Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

TIẾT I. PHẬT GIÁO THỜI VƯƠNG TRIỀU CÂP ÐA

Sự hưng suy của Vương triều

Vương triêu Cấp Ða được lập nên vào năm 320 sau Công nguyên, bởi vua Chiên Ðà La Cấp Da (Chánh Cần Nhật Vướng). Ðóng đô tại thành Hoa Thị, thống lĩnh cả khu vực trung Ấn Ðộ, vị vua đời thứ hai là Sa Mổ Ðà La(1), tức vua Tân Nhật, ông chính phục cả đông bộ và nam bộ Ấn Ðộ. Ðến vị vua thứ ba của vương triều này là vua Chiên Ðà La II(2), ông đem quân tấn công và xâm lược cả tây bộ và bắc bộ Ấn Ðộ, thống lĩnh cả vùng bình nguyên Ấn Ðộ và một bộ phận của Bàng Gia Phổ, gồm luôn địa vức của bán đảo Gia Ðê A Ðê Nhĩ, đây là thời đại toàn thịnh của vương triều Cấp Ða.

Nhưng mặt khác, là thế kỷ thứ V tây lịch, tộc người Bạch Hung Nô (tức tộc người Ephihal) luôn thực hiện chính sách tầm thực về phía tây bắc Ấn Ðộ, đầu tiên họ đánh chiếm nước Kiền Ðà La. Từ sau khi vua Phật Ðà Cấp Ða (Buddha - gupta) của triều Cấp Ða chết đi, thì vào năm 500 tây lịch hoặc trước đôi chút, có Thổ Lạp Ma Na (Toramàna) của tộc Bạch Hung Nô, thừa lúc triều Cấp Ða bị nội loạn bèn đánh chiếm vùng trung Ấn Ðộ. Ðây là nguyên nhân dẫn đến sự băng hoại của vương triều Cấp Ða. Và rồi người con của Thổ Lạp Ma Na là Ma Hê La Cự La (Mihirakura, 502-542 tây lịch) trở thành ông vua của vùng trung Ấn Ðộ. Cũng trong thời gian này, vua Ða Thâu Ðà Nhĩ Man (Yasùodharman) của nước Ma Lạp Bà khởi quân đánh đuổi Ma Hê La Cự La, khiến ông vua này phải bỏ vùng Trung Ấn chạy đến Ca Thấp Di La, đó là năm 528 tây lịch. Ðịa phương Trung Ấn lại được chi duệ của vương triều Cấp Ða cai quản, dù chỉ còn lại một vùng đất hẹp thuộc địa phận Ma Yết Ðà và được xem như một nước chư hầu. Ðấy là sự kế tục của vương triều Cấp Ða thời hậu kỳ(3)

Ở mạn nam Ấn Ðộ, sau khi vương triều Án Ðạt La bị diệt vong, lại có tộc người Ba La Kỳ (Pallava) chiếm cứ vùng Kiến Chí Bổ La (Kànõcipura) và lập nên vương triều Ba La Kỳ, vào năm 225-900 tây lịch.

- Bà La Môn giáo phục hưng

Nét văn hóa đặc sắc của vương triều Cấp Ða đó là chủ nghĩa phục cổ của Bà La Môn giáo. Từ thời vua Ca Nị Sắc Ca cho đến trước khi vương triều Cấp Ða bị diệt vong, trong khoảng thời gian bốn trăm năm, từ thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ năm tây lịch, trong thời gian này Ấn Ðộ không có giặc ngoại xâm, chủ nghĩa phục hưng của Bà La Môn giáo cũng dựa vào thế lực của vương triều Cấp Ða mà bộc khởi và đạt đến cực thịnh. Từ thời vua A Dục trở lui, do sự phát triển của Phật giáo đã trở thành truyền thống tín ngưỡng và thâm nhập vào tầng lớp hạ lưu của xã hội, trước tình hình như vậy nên Bà La Môn giáo cũng trải qua những chỉnh lý, tu chính, và kết hợp theo thông tục tín ngưỡng và thâm nhập vào tầng lớp hạ lưu của xã hội, trước tình hình như vậy nên Bà La Môn giáo cũng trải qua những chỉnh lý, tu chính, và kết hợp theo thông tục tín ngưỡng dân gian của phái Thấp Bà, là sùng bái Duy Tu Nô, tạo thành tư thái Tân Ấn Ðộ giáo (Hinduism) và khởi sự phục hưng. Tân Ấn Ðộ giáo là sự kết hợp giữa nền văn minh của dân tộc Nhã Lợi An với văn hóa của dân tộc đầu tiên đến Ấn Ðộ, nhưng khởi nguyên là từ “Bạc Già Phạn Ca” trong “Ðại Chiến Thi” của kinh Vệ Ðà. Thời ấy Phật giáo Tiểu thừa càng lúc càng biến thành tư tưởng học thuật hóa, trong khi đó nội bộ Phật giáo lại diễn ra cuộc tranh chấp ưu liệt, cao thấp về nghĩa lý, và ngày càng xa rời những sinh hoạt của dân gian về mặt tín ngưỡng mang tính đại chúng. Chưa nói là sự phục hưng của Ấn Ðộ giáo đặt cơ sở trên tín ngưỡng dân gian đã được thông tục hóa; cạnh đó các nhà Ấn Ðộ giáo họ cũng tham cứu triết lý Phật giáo để bổ sung những gì họ thiếu, nhằm cứu vãn trước nguy cơ có tính thời đại này mà Ðại thừa Phật giáo xuất hiện.

Dưới triều Cấp Ða, Phạn ngữ cổ điển (Classical Sanskrit) được phục hưng, và được coi là thứ ngữ văn có nhiều công dụng. Ðiều này liên dquan đến sự phục hưng của Bà La Môn giáo; công tác dịch và viết Phật điển Ðại thừa bằng Phạn văn được hoàn thành, đại loại cũng có quan hệ đến sự phục hưng Phạn ngữ dưới thời của vương triều Cấp Ða.

Về mặt tín ngưõng, các vị vua của triều Cấp Ða đều lấy Bà La Môn giáo làm cơ sở, chẳng hạn hai vị vua là Sa Mổ Ðà La Cấp Ða, và Ca Ma la Cấp Ða Nhất thế (Kumàra- gupta), hai vị vua này cử hành lễ đại tế mã tự, dù tế lễ này từ vương triều Huân Ca đến giờ, tại trung Ấn chưa từng cử hành. Ðây là sự thực hiển nhiên. Do đó, đối với Phật giáo, vương triều này có phần lãnh đạm.

Tuy nhiên, trong những vị vua của triều Cấp Ða cũng có vị biểu thị sự hảo cảm đối với Phật giáo, hoặc có vị tôn sùng Phật giáo chứ không phải không có. Như trong “Thế Thân Truyện” chép việc vua Chánh Cần Nhật là Hương Kha La Ma A Dật Ða từng cúng dường Bồ tát Thế Thân tam lạc sa kim và vua Tân Nhật là Bà La Dật Ðê thì quy y với Bồ tát Thế Thân. Ngoài ra, ngài Thế Thân còn được người con kế nghiệp của vua Tân Nhật và vương phi của vua thỉnh mời Ngài lưu ngụ tại A Du Xà (cung điện hoàng gia). Những việc này tuy chưa biết là có bao nhiêu sự thực, nhưng ít ra cũng phản ảnh đương thời vương thất của triều Cấp Ða là có hảo cảm đối với Phật giáo.

Ở phần trước có nói đến vị tướng của tộc người Bạch Hung Nô là vua Ma Hê La Cự La bị chinh phục, và buộc phải thối lui khỏi vùng trung Ấn. Người chinh phục là vua Da Thâu Ðà Nhĩ Man của nước Ma Lạp Bà. Nhưng trong truyện ký của Huyền Trang, thì người đánh đuổi vua Hung Nô lúc ấy là vua Bà La A Ðiệt Ða Nhị thế (Bàlàdiya II) người hậu kỳ của vương triều Cấp Ða.

Trang 117, trong cuốn “Ấn Ðộ Thông Sử” của Chu Tường Quang, chép là hai vua liên hiệp với nhau để dánh đuổi, đồng thời mở lối thoát cho vua Hung Nô, có thể là phóng thích sau khi bắt được. Ðể kỷ niệm cuộc chinh chiến thắng lợi, vua Bà La A Ðiệt Ða bèn kiến tạo một ngôi đại Phật tự - đó là chùa Na Lan Ðà rất nổi tiếng.

- Giáo nạn tại bắc Ấn Ðộ.

Vua Ma Hê La Cự La từ phương bắc xâm lược vào bắc bộ Ấn Ðộ; ông nhìn Phật giáo bằng con mắt cực đoan ghen ghét, và chỉ muốn hủy diệt Phật giáo, nên khi thế lực đủ mạnh, ông bèn lăng nhục Phật giáo bằng cách tàn sát. Có thuyết nói là sau khi ông được tha cho về lại bắc Ấn Ðộ, tức lãnh địa Ca Thấp Di La; tại đây ông ra sức hủy diệt chùa, tháp đạt đến con số 1600 ngôi. Cuốn “Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện(4) kể rằng, lúc bấy giờ có vị Tỳ kheo được người đời xưng tụng là Sư Tử đang làm Phật sự tại Kế Tân (tức Ca Thấp Di La) thì bị “Di La Quật” sát hại, pháp thống nhân đấy mà dứt. Di La Quật là lối dịch khác của Ma Hê La Cự La, có nơi lại dịch à Mật Hy Ha La (Mihirkula). Nhân sự kiện này, về sau các sử gia thường lấy vua Ma Hê La Cự La sánh với vua Bổ Sa Mật Ða La của vương triều Huân Ca.

- Chùa Na Lan Ðà.

Theo “Ðại Ðường Tây Vực Ký”, quyển chín của Huyền Trang, thì chùa Na Lan Ðà tính đến khi kiến tạo phần tiên khởi xong “cách sau Phật Niết bàn không lâu, vị tiên vương của nước này là vua Thước Ca La A Dật Ða (tiếng nhà Ðường gọi là Ðế Nhật) là người kính trọng nhất thừa, tôn sùng Tam Bảo, tìm nơi phúc địa để kiến tạo ngôi Già lam này”. Và qua các đời vua kế tiếp như vua Phật Ðà Cúc Ða Hán dịch là Giác Hộ), vua Ðát Tha Yết Ða Cúc Ða (Hán dịch là Như Lai), vua Bà La A Ðiệt Ða (Hán dịch là Huyễn Nhật), vua Phạt Xà Ca (hán dịch là Kim Cang) thay nhau xây dựng thêm cho đến vị vua thứ sáu là vua Giới Nhật mới thật sự hoàn thành. Nhưng dưới thời của triều Cấp Ða, ngoài vua Bà La A Ðiệt Ða của thời hậu kỳ chứ không phải là vị vua nào khác tham gia kiến tạo chùa Na Lan Ðà, vì vua Giới Nhật là người của vương triều Phạt Ðàn Na (tức Giới Nhật vương triều). Theo truyền thuyết của Tây Tạng, thì ngài Vô Trước, ngài Thế Thân cũng từng lưu trú tại chùa Na Lan Ðà để hoằng thông đại pháp. Nhưng kinh sách Hán dịch chưa nghe nói đến sự việc này. Ngay như những ghi chép về cuộc Ấn du của Pháp Hiển và Trí Mãnh, cũng không thấy đề cập gì đến tên chùa Na Lan Ðà.

Căn cứ sự khảo sát từ nhiều phía, thì ghi chép của Huyền Trang cho rằng “Sau Phật Niết bàn chẳng bao lâu” thì chùa Na Lan Ðà được khởi tạo, điều này thiếu xác thực. Có thuyết cho rằng chùa Na Lan Ðà do vua Huyễn Nhật thuộc hậu kỳ của vương triều Cấp Ða sáng lập. Sau khi cân nhắc, thuyết này có thể tin được. Theo tư liệu được tìm thấy, thì vị danh đức trú trì chùa Na Lan Ðà đầu tiên là ngài Ðức Huệ hoặc ngài Hộ Pháp, ngài Hộ Pháp sống vào khoảng từ năm 530 đến năm 561. Thời gian này rơi vào thời hậu kỳ của triều Cấp Ða. Từ năm 535 đến năm 730 tây lịch.

Thực ra, thì gốc gác của nền chùa Na Lan Ðà là ngôi vườn Ám Ma La có từ thời đức Phật còn tại thế, và đức Phật cũng đã từng ở nơi này thruyết pháp trong thời gian ba tháng. Trước và sau khi Huyền Trang đến Ấn Ðộ, đúng vào thời vua Giới Nhật đang trị vì. Thời ấy chùa Na Lan Ðà có hơn hai trăm thực ấp. Lúa gạo và tô lạc mỗi ngày dùng đến cả trăm thạch. Chùa có đến chín ngôi (công trình phụ), tọa lạc lên trên khu đất rộng bốn mươi tám nghìn mét vuông, tăng chúng thường trú đến một vạn người. Ngôi đại tự này của đất nước Ấn Ðộ đã khiến nhiều quốc gia phải ngưỡng mộ và nghiễm nhiên ngôi đại tự này trở thành học phủ tối cao, và duy nhất có một của Phật giáo.

Bảng danh sách liệt kê chư vị đại sư trú trì chùa Na Lan Ðà có những vị sau: Ðức Huệ, Hộ Pháp, Hộ Nguyệt, Kiên Nguyệt, Quang Hữu, Thắng Hữu, Trí Nguyệt, Giới Hiền, Trí Quang, Nguyệt Xứng và các luận sư như Ðạt Ma Cúc Ða v.v... Huyền Trang tam tạng là người Trung Hoa đầu tiên lưu học tại chùa Na Lan Ðà. Ðồng thời Huyền Trang đại chấn thanh danh cũng tại chùa này, những vị sư tăng người Trung Hoa nối tiếp Huyền Trang lưu học tại chùa Na Lan Ðà có: Nghĩa Tịnh, Ðạo Lâm, Huyền Chiếu, Ðạo Sanh, An Ðạo, Trí Hoằng, Ðạo Hy, và Vô Hành. Những tăng nhân người Ấn Ðộ từng đến Trung Hoa hoằng pháp có Ba La Phã Ca La Mật Ða La, Ðịa Bà Ha La, Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí, Bát Lạt Nhã v.v... những vì này cũng từng cầu học tại chùa Na Lan Ðà.

Những vị danh đức trú trì, đầu tiên họ biến chùa Na Lan Ðà thành học phủ thịnh hành, của Duy thức học phái, và sau đó họ khiến chùa Na Lan Ðà thành học phủ của Ðại thừa Mật giáo.

- Tình hình chung của Phật giáo.

Cao Tăng truyện quyển ba, phần viết về “Pháp Hiển Truyện”(5) có chép về tình hình Phật giáo tại Ấn Ðộ thời bấy giờ, rằng cả Tiểu thừa và Ðại thừa đều thịnh hành (Pháp Hiển đi Tây vức vào đời Ðông Tấn, triều vua An Ðế, năm Long An thứ ba, đến năm Nghĩa Hy thứ mười thì trở về lại kinh đô Thẩm Dương tức từ năm 399 đến năm 416 tây lịch).

Tại bắc bộ Ấn Ðộ có bảy nước, chép rõ là có hai nước học Tiểu thừa, một nước học thì phần lớn học Tiểu thừa, một nước học cả Tiều và Ðại thừa. Như vậy cá nước tại bắc Ấn Ðộ Tiểu thừa chiếm ưu thế.

Tại trung Ấn Ðộ có mười hai quốc gia và khu thành, ghi rõ là một nước học theo Tiểu thừa, một nước đa số học Tiểu thừa, một nước học cả về Ðại thừa và Tiểu thừa, có thể cho là Ðại thừa có vẻ lấn hơn.

Pháp Hiển đến Ấn Ðộ và lưu học Phật pháp tại thành Hoa Thị, thành này ở đông Ấn Ðộ. Những Thánh điển ông học được gồm: Tát Bà Ða Chúng Luật, Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận, Ðản Kinh, Phương Ðẳng Bát Nê Hoàn Kinh, Ma Ha Tăng Kỳ A Tỳ Ðàm v.v... Như vậy, có thể thấy đương thời tại đông Ấn Ðộ cả Ðại thừa và Tiểu thừa đều song hành.

Theo phân tích của pháp sư Ấn Thuận về tình hình chung của Phật giáo thời ấy như sau:

1. Thời Vô Trước, Thế Thân, từ nam Kiền Ðà La chạy đến A Du Ðà (A Thâu Ðà) lấy nơi đây làm trung tâm; dọc theo biển phía tây đổ xuống bờ nam cùng tiếp xúc với học giả nam Ấn Ðộ. Ðấy là hệ học giả Duy thức hướng hoạt động của họ về nam Ấn Ðộ.

2. Phía đông của Ma Kiệt Ðà, theo những gì mắt thấy tai nghe của Pháp Hiển và Trí Mãnh, thì Phật giáo ở thành Hoa Thị, các học giả Ðại thừa phải dựa vào Bà La Môn giáo để đứng vững.

3. Cuối biển phái nam đến nước Sư Tử (Tích Lan), thì Ðại thừa và Thượng Tọa Bộ, cả hai cùng hoằng hóa ở khu vực này.

4. Thời ấy các học giả Ấn Ðộ đến Trung Hoa, như Ðàm Vô Sấm, Cầu Na Bạt Ma, đa phần các kinh, luận do họ dịch ra Hán văn đều có liên hệ đến việc giới thiệu Chân thường duy tâm luận. Căn do của Chân thường Ðại thừa, ấy là lấy từ “Tâm tánh bản Tịnh” của Ðại Chúng Bộ và của hệ Phân Biệt Thuyết dung hợp với “bất tức bất ly uẩn ngã” của hệ Ðộc tử mà thành “Chơn thường ngã”(6).

 

TIẾT II. PHẬT GIÁO VỚI VƯƠNG TRIỀU PHẠT ÐÀN NA

Vương thống Giới Mật được thành lập từ một tiểu bang với nhiều cây rừng vào thời hậu kỳ vương triều Cấp Ða thuộc trung Ấn Ðộ; tuy là một bá chủ nhưng tự xưng là quân vương, và cũng từng cử hành lễ Mã tự, lãnh thổ quốc gia thì nhỏ hẹp, chỉ thống lĩnh có hai địa khu là Ma Kiệt Ðà và Mãnh Gia Lạp. Vào thời ấy trong nhiều tiểu bang cùng suy cử Tháp Ni Tư Hoa Nhĩ (Thaneshvara) thuộc địa khu đông bộ Bàng Giá Phổ, vì khu này cường thịnh hơn. Người khai sáng bang Tháp Ni Tư Hoa Nhĩ là Phất Sa Phật Ðàn Na (Pashyavardhana) qua bốn lần truyền đến vị tù trưởng thứ năm là Ba La Yết La Phạt Ðàn Na (Prabhakaiavardhana) mới kiến lập nên vương triều Phạt Ðàn Na - tức vương triều Giới Nhật. Ba La Yết La Phạt Ðàn Na có hai người con trai, một có tên là La Xà PHạt Ðàn Na (Rajyavardhana), một có tên là Hạt Lợi Sa Phạt Ðàn na (Harshavardhana). Năm 604 Tây lịch, Ba La Yết Phạt Ðàn Na sai hai người con đem quân chinh phạt Bạch Hung Nô ở vùng đông Ấn, chẳng may người con thứ bị chết trong quân trận. Người con trưởng lên kế vị cha, lại thống suất đại quân đông chinh lần nữa để đánh đuổi Mã Nhĩ Hoa, lại chẳng may bị thổ vương bày ngụy kế vây hãm và giết chết; bèn đưa người con trai của vị vương tử thứ nhất lên tức vị, tuy mới mười sáu tuổi và lấy Khúc Nữ Thành (Kamyakubja - nay là Janauj) làm thủ đô. Vị vua này trong “Ðường Thư” của Trung Quốc gọi là vua Giới Nhật (năm 606-647 tây lịch). Vua Giới Nhật là người mà Huyền Trang gặp được lúc ông lưu học tại Ấn Ðộ.

Vua Giới Nhật là vị quốc vương vĩ đại cuối cùng của lịch sử cổ đại Ấn Ðộ, ông mở rộng bản đồ của Ấn Ðộ đến tận Hà Khẩu thuộc Nhã Lỗ Tạng Bố Giang,chạy thẳng đến Già Ðệ Ngõa Nhĩ, bao quát luân Bàng Giá Phổ, Mã Nhĩ Hoa, Khúc Nữ Thành, Tỷ Hiệp, Mãnh Gia Lạp, A Lý Sa, A Tát Mật v.v... biên cương bên ngoài vùng tây bắc; có thể nói ông là người chỉnh đốn, củng cố khắp khu vực tây bắc Ấn Ðộ tức khu vực nằm dưới sự thống trị của ông. Ông không những khuếch trương lãnh thổ Ấn Ðộ bằng võ công, mà ông còn vận dụng đạo đức và học vấn để chiêu cảm các thổ bang tự trị như Cưu Ma La, Ma Kiệt Ðà, Ni Bạc Nhĩ, Khách Thập Mễ Nhĩ, Ba La Tỳ (nay là Cổ Ca Lạp Ðê) v.v... qui thuận về vương triều Giới Nhật.

- Phật giáo với vua Giới Nhật.

Vua Giới Nhật là vị quốc vương có nhiều tài nghệ. Ông ở ngôi được bốn mươi mốt năm, ông dụng binh trong sáu năm, thời gian còn lại ông tập trung vào chính trị, văn hóa và tôn giáo. Năm Trinh Quán thứ mười lăm (641) đời vua Ðường Thái Tông, ông giao hảo với vua nhà Ðường của Trung Hoa, năm Trinh Quán thứ mười bảy (643) vua Ðường Thái Tông phái Vương Huyền Sách đi Ấn Ðộ. Chuyến đi này có lập bia ký lưu niệm tại Ma Kiệt DDaf. Những tạo tác về văn nghệ của vua Giới Nhật, như đã giới thiệu sơ lược ở chương bảy của sách này.

Về mặt tôn giáo, vua Giới Nhật vốn là tín đồ Ấn Ðộ. Nhưng về sau ông được Huyền Trang và đại đức Ðiệt Bà Ca Mạt Ða La (Divakarmitra) thuộc Tiểu thừa giáo cảm hóa, nhân đấy, ông quy tín Phật giáo. Nhờ vậy nên việc Phật giáo thường gặp pháp nạn trước đó, và nay dưới thời ông lại có cơ hội chấn chỉnh và phục hưng. Ðối với Phật giáo, công đức và thành tích nổi tiếng của ông có bốn việc sau:

1. Cấm chỉ sát sinh, khen thưởng người ăn chay.

2. Chiếu theo tiền lệ của vua A Dục để hoằng dương chánh pháp, như: kiến tạo tự viện, tạo thạch tháp, xây dựng phòng xá để cúng dường Sa môn, và những nơi dùng vào việc triều lễ thánh tích.

3. Mỗi năm một lần, triệu tập các vị Sa môn từ nhiều nơi vân tập về một trú xứ để cử hành đại hội, mục đích là thảo luận về Phật học, tán dương khen thưởng các bậc hiền giả, răn đe các vị ương ngạnh.

4. Năm năm một lần, cử hành đại hộiVô Giá, đồng thời đem tài vật ra bố thí cho dân chúng.

Tuy là thế, nhưng vua Giới Nhật vẫn giữ thái độ sùng kính đối với Ấn Ðộ giáo. Ðại đường Tây Vực ký của Huyền Trang có đoạn chép: “Tại đại hội Bát La Da Ca (Prayàga), ngày thứ hai vua lễ tượng thần Thái Dương, ngày thứ ba vua lễ tượng thần “Thấp Bà”. Thể đủ thấy tinh thần khoan hòa của vua Giới Nhật.

- Sự vinh quang của Tam tạng Huyền Trang trên đất Ấn.

Năm Trinh Quán thứ ba (629), đời vua Ðường Thái Tông, sư Huyền Trang  lên đường tây du sang Ấn Ðộ. Lưu học Phật pháp tại Ấn Ðộ mười bảy năm, sau đó mới về nước. Trong thời gian lưu học tại Ấn Ðộ, Huyền Trang thọ học Du Già Duy Thức, với sư Giới Hiền, theo ngài Như Lai Mạt, ngài Sư Tử Nhẫn v.v... để tập học Nhân Minh, Thanh Minh; và hướng về ngài Thắng quân để chọ Duy Thức Quyết Trạch luận. Ông trở lại chùa Na Lan Ðà và phụng mệnh ngài Giới HIền giảng bộ Nhiếp Ðại Thừa Luận và bộ Duy Thức Quyết Trạch Luận. Ông lĩnh hội và quán thông tông nghĩa của cả Trung Quán và Du Già. Ông trước tác bộ Hội Tông Luận với ba nghìn bài tụng, bấy giờ ông dùng luận này để giải đáp những gì ông giảng về Trung Quán luận và Bách Pháp Luận tại chùa Na Lan Ðà; đồng thời ông cũng dùng Hội Tông Luận để bác bỏ giáo nghĩa Du Già của Sư Tử Quang. Nhân đấy, danh tiếng của ông được đại chấn (vang dội).

Sau ông cùng với Hải Huệ, Trí Quang, Sư Tử Quang v.v... bốn vị Ðại đức đến yết kiến vua Giới Nhật theo lời thỉnh mời của quốc vương. Tại Cung vua, Huyền Trang bị luận sư Tiểu thừa chế tác bảy trăm bài tụng để phá giáo nghĩa Ðại thừa, Huyền Trang đích thân chế tác một nghìn sáu trăm bài tụng với tựa đề là “Chế Ác Kiến Luận” để phá đổ giáo nghĩa của sư Tiểu thừa. Nhờ đó, danh tiếng của Huyền Trang càng lừng lẫy thêm.

Mùa đông, năm Trính Quán mười sáu (642), vua Giới Nhật mở đại hội tại Khúc Nữ Thành, tại đại hộinày có mowif tám vị quốc vương cùng phó hội, với hơn ba nghìn tăng nhân cả Ðại và Tiểu thừa tham dự, chùa Na Lan Ðà cử hơn một nghìn tăng nhân đến dự, và có hơn hai nghìn tín đồ Kỳ Na Giáo cũng đến dự. Sư Huyền Trang được mời làm Luận Chủ của đại hội. Tại đại hội, Huyền Trang dùng bộ “Chân Duy Thức Lượng Tụng” do ông sáng tác để xưng dương Ðại thừa, và tuyên thị giữa đại chúng phó hội rằng: Nếu ai tìm thấy một chữ nào vô nghĩa lý trong bộ “Chân Duy Thức Lượng Tụng” nhân đó có thể phá được luận chủ, thì ông xin lấy đầu mình để tạ tội. Qua mười tám ngày đại hội, không thấy ai đưa ra luận nghĩa nào để kích phá lại Huyền Trang. Do đó, không có gì lạ, thịnh danh của Huyền Trang mãi đến ngày nây các học giả Phật giáo Ấn Ðộ vẫn còn sùng kính.

- Pháp nạn tại Ấn Ðộ.

Khi phụ vương của vua Giới Nhật là Ba La Yết La Phạt Ðàn Na còn trị vì, thì tại đông Ấn Ðộ có vị Thổ bang của nước Kim - Nhĩ ngày thêm cường thịnh, đó là quốc vương Thiết Thưởng Ca (Nguyệt), và ông dùng vũ lực để lấn chiếm phía tây Ấn Ðộ. Nơi nào ông đến, ông cũng hủy diệt Phật giáo. Như phá chùa, chôn sống tăng nhân, triệt phá cây Bồ Ðề nơi đức Phật thành đạo (Phật Ðà Ca Da). Chùa chiền và tăng chúng tại nơi đức Phật nhập Niết bàn. Câu thi Na La cũng đều bị thiêu hủy và tàn diệt. Có thuyết nói, thầy của Huyền Trang là đại luận sư Giới Hiền cũng bị ông vua này bắt và dọa chôn sống, nhưng sư Giới Hiền là một trong những người đào thoát được pháp nạn này.

Giáo nạn  xảy ra khắp nơi tận hai bên bờ sông Hằng. Khiến Phật pháp một thời bị suy đốn. Nếu không có việc vua Giới Nhật qui y Phật giáo, có khả năng huệ mạng Phật pháp nhân pháp nạn này mà tuyệt chủng chăng!

Vua Giới Nhật hướng về Bồ tát Quán Tự Tại mà cầu nguyện, và chỉ một lần xuất quân ông đánh thắng vua Thiết Thường Ca. Tiếc là vua Giới Nhật không có con nối nghiệp nên sau khi vua băng hà, vương triều Giới Nhật cũng theo đó mà lâm vào thời kỳ suy vong. Vua Giới Nhật duy nhất chỉ có một người con gái, và gả về cho vua Ấn Nhật của Bang Ba La Tỳ ở phương nam.

Sau khi vua Giới Nhật băng hà, các tiểu bang nổi lên tự tuyên bố độc lập, có nhiều tiểu bang không thừa nhận người kế vị do vua Giới Nhật tuyển chọn. Bấy giờ có vị đại thần của vua Giới Nhật tên là Khiếu Hữu Tu nghĩ rằng, ông là người kế vị vua Giới Nhật, nhưng ông kháng cự không tiếp sứ thần nhà Ðường là Vương Huyền Sách. Do đó, ông bị Vương Huyền Sách mượn vũ lực của Tây Tạng vây bắt, và tống ông và tù ở tận Trung Hoa.

Sau thời vua Giới Nhật, Bà La Môn giáo xuất hiện hai vị học giả kiệt xuất, một vị tên là Cưu Ma Lợi Bà Ða (Kumari Bhatta), vị kia tên là Thương Yết La A Xà Lê (Shankaracharya), ông này thuộc phái Phệ Ðàn Ða, cả hai đều ra đời trong cùng một thế kỷ 650-750 tây lịch. Cả hai ra sức khôi phục lại địa vị được tôn sùng cao nhất của kinh Vệ Ðà như buổi ban đầu của nó đã có, việc làm của họ vô tình công kích lại Phật giáo.

Tác phẩm vĩ đại của Cưu Ma Lợi Bà Ða là bộ “Vệ Ðà Chân Nghĩa Bình Luận”. Nhờ bộ luận thư này mà triết học Bà La Môn giáo được đại thành, nét đặc sắc của Phật giáo cũng nhân đấy mà bị tiêu tiêu thất; Kumaril Bhatta vân du trên toàn cõi Ấn Ðộ, ông là người biện tài vô ngại, rộng truyền học thuyết của mình và công kích Phật giáo. Ông là người bắc Ấn Ðộ, cóthuyết nói ông thuộc phái nam Ấn khi phái này thịnh hành. Bấy giờ trong hàng đệ tử Phật không ai có thể nghị luận thắng được ông; trong khi đó phương thức giảng học của chùa Na Lan Ðà cứ một mực công khai, nhưng đến thời này không còn đủ sức để hàng phục ngoại đạo, mà chỉ cải đổi việc giảng học trong nội tự mà thôi.

Riêng về học giả Thương Yết La A Xà Lê, ông tuy là người nam Ấn Ðộ, nhưng trên lĩnh vực tôn giáo và triết học ông được giới sử học Ấn Ðộ coi ông như là kết tinh của tư tưởng nhân loại; ông rộng truyền giáo nghĩa Vệ Ðà khắp các vùng đông, tây, nam và bắc Ấn Ðộ. Ông kiến lập năm trung tâm truyền đạo. Về phương diện tinh thần, ông được coi như là người thống trị toàn Ấn.

Truyền thuyết kể là bấy giờ ông đến địa phương Phiên Ca La, thách thức mở cuộc luận biện với tăng nhân Phật giáo,và trong số những vị luận sư dùng giáo lý Phật giáo để luận tranh với ông không ai có thể thủ thắng, vì thế nên có đến hai mươi lăm đạo tràng bị hủy bỏ, và hơn năm trăm vị Tỳ kheo bị bức hại phải cải đạo; tại địa phương ông Âu Ðề Tỳ Xá ở đông Ấn Ðộ tình hình Phật giáo tại đây cũng chẳng có gì khá hơn.

Người có năng lực hoằng đạo, chẳng phải đạo hoằng nhân. Người có người ưu người liệt, pháp vận có lúc thịnh lúc suy, tất cả đều có quan hệ cực lớn đến thực tại.

Xem mục lục