BÀI THỨ HAI                I. NĂNG VÀ SỞ                ĐỀU DUY THỨC    Chữ “Duy” nghĩa                là “chỉ” hay “riêng một”. Nói Duy thức là nói tất cả sự vật hình                hình sắc sắc trong vũ trụ đều không thật có, chỉ do Thức biến hiện;                không có một vật nào ngoài Thức. Muốn rõ nghĩa này, phải căn cứ                trên nghĩa “Thức là hiểu biết phân biệt” mà bàn. Như núi, sông,                đất, nước v.v…  là những cảnh vật “bị (sở) hiểu biết phân biệt”;                còn mắt, tai, mũi, lưỡi v.v… của chúng ta, là cái Thức “hay (năng)                hiểu biết phân biệt”. Nếu không có núi, sông là cảnh vật “bị phân                biệt”,thì cũng không thể tự đâu mà khởi ra cái “hay (năng) phân                biệt” được. Trái lại, nếu không có mắt, tai, mũi, lưỡi v.v… là cái                “Thức hay phân biệt”; thì cũng không thể phân biệt được cảnh vật                “bị phân biệt”. Bởi thế, nên “năng phân biệt” (cái hiểu biết) và                “sở phân biệt” (vật bị hiểu biết) như một, không thể rời nhau; cho                nên nói là “Duy thức”. Cũng như   “tánh hay chảy” của nước, cùng                với “dòng nước bị chảy” đều đồng một thể, là nước.  Duy thức (nước)                1-      Hay phân                biệt – tánh hay chảy (ướt)  2-      Bị phân                biệt – dòng nước bị chảy  II. CÁC ẢNH                TƯỢNG ĐỀU DO DUY THỨC BIẾN HIỆN    Nói “Duy thức”                nghĩa là nói “muôn sự muôn vật trong thế gian này, đều là cái ảnh                tượng do Duy thức biến hiện, không có một vật nào chân thật cả”.                Cũng như trong nhà tối không có ánh sáng, thoạt đốt một ngọn đèn,                thời cả nhà đều sáng, cái ánh sáng đó là giả ảnh của đèn. Trong                Thái hư, không có thế giới và các sự vật, mà thấy có thế giới và                sự vật đó là giả danh, do Duy thức biến hiện.  III. DO DUY THỨC                BIẾN HIỆN, NÊN VỌNG THẤY CÓ CÁC CẢNH VẬT    HỎI: Thế giới nếu                thật không, tại sao hiện nay người ta đều thấy có thật?                   ĐÁP: Thí như                trong hư không, không có hoa đốm, nhưng vì người bệnh (nhặm) con                mắt, nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Và cũng như người mang                gương xanh thì thấy tất cả cảnh vật đều xanh; người mang gương                vàng thấy cảnh vật đều vàng v.v…    Hiện nay chúng                phàm phu, vọng thấy các cảnh vật đều thật có, là do “mắt nhặm” cả                (mê vọng). Cho đến các nhà học giả như khoa học, triết học v.v…                cũng đều thiên chấp một bên cho là thật có, mà bài xích về phương                diện khác cho là toàn không; đây cũng vì họ đeo cái gương màu vậy.                Nay bàn về Duy thức học, tức là để trừ bệnh nhặm mắt của kẻ phàm                phu và lột gương màu của hàng học giả, nên nói thẳng rằng “Tất cả                muôn vật đều Duy thức biến hiện”.  1-      Người chấp                có:  a)      Phàm phu (mắt                bệnh)  b)      Học giả (mang                gương màu)  2-      Người ngộ                Duy thức: Do Thức biến hiện  IV. ĐỊNH NGHĨA                CHỮ “PHÁP”    Trong Duy thức                nói “muôn pháp”, tức là người đời nói “muôn sự  muôn vật”. Nhưng                cái giới nghĩa của chữ  “muôn sự muôn vật” không rõ ràng và đích                xác bằng chữ “Pháp”. Vì theo nhà Duy thức định nghĩa chữ  “Pháp”,                là “cái gì nó gìn giữ được bản thể của nó, làm cho người ta trông                đến nhận biết đó là vật gì, thì kêu là một pháp (nhậm trì tự tánh,                quỹ sanh vật giải). Cũng như cái chén để trên bàn đây, bởi nó gìn                giữ được hình thể của nó, cho nên người ta trông đến thì biết đó                là cái chén. Phải có nghĩa rõ ràng và nhất định như thế, mới gọi                là “một pháp”. 
NÓI VỀ YẾU CHỈ CỦA DUY THỨC 
(CÓ BỐN ĐOẠN)
Muôn vật 
