Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

 

Luận Bốn

III. NHỊ TỔ (486-593)

Sau Bồ đề Đạt Ma, Huệ Khả là pháp từ[20] chánh thống của Đạo Thiền. Trước khi đến thọ Pháp với sơ tổ, Sư là một học giả uyên bác, không những tinh thông Phật giáo mà cả Khổng Lão giáo nữa, nhưng không cái học nào thỏa mãn được Sư; dường như Sư có chứng được gì riêng, và mong được tổ Đạt Ma trắc nghiệm lại. Sau ngày từ giã Tổ cất bước du phương, Sư không hoằng hóa ngay, tạm lánh ẩn giữa lớp hạ lưu cùng khổ, không để lộ chân tướng một cao tăng trang nghiêm trí huệ[21]. Dầu vậy, Sư vẫn tùy duyên hoằng hóa. Sư luôn giữ vẻ điềm đạm khiêm cung, không phô trương ra ngoài. Ngày kia, trong khi Sư đang nói pháp ngoài cửa tam quan chùa Khuông Cứu thì trong chùa vị trụ trì học cao danh vọng là pháp sư Biện Hòa giảng kinh Niết Bàn. Bổn đạo ùn ùn bỏ vị pháp sư đứng giảng một mình ra bu quanh ông thầy giảng giữa trời, chắc là lúc ấy quần áo của Sư bê bối lắm, tuyệt không có gì tỏ ra thuộc hàng giáo phẩm. Pháp sư thấy vậy nổi giận, đến đầu cáo với quan trên rằng ông đạo ăn mày kia truyền tà giáo, do đó Huệ Khả bị bắt, và bị xử giảo. Khả không hề kêu oan, một mực bình thản thuận theo, cho rằng đúng với luật nhân quả Sư có một món nợ cũ phải trả. Nội vụ xảy ra trong năm 593, Sư thọ một trăm linh bảy tuổi.

Theo Đạo Tuyên, biệt tài của Huệ Khả do tự tâm phát ra, tuyệt không dấu vết tầm chương trích cú. Ngày kia Sư giảng về pháp Thiền ở một đô thị lớn, có một số người nặng chấp văn tự cho là Sư nói pháp tà ma ngoại đạo. Nhất là trong số ấy có ông Đạo Hoằng (?), một tăng sĩ chuyên về tĩnh tọa cầm đầu đồ chúng ngàn người, liền có thái độ chống báng với Huệ Khả. Ông sai một chú tiểu đến với Huệ Khả, có lẽ dụng ý dọ coi chân tướng của đối phương, nhưng chú này vừa nghe Sư giảng cái gọi là tà đạo thì bỗng chốc chấn động tinh thần và cải hối xin học Thiền. Đạo Hoằng lại sai một chú tiểu khác đi gọi chú trước về, như chú sau lại cũng theo gót luôn chú trước. Nhiều chú tiểu khác được sai đi, nhưng kết quả vẫn là không. Sau này Đạo Hoằng tình cờ gặp lại chú tiểu đầu tiên, quở: “Sao chú để ta kêu gọi nhiều lần vậy? Ta chẳng tốn bao cơn khó để mở mắt cho chú sao?” Chú tiểu đáp một cách bí hiểm: “Mắt tôi từ bao giờ vẫn thẳng, vì ông nên nó đâm ra lé”. Câu nói xúc phạm mạnh khiến Đạo Hoằng căm giận vô cùng, và theo Đạo Tuyên, vì những thủ đoạn của vị Sư này mà Huệ Khả bị quan trên xử giáo.

Sự tích trên thuật lại theo Đạo Tuyên trong Cao Tăng truyện khác với Sự tích của Đạo Nguyên chép lại trong Truyền Đăng lục, nhưng cả hai đều đồng ý cho Huệ Khả là một thánh tử đạo chết trong tay địch thủ. Chắc chắn trong lối dạy Thiền của Đạt Ma cũng như của người đệ tử Trung Hoa đầu tiên là Huệ Khả có cái gì khó hiểu đối với hầu hết Phật tử đương thời mảng lo hoặc đàm huyền luận diệu, hoặc tu tập thiền quán, hoặc thuần tu giới hạnh. Nên những người xiển đương đạo thiền phải nhấn mạnh vào chân lý đánh thức dậy tự thâm tâm, dầu phải vì thế mà gây xáo trộn cho tinh thần thánh giáo của kinh và luận mà nhiều bản dịch đã được lưu hành. Điều ấy ắt gây công phẩn cho hàng thủ cựu và “trước văn”.

Cũng như Đạt Ma, Huệ Khả không lưu lại bút tích nào mặc dầu trong tiểu sử có ghi rằng những bài pháp của hai ngài đều được sưu tập lại, và riêng của Huệ Khả còn được xếp loại nữa. Dầu vậy, đoạn trích văn sau đây còn giữ lại có thể rọi vài tia sáng vào Thiền pháp của Nhị Tổ Huệ Khả.

Có người tên là Hướng cư sĩ nghe tin Huệ Khả thạnh hóa bèn viết thơ gởi đến, lời lẽ như sau: 

“Bóng do hình mà dậy,

Vang theo tiếng mà lên.

“Nhọc hình đùa với bóng, nào hay gốc bóng là hình,

Cao tiếng lấp âm vang, chẳng biết nguồn vang là tiếng.

“Đoạn phiền não hướng đến Niết Bàn, nào khác bỏ hình kiếm bóng,

Lìa chúng sanh mong cầu Phật quả, chẳng qua dứt tiếng tìm vang.

Mới biết: mê ngộ một đường, trí ngu chẳng khác.

“Không tên đặt thành tên, bởi có tên nên phải trái lắm đường.

Chẳng lý bày ra lý, vì có lý nên cãi bàn đủ vẻ.

“Huyễn hóa chẳng chân, sao rằng phải trái,

Hư vọng không thực, lấy gì có không 

“Thế nên: được không chỗ được, mất không chỗ mất.

“Y mọn trình lên, ngưỡng mong Hòa Thượng chỉ giáo”.

Nhị Tổ phúc thư rằng :

Xem qua ý ấy đều như thực

Cái lý chân u chẳng biệt thù

Mê nói ma ni là ngói gạch

Hốt nhiên tỉnh dậy rõ là châu

Vô minh trí huệ nguyên không khác

Muôn pháp đều “như” lọ phải cầu

Thương kẻ chấp thường và chấp đoạn

Mấy lời gói ghém thảo tờ thư

Quán thân cùng Phật nào sai biệt

Hà tất Niết Bàn kiếm mãi ru![22]
 
 

TAM TỔ TĂNG XÁN

(-606)

Tiếp theo Huệ Khả là Tăng Xán thừa tiếp ngôi Tổ vị thứ ba. Cuộc đối thoại giữa sư và đệ diễn ra như sau, theo Truyền Đăng Lục :

Một cư sĩ tuổi ngoài bốn mươi đến đảnh lễ Huệ Khả bạch:

“Đệ tử mắc chứng phong dạng[23] ,thỉnh Hòa Thượng từ bi sám hối tội giùm!”

Sư nói: “Đưa cái tội ra đây ta sám cho.”

Cư sĩ hồi lâu bạch: “Đệ tử kiếm tội mãi mà chẳng thấy đâu cả.”

Sư nói: “Thế là ta đã sám xong tội của ngươi rồi đó. Từ nay, ngươi khá y nơi Phật Pháp Tăng mà an trụ.”

Cư sĩ bạch: “Nay tôi thấy Hòa Thượng thì biết đó là Tăng, nhưng chưa rõ thế nào là Phật và Pháp.”

Sư nói : “Là tâm là phật, là tâm là Pháp, pháp và Phật chẳng hai, Tăng bửu cũng y nhiên là vậy.”

Cư sĩ bạch: “Nay tôi mới biết tội tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa[24] cũng như tâm, Phật là vậy, pháp là vậy, chẳng phải hai vậy”. 

Cư sĩ được Huệ Khả thế phát, sau đó biệt dạng mất trong đời ít ai rõ được hành tung. Một phần là do nạn ngược đãi Phật giáo ở đời Bắc Châu, do vua Võ Đế chủ xướng. Đến năm thứ mười hai đời Khai Hoàng, nhà Tùy, Tăng Xán tìm được bậc pháp khí để truyền lại ngôi Tổ vị, đó là Đạo Tín.

Đạo Tín bạch: Cúi xin Hòa Thượng từ bi chỉ cho đệ tử con đường giải thoát.

Sư (Tăng Xán) hỏi: Ai trói ngươi?

Tín bạch: Không ai trói hết?

Sư nói: Vậy sao còn cầu giải thoát?

Tín phát đại ngộ ngay “dưới lời nói” , bỏ công chín năm khổ cầu.

Tăng Xán biết cơ duyên đã đến bèn trao cho Đạo Tín làm tín vật cái áo pháp truyền lại từ sơ tổ: Đạt Ma, rồi thu thần tịch diệt vào năm 606[25] .

Tổ Tăng Xán hầu như sống ẩn dật suốt đời, nhưng ta có thể nhận ra tư tưởng của Tổ qua một thi phẩm luận về lòng tin có tên là Tín Tâm Minh, là một trong những bút tích của các Thiền sư góp phần xứng đáng nhất vào sự luận giải tông chỉ Thiền. Sau đây là nguyên văn và bản dịch:

Chí đạo vô nan Đạo 

duy hiềm giản trạch 

đản mạc tắng ái 

đỗng nhiên minh bạch
 

Hào li hữu sai 

thiên địa huyền cách                

dục đắc hiện tiền 

mạc tổn thuận nghịch  

Vi thuận tương tranh 

thị vi tâm bịnh 

bất thức huyền chỉ 

đồ lao niệm tịnh 

 

Viên đồng thái hư

vô khiếm vô dư 

lương do hủ xa 

sở dĩ bất như  
 

Mạc trục hữu duyên 

vật trụ không nhân 

nhứt chủng bình hoài 

dẫn nhiên tự tận 
 

Chí động qui chỉ 

chỉ cánh di động 

duy trệ lưỡng biên 

ninh tri nhứt chủng  
 

Nhứt chủng bất thông 

Lưỡng xứ thất công

khiển hữu một hữu 

tòng không bối không  
 

Đa ngôn đa lự

chuyển bất tương ưng

tuyệt ngôn tuyệt lự

vô xứ bất thông 
 

Quy căn đắc chỉ

tùy chiếu thất tông

tu du phản chiếu

thắng khước tiền không  
 

Tiền không chuyển biến

giai do vọng kiến

bất dụng cầu chơn

duy tu tức kiến 
 

Nhị kiến bất trụ 

thận vật truy tầm 

tả hữu thị phi 

phấn nhiên thất tâm 
 

Nhị do nhứt hữu 

nhứt diệc mạc thủ 

nhứt tâm bất sanh 

vạn pháp vô cữu  
 

Vô cữu vô pháp 

bất sanh bất tâm 

năng tùy cảnh diệt 

cảnh trục năng trầm 
 

Cảnh do năng cảnh 

năng do cảnh năng 

dục tri lưỡng đoạn 

nguyên thị nhứt không 
 

Nhứt không đồng lưỡng 

tề hàm vạn tượng 

bất kiến tinh thô 

ninh hữu thiên đảng 
 

Đại đạo thể khoan 

vô dị vô nan

tiểu kiến hồ nghi

chuyển cấp chuyển tri 
 

Chấp chi thất độ

tâm nhập tà lộ 

phóng chi tự nhiên 

thể vô khứ trụ  
 

Nhiệm tánh hiệp đạo 

tiêu dao tuyệt não 

hệ niệm quai nhơn 

trầm hôn bất hảo  
 

Bất hảo lao thần 

hà dụng sơ thân 

dục thú nhứt thặng 

vật ố lục trần  
 

Lục trần bất ác 

hoàn đồng chánh giác 

trí giả vô vi 

ngu nhơn tự phược  
 

Pháp vô dị pháp 

vọng tự ái trước 

tương tâm dụng tâm 

khởi phi đại thác  
 

Mê sanh tịch loạn 

ngộ vô hảo ác 

nhứt thiết nhị biên 

vọng tự châm chước  
 

Mộng huyễn không hoa 

hà lao bá tróc 

đắc thất thị phi 

nhứt thời phóng khước  
 

Nhãn nhược bất thụy 

chư mộng tự trừ 

tâm nhược bất dị 

vạn pháp nhứt như 
 

Nhứt như thể huyền 

ngột nhĩ vong duyên 

vạn pháp tề quán 

quy phục tự nhiên 
 

Dẫn kì sở dĩ 

bất khả phương tỉ 

chỉ động vô động 

động chỉ vô chỉ 

lưỡng ký bất thành 

nhứt hà hữu nhĩ  
 

Cứu cánh cùng cực 

Bất tổn quỹ tắc 

khế tâm bình đẳng 

sở tác câu tức 
 

Hồ nghi tận tịnh 

chánh tín điều trực 

nhứt thiết bất lưu 

vô khả ký ức 

hư minh tự nhiên 

bất lao tâm lực  
 

Phi tư lượng xứ 

thức tình nan trắc 

chơn như pháp giới 

vô tha vô tự 
 

Yếu cấp tương ưng 

duy ngôn bất nhị 

bất nhị giai đồng 

vô bất bao dong 

thập phương trí giả 

giai nhập thử tông  
 

Tông phi xúc diên 

nhứt niệm vạn niên 

vô tại bất tại 

thập phương mục tiền  
 

Cực tiểu đồng đại 

vong tuyệt cảnh giới 
 

Cực đại đồng tiểu 

bất kiến biên biểu 
 

Hữu tức thị vô 

Vô tức thị hữu 
 

Nhược bất như thị 

Tất bất tu thủ 
 

Nhứt tức nhứt thiết 

Nhứt thiết tức nhứt 
 

Đản năng như thị 

Hà lự bất tất  
 

Tín Tâm bất nhị 

Bất nhị Tín Tâm 
 

Ngôn ngữ đạo đoạn 

Phi cổ lai câm 
 Đạo lớn chẳng gì khó

cốt đừng chọn lựa thôi

quý hồ không thương ghét

thì tự nhiên sáng ngời
 

Sai lạc nửa đường tơ

đất trời liền phân cách

chớ nghĩ chuyện ngược xuôi

thì hiện liền trước mắt 
 

Đem thuận nghịch chỏi nhau

đó chính là tâm bịnh

chẳng nắm được mối huyền

hoài công lo niệm tịnh 
 

Tròn đầy tợ thái hư

không thiếu cũng không dư

bới mảng lo giữ bỏ

nên chẳng được như như 
 

Ngoài chớ đuổi duyên trần

trong đừng ghì không nhẫn

cứ một mực bình tâm

thì tự nhiên dứt tận  
 

Ngăn động mà cầu tịnh

hết ngăn lại động thêm

càng trệ ở hai bên

thà rõ đâu là mối 
 

Đầu mối chẳng rõ thông

hai đầu luống uổng công

đuổi có liền mất có

theo không lại phụ không  
 

Nói nhiều thêm lo quẩn

loanh quanh mãi chẳng xong

dứt lời dứt cho quẩn 

đâu đâu chẳng suốt thông  
 

Trở về nguồn nắm mối

dõi theo ngọn mất tông

phút giây soi ngược lại

trước mắt vượt cảnh không 
 

Cảnh không trò thiên diễn

thảy đều do vọng kiến

cứ gì phải cầu chơn

chỉ cần dứt sở kiến 
 

Hai bên đừng ghé mắt

cẩn thận chớ đuổi tầm

phải trái vừa vướng mắc

là nghiền đốt mất tâm 
 

Hai do một mà có

một rồi cũng buông bỏ

một tâm ví chẳng sanh

muôn pháp tội gì đó  
 

Không tội thì không pháp

chẳng sanh thì chẳng tâm

tâm theo cảnh mà bặt

cảnh theo tâm mà chìm 
 

Tâm là tâm của cảnh

cảnh là cảnh của tâm

ví biết hai đằng dứt

rốt cùng chỉ một không 
 

Một không, hai mà một

bao gồm hết muôn sai

chẳng thấy trong thấy đục

lấy gì mà lệch sai  
 

Đạo lớn thể khoan dung

không dễ mà chẳng khó

kẻ tiểu kiến lừng khừng

gấp theo và chậm bỏ  
 

Chấp giữ là nghiêng lệch

dấn tâm vào nẻo tà

cứ tự nhiên buông hết

bổn thể chẳng lại qua  
 

Thuận tánh là hiệp đạo

tiêu dao dứt phiền não

càng nghĩ càng trói thêm

lẽ đạo chìm mê ảo 
 

Mê ảo nhọc tinh thần

tính gì việc sơ thân

muốn thẳng đường nhứt thặng

đừng chán ghét sáu trần  
 

Sáu trần có xấu chi

vẫn chung về giác đấy

bậc trí giữ vô vi

người ngu tự buộc lấy 
 

pháp pháp chẳng khác pháp

do ái trước sanh lầm

há chẳng là quấy lắm

sai tâm đi bắt tâm 
 

Mê sanh động sanh yên

ngộ hết xấu hết tốt

nhứt thiết việc hai bên

đều do vọng châm chước 
 

Mơ mộng bão không hoa

khéo nhọc lòng đuổi bắt

chuyện thua được thi phi

một lần buông bỏ quách 
 

Mắt ví không mê ngủ

mộng mộng đều tự trừ

tâm tâm ví chẳng khác

thì muôn pháp nhứt như  
 

Nhứt như vốn thể huyền

bằn bặt không mảy duyên

cần quán chung như vậy

muôn pháp về tự nhiên  
 

Đừng hỏi vì sao cả

thì hết chuyện sai ngoa

ngăn động chưa là tịnh

động ngăn khác tịnh xa

cái hai đà chẳng được

cái một lấy chi mà...  
 

Rốt ráo đến cùng cực

chẳng còn mảy quỹ tắc

bình đẳng hiệp đạo tâm

im bặt niềm tạo tác  
 

Niềm nghi hoặc lắng dứt

lòng tin hòa lẽ trực

mảy bụi cũng chẳng lưu

lấy gì mà ký ức

bổn thể vốn hư minh

tự nhiên nào nhọc sức  
 

Trí nào suy lượng được

thức nào cân nhắc ra

cảnh chân như pháp giới

không người cũng không ta  
 

Cần nhất hãy tương ưng

cùng lẽ đạo bất nhị

bất nhị thì hòa đồng

không gì chẳng bao dong

 mười phương hàng trí giả

đều chung nhập một tông 
 

Tông này vốn tự tại

khoảng khắc là vạn niên

đều có không không có

mười phương trước mắt liền  
 

Cực nhỏ là cực lớn

đồng nhau, bặt cảnh duyên 
 

Cực lớn là cực nhỏ

đồng nhau, chẳng giới biên 
 

Cái đó là cái không

Cái không là cái có  
 

Ví chửa được vậy chăng

Quyết đừng nên nấn ná  
 

Một tức là tất cả

Tất cả tức là một 
 

Quý hồ được vậy thôi

Lo gì chẳng xong tất  
 

Tín Tâm chẳng phải hai

Chẳng phải hai Tín Tâm  
 

Lời nói làm đạo dứt

Chẳng kim cổ vị lai

Xem mục lục