TIỂU THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả: Kimura Taiken
Hán Dịch: Thích Diễn Bồi - Việt Dịch: Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn Hạnh Việt Nam 1969 - Chùa Khánh Anh, France
CHƯƠNG III
THIỀN ĐỊNH LUẬN
Yếu lĩnh của sự tu đạo tuy là giới, định, tuệ quân bình, nhưng trong đó, như đã nói ở trên, điểm có ý nghĩa trọng yếu hơn cả là thiền định. Nếu đứng ở một phương diện mà nhận xét thì giới, định, tuệ tuy là quan hệ chân vạc, nhưng nhận xét ở phương diện khác thì chúng lại là quan hệ giai đoạn hỗ tương. Giới chủ yếu là chuẩn bị để được tuệ. điều này cứ xem trong Thanh Tịnh Đạo luận nói do giới mà vượt ác thú, do định mà thoát khỏi Dục giới và do tuệ mà siêu tam giới thì đủ rõ (Vism, p..). Tựu trung, định không những chỉ ở giữa mà còn khoáng trương cả hai bên, tức là tuệ siêu việt tam giới, ý nghĩa định phát tuệ thật ra cũng không ngoài sức định. Bởi vậy, ta có thể nói, trung tâm tu đạo là định. Phật giáo không lập nên một đấng Thần linh mà trước sau vẫn chỉ lấy tâm làm trung, và cái khế cơ điểm vể tôn giáo trong Phật giáo chủ yếu là ở sự tu dưỡng thiền định, đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Song, sự tu dưỡng thiền định này, theo một ý nghĩa nào đó, không những chỉ riêng cho Đại thừa, Tiểu thừa mà bất luận học phái nào đều lấy định làm căn để cho sự tu dưỡng, có thể nói, nêu xa lìa thiền định thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Bởi thế, chuyên lấy ẩn tuẫn làm ý chỉ, do tâm thanh tịnh vắng lặng mà được giải thoát, sự tu đạo từ Nguyên thủy Phật giáo đến Tiểu thừa Phật giáo đều lấy thiền định làm nền tảng cho tất cả sự tu đạo: điều này, tưởng cũng không có gì là lạ cả. Nếu bảo cái thật thể của các tôn giáo hữu thần là ở như sự cấu đảo, thì ta có thể nói thật thể của Phật giáo là ở như thiền.
Trưng theo giáo lý, như đã thường lập đi lập lại ở trên, Phật giáo nói nhiều giáo tướng, như nhân sinh quan, thế giới quan, thực tiễn quan v.v… tuy triển khai dần dần, nhưng chỗ quy kết thì có thể nói tất cả đều phát xuất từ thiền. Vì thế mà trong các thực tiễn quan, thiền có một ý nghĩa trong yếu nhất. Đương nhiên, mới nhìn qua thì thay vì nói là Thiền quán lại nhận là phương thức thuyết minh sự thực và lý tưởng mà thiền chính là căn để của phương thức đó: đây là điểm ta không thể bỏ qua, Như Tứ đế, 12 Nhân duyên, Tứ niệm xứ lấy đó làm hình thức thuyết minh. Tứ đế thuyết minh nhân quả giải thoát và luân hồi; 12 nhân duyên cho thấy do thuận quan mà luân hồi, do nghịch quan mà giải thoát; còn Tứ niệm xứ đối với sự tồn tại của người ta mà phám đoán theo hai phương diện sự thực và giá trị. Song, đây không phải là sự phán đoán lý luận, mà là sự phán đoán thiền quán, không những thế, bất luận là Tứ đế, 12 nhân duyên hay Tứ niệm xứ, khi tu hành thiền quán thì tất cả đều là một loại công án. Thêm vào đó sự phân loại Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, nếu nhận xét theo tinh thần đó thì, nhưng đã nói nhiều lần, chẳng qua cũng chỉ để thích ứng với thái độ tinh thần tu thiền mà thôi. Lại nữa, Phật giáo hay nói đến những tổ chức sinh lý và cuối cùng thì cũng không ngoài cái thủ đoạn đem ứng dụng chúng vào thiền quán (như Bất tịnh quán chẳng hạn). Cứ như thế mà tham cứu thì ta thấy giáo lý của Phật giáo dù có thuyết minh bằng thái độ nào đi nữa, nhưng tất cả đều có thể quy kết ở thiền quán, vì, nếu không hiểu được thiền quán thì quyết không thể nắm được cái chân lý của Phật giáo: tôi tưởng đây không phải là lời nói quá đáng. Theo ý nghĩa ấy, sự phát đạt của giáo lý Phật giáo chẳng qua cũng chỉ là sự phát đạt và biến thiên của thiền quán, Rốt cục, do thiền quán mà trạng thái tinh thần đạt đến nguyên lý hóa, hiện tại hóa, rồi lấy đó làm cơ sở, đem những thuyết minh và thực tiễn pháp thành lập tổ chức: đó là sự biến thiên của nền giáo lý Phật giáo. Lại nữa, cũng là Phật giáo nhưng được chia thành nhiều Khế cơ điểm. Nhất là muốn hiểu rõ Phật giáo Đại thừa thì người ta không thể không nhớ kỹ điều này.
Phật giáo là một tôn giáo lấy thiền làm trung tâm thành lập, có rất nhiếu ký lục về thiền, đồng thời, cũng có nhiều cách để biểu diễn thuật ngữ thiền. Về phương diện tổng luận, tôi tưởng trước hết hãy nói về bản chất của thiền. Nói một cách đại thể, thiền của Phật giáo chẳng có gì sai khác với phương pháp tu dưỡng nhất ban của Ấn Độ thời bấy giờ mà người ta mệnh danh là Du Già, Tam Ma Địa. Không những thế, thiền của Phật giáo chính cũng đã thoát hóa từ những phương pháp tu dưỡng ấy, điều này tôi đã trình bày ở một nơi khác rồi. Do đó, về phương diện bản chất của thiền - mặc dù về phương pháp hay nội dung quan niệm có chỗ bất đồng – cũng chẳng có gì sai biệt với sự tu dưỡng nhất ban Du Già. Chủ yếu, cột tâm vào một chỗ[1], thống nhất các biều tượng, cuối cùng phải đến chỗ vô niệm, vô tưởng: đó là tu định. Theo ý nghĩa ấy thì đặc chất của định rõ ràng là tiêu cực chế chỉ sự tán loạn của tâm, Nhưng, mục đích của sự tu định không những chỉ tiêu cực trấn áp tán loạn nội tâm mà còn, đồng thời với sự trấn áp ấy, dồn hết tâm lực vào một điểm, dựa trên sự quan sát triệt để một đối tượng nào đó khiền cho chình mình, cuối cùng, cũng hòa với đồi tượng ấy làm một; đứng về phương diện này thì tu định có mục đích tích cực: đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Có thể nói, mục tiêu tu định là ở điểm này. Thiền có hai phương diện tuy cùng gọi là thiền, là định – phân biệt về nội dung – nhưng trong đó bao hàm nhiều tâm thái, và; để biểu đạt những tâm thái đó, đã sản sinh ra nhiều thuật ngữ, đây là lẽ tự nhiên.
Trưng theo kinh Du Già thì có những thuật ngữ như Du Già, Tam ma địa, Tam ma bát đề, Đà diễn na và Tha lạp na v.v… và ý nghĩa của mỗi thuật ngữ, không nhiều thì ít, có chỗ sai khác. Trong Phật giáo cũng có nhiều thuật ngữ, phổ thông thường nói là bảy tên của định (Du già sư địa luận lược biên, quyển 5, Đại chính, 43, trang 66 trở đi. (Câu xá, quyển 28). Dó là nói vể khởi nguyên, về sau, trong sự hỗ tương, tuy không khu biệt một cách chặt chẽ, nhưng đến A-tỳ-đạt-ma, vốn ưa thích nghiêm cách hóa tất cả tựa hồ đã khu biệt nó môt cách rất chặt chẽ. Sau đây là những danh xưng:
a- Tam-ma-thả-đa (đẳng dẫn) hai định dùng cho cả hữu tâm và vô tâm.
b- Tam-ma-địa (Tam muội, đẳng trì): lấy tính tâm nhất cánh làm đặc chất, chỉ dùng cho định hữu tâm.
c- Tam-ma-bát-để (đẳng chí): thông cả hữu tâm, vô tâm thường được xưng tổng quát là Tứ thiền, Tứ vô sắc định.
d- Đà-diễn-na, Thiền na (Tĩnh lự): tuy đặc biệt chỉ dùng cho từ thiền định, nhưng đến Đại thừa nó đã trở thành tên chung cho tất cả thiền định, thiền trong thiền định là chữ ihàna (thiền na) mà ra.
đ- Chất-đa-y-ca-a-yết-la-đa; tâm nhất cảnh tính, chỉ dùng cho hữu tâm định, đại lược đồng nghĩa với Tam-ma-địa.
e- Xa-ma-tha (chỉ): danh từ này được dùng song song với Tỳ-bát-xà-na (quán). Đối với tác dụng tích cực quán tưởng, nó là tác dụng tiêu cực chuyên làm cho tâm chìm lắng xuống. Đây cũng chỉ cho hữu tâm định thôi.
g- Hiện-pháp-lạc-trụ: trong Tứ thiền, đặc biệt là vào trạng thái căn bản định, duy chỉ có Thánh tâm.
Những danh từ trên đây, như vừa nói ở trước, khi được dùng một cách mặc nhiên thì không phân biệt chặt chẽ, nhưng về phương diện A-tỳ-đạt-ma, khi chúng được dùng một cách nghiêm khắc, thì cái phạm vi của bảy danh từ kể trên, nếu nói một cách đại lược, thì đã từ phạm vi rộng nhất dần dần biểu hiện tâm thái đặc thù ở phạm vi hẹp. Song, một danh từ chung đó đại biều cho thiền định của Phật giáo, là Tam-ma-địa. Dứng về phương diện Du Già sử mà nhận xét, trong Áo Nghĩa Thư cổ xưa, danh từ vẫn chưa thấy được biểu hiện, đến thời đại học phái nó mới bắt đầu được dùng làm thuật ngữ. Nhưng, trong Phật giáo, nó được thu dụng ngay từ đầu, bởi thế, khi muốn nói đến thiền định, người ta luôn luôn dùng danh từ này. Nói một cách đơn giản, Chính định trong Bát chính đạo, định Ngũ căn, Ngũ lực, tất cả đều được biểu hiện bằng một danh từ Tam-ma-địa. Danh từ này do tiếng sam + v- dha. Cái gọi là trị tâm nhất xứ (giữ tâm ở một chỗ) tức là ý nghĩa tổng trì hay đẳng trì vậy. Tâm thái biểu hiện thiện định một cách thật thích đáng đại khái đã từ đây để rồi đã đi đến cách dùng rất rộng rãi.
Phật Âm, trong A-tha-sa-lị-noa (pp. 118-9), đã giải thích Tam-ma-địa như sau:
“Làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh, đặc tướng của nó là không động loạn, không trạo cử, tác dụng của nó là kết hợp các pháp cùng sinh (tâm, tâm sở) vào một chỗ, cũng như nước rửa, biểu hiện của nó là lấy tĩnh tâm làm phát sinh trí tuệ. Vì có tĩnh tâm mới thấy rõ chân lý, bởi thế, chỉ lấy sự vui làm chỗ lập cước. Tóm lại, khi không có gió thì đèn đứng ngay,tâm được đứng vững là nhờ Tam muội, người ta cần ghi nhớ điều đó” (Rhys Davids; Yogàvacàras Manua of Indian Mysticism as Practicsd by Buddhists London 1896, p. XXVI, trích dụng).
Trên đây, có thể nói, là sự giải thích gần thỏa đáng.
Bản chất của thiền định là như thế, nhưng khi luận cứu về vấn đề này thì nên chia thành mấy bộ môn cho đúng? Muốn thuyết minh điểm này, trước hết phải nói rõ về mục đích tu thiền đã. Nói một cách tóm tắt thì mục đích tối cao của sự tu thiền là ở như sự giải thoát nhưng ngoài mục đích chính đó ra, tu thiền cũng cón có những mục đích phụ nữa mà, nếu muốn luận cứu về thiền, tất cũng phải xem chúng như những khóa đề để khảo sát. A-tỳ-đạt-ma chia mục đích tu thiền thành ba hay bốn loại, nhưng lấy bốn làm thông lệ: Thứ nhất, là đắc hiện pháp lạc trụ; Thứ hai, đắc thắng trí kiến; Thứ ba, đắc phân biệt tuệ; Thứ tư, là tận chư phiền não (lậu tận) (Câu xá, quyển 28; Thành Thật, quyển 12, Từ tu định phẩm 158 cũng giống nhau). Thứ nhất hiện pháp lạc trụ có nghĩa là nhờ tu định mà thân tâm được an tĩnh; thứ hai thắng trí kiến nghĩa là được thần thông; thứ ba phân biệt được tuệ tức là thấy được tính, tướng của các pháp như thế; thứ tư lậu tận đã được giải thoát tối cao. Xem thế thì bốn điểm trên đây là khóa đề của Thiền na và nếu cứ lấy đó mà luận về Thiền quán một cách tổ hợp cũng được, nhưng, thật ra bốn điểm trên chủ yếu là dựa vào công đức tu thiền mà đưa ra số mục, bởi vậy, nếu thuyết minh về cái gọi là thiền mà chỉ có thế thôi thì chưa đủ. Về điểm này, tôi đã nói qua một nơi khác,[2] Nếu muốn luận cứu một cách có căn bản về nhất ban thiền thì những mục sau đây cần phải được lưu ý. Thứ nhất là tâm lý quan; yếu nghĩa của thiền là làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh. Nếu xử lý tâm như thế nào? Đó là vấn đề tiên quyết. Trong đề mục Tâm lý luận Phật giáo mà tôi đã trình bày ở trên có một khóa trình nói về Thiền định tâmlý luận chính cũng ở đó. Trước khi bàn về Thiền định tâm lý luận, phải nói qua tâm lý luận nhất ban, đó là một đề mục của Thiền định luận. Thứ hai là lý tưởng luận: làm thế nào để do thiền mà đạt được lý tưởng tối cao? Nội dung của thiền, trên quan hệ quy định, nếu không phải là lý tưởng luận thì thiền không thể được thành lập; thứ ba là phương pháp luận: làm thế nào cho tâm được thống nhất để thực hiện lý tưởng, đó là phương pháp thực tiễn mà, theo một ý nghĩa nào đó, là vấn đề trung tâm của thiền; thứ tư là thần thông và những yếu tố khác: đây là dựa vào công đức của thiền mà nói chứ chưa hẳn đã là mục đích tối cao của thiền. Bất luận trong hiện tại, quá khứ, dựa vào kiện khang pháp, an tĩnh pháp cho đến sức bất khả tư gnhị của thiền, nếu cho đó là một mục đích tu dưỡng của thiền, thì đó phải đặt thành một đề mục khác để luận cứu.Hình thức Thiền định luận được chỉnh lý ít nhất phải có bốn đề mục này, nhưng ở đây, trong Tâm lý luận nhất ban của Phật giáo đã bàn qua rồi. Còn lý tưởng luận nên việc bàn riêng với thiền luận, về thần thông lực cũng là một bộ phận của tuệ, tưởng cũng phải nên luận cứu một cach thích đáng, vậy, rốt cục, chỉ cón lại có phương pháp luận mà thôi. Song, phương pháp luận trong trường hợp Phật giáo, không những là phương pháp bề ngoài mà còn bao hàm ý nghĩa dùng công án với Thiền quán như thế nào cho thích ứng. Bởi thế, theo ý nghĩa ấy, phương pháp luận lại có thể chia thành hai đề mục: một là phương pháp bề ngoài, hai là phương pháp nội dung. Phương pháp trước, khi nhập định, luận về những dụng ý bên ngoài (cũng có hơi đề cập đến nội dung); còn phương pháp thứ hai nên chuyên luận về nội dung của pháp quan. Như vậy, tập hợp tất cả ý nghĩa ấy để lại nói rõ ý nghĩa Cửu thứ đệ định thì phải đề cập đến tất cả nghị luận của A-tỳ-đạt-ma và, như vậy, vấn đề nói ra sẽ cực kỳ phiền tỏa, bởi thế, ở đây, tôi xin kết thúc chương này (Thiền định luận).
[1] Về điểm này, có vài định nghĩa rõ ràng, giản dị nhất: 1- Tâm trụ một chỗ là tướng tam muội Thành Thật, quyển 12, Định nhân phẩm 155), 2- Định có nghĩa là thanh tịnh, có công đức tinh tiến và tịch tĩnh thật yên tĩnh, không tán loạn, gọi là định (Giải thoát đạo luận, quyển 2, Phân biệt định phẩm 4, Đại chính, 32, tr. 406, ha), 3- Định nghĩa là khéo ở vào một cảnh (Câu xá, quyển 28).
[2] Xem bài khảo sát về sự triển khai của tư tưởng Phật giáo với Thiền trong mục “Từ Chân không đến Diệu hữu).
-HẾT-