiền não nghiệp chướng” cũng gọi là “vô minh”.    “Chơn như” và “vô                minh” cái nào có trước, cái nào có sau, hay đồng thời có? – Tôi                thường thấy trong thế gian, có những sách vở nói tương tợ như                 sách Phật, giải thích rất lầm về vấn đề này. Như có nhà nói “Chơn                như vì không bảo thủ được tự tánh, nên thoạt sanh một niệm vô minh”,                 (Chơn như bất thủ tự tánh, hốt sanh nhứt niệm vô minh). Người nói                như thế, là chủ trương cho “Chơn như” có trước, “vô minh” có sau;                “Chơn như” vô thỉ, còn “vô minh” lại hữu thỉ. – Nếu “Chơn như” vốn                là Phật mà lại thoạt sanh một niệm “vô minh” biến thành chúng sanh;                như thế thời tất cả chư Phật đã thành, đều có thể thoạt sanh trở                lại một niệm vô minh mà biến làm chúng sanh nữa? Vậy thì mười                phương ba đời của Đức Phật, quyết định không có một vị nào thành                Phật được cả. Giả sử Phật có nói như vậy nữa, chúng ta cũng không                nên tin, vì đồng với ma thuyết. Nhưng, hiện nay mười phương thế                giới quyết định có những vị đã thành Phật mà không trở lại làm                chúng sanh nữa. Vậy cho biết: “Vô minh phiền não” cùng với “Chơn                như” quyết định đồng thời và có từ vô thỉ.  V. VÔ MINH CÓ                CÙNG TẬN    “Vô minh” tuy có                từ vô thỉ, nhưng có khi lại cùng tận. Bởi vì, “Chơn như” cùng với                “vô minh” đồng chứa trong A lại da thức. Cũng như “cam lồ” cùng                với “độc dược” đồng chứa trong một cái bình. Nếu người ăn vị “cam                lồ” thì sống còn uống nhằm “độc dược” thì chết. Bất luận người nào                ai cũng ham sống sợ chết, cho nên người học Phật  cốt yếu là đoạn                trừ vô minh trong  A lại da thức, để hiển hiện Chơn như. Cũng như                người nghiêng đổ độc dược trong bình, lưu lại vị cam lồ để dùng.                Bởi thế nên biết “vô minh phiền não”, vô thỉ mà hữu chung.                 VI. CHÚNG SANH                VÔ THỈ  MÀ HỮU CHUNG    Trong bài kệ                trước nói: “Có một nguyên nhân, mà nguyên nhân ấy nó có từ hồi nào                đến giờ” (vô thỉ thời lai giới), tức là chỉ “cái nguyên nhân” sanh                ra chúng sanh, đã chứa trong A lại da thức từ vô thỉ đến nay.                  Trong bài kệ về                câu: “Tất cả các pháp đều y ở nguyên nhân này mà sanh khởi”, nhứt                thiết pháp đẳng y). Nghĩa là: Tất cả các pháp trong thế gian và                xuất thế gian đều bình đẳng, y ở nơi Thức này mà sanh ra.                   Trong bài kệ về                câu: “Các cõi chúng sanh đều  từ nơi đây mà co” (do thử hữu chư                 thú). Nghĩa là: Do Thức này chứa đựng các hạt giống hữu lậu tạp                nhiễm, rồi do các Thức giống ấy, nó sanh khởi hiện hành, thành ra                có chúng sanh trôi lăn trong sáu thú là: Thiên, Nhơn,A tu la, Địa                ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh. Bởi thế nên nói: “chúng sanh có từ  vô                thỉ”.    Trong bài kệ về                sau: “Cũng từ nơi đây mà chứng đặng đạo quả Niết bàn” (cập  Niết                bàn chứng đắc). Nghĩa là: Nếu hạt giống vô lậu thanh tịnh khởi lên                (hiện hành), đoạn trừ  hết vô minh nghiệp chướng, thì chứng Niết                bàn hay thành quả Phật, nên nói chúng sanh phải có cùng tận.                  Bởi thế nên người                muốn biết nguồn gốc của nhân sanh, mà không học  Duy thức thì                không thể hiểu được. 
NÓI VỀ CHƠN VỌNG VÀ SANH DIỆT 
(CÓ SÁU ĐOẠN)
