b’ Suy ngẫm từ quan điểm mười hai duyên khởi
1’ Sự phân chia thành mười hai yếu tố
2’ Sự phân loại giản lược các yếu tố
3’ Số đời cần trải qua để hoàn tất tất cả mười hai yếu tố
4’ Tầm quan trọng của mười hai yếu tố được tóm lược như thế nào
–––\–––
b’ Suy ngẫm từ quan điểm mười hai duyên khởi
Phần thứ hai của phương pháp phát triển tâm muốn giải thoát là suy ngẫm về mười hai khía cạnh duyên khởi. Đề tài này gồm có bốn phần:
1. Sự phân chia thành mười hai yếu tố
2. Sự phân loại giản lược các yếu tố
3. Số đời cần trải qua để hoàn tất tất cả mười hai yếu tố
4. Tầm quan trọng của mười hai yếu tố được tóm lược như thế nào
1’ Sự phân chia thành mười hai yếu tố [249]
Mười hai yếu tố duyên khởi là:
(1) Vô minh
Trong Vi Diệu Pháp Báu Luận:[1]
Vô minh giống như thù hận và giả dối.
Thù hận và giả dối không phải là để chỉ việc không có tình bạn và sự thật, cũng không phải là để chỉ cái khác với hai điều này, nhưng để chỉ các loại hiện tượng trực tiếp đối lập và không tương hợp với tình bạn và sự thật. Cũng vậy, vô minh không phải để chỉ sự nhận thức mà nhận thức này là cách đối trị của vô minh cũng không phải để chỉ cái khác với điều này, nhưng để chỉ các loại hiện tượng trực tiếp đối lập và không tương hợp với nhận thức.
Về điểm này, học giả vĩ đại Pháp Xứng khẳng định rằng “Ở đây, cách đối trị – tức nhận thức – là sự nhận thức điều chân thật, ý nghĩa của nhân vô ngã {chúng sinh không có bản ngã}. Cho nên, cái đối lập của nó là quan điểm thật chất hóa về các uẩn[2] đang suy hoại {hoại uẩn}, ý niệm về một cái ngã nơi con người”. Song hành với lối diễn giải này, lối diễn giải coi vô minh như là sự hiểu lầm về ý nghĩa của thực tại, có một quan điểm thứ hai do học giả Vô Trước và người em trai của ngài là Thế Thân chủ trương, hai học giả này khẳng định rằng vô minh chỉ là việc hiểu lệch lạc về ý nghĩa của thực tại. Tóm lại, hai vị này nói rằng vô minh là tâm không biết đối tượng của nó, và cũng không biết rằng đó là một ý niệm sai lầm. Tuy nhiên, một bên là ngài Pháp Xứng và một bên là ngài Vô Trước và Thế Thân đều giống nhau ở việc khẳng định rằng trí tuệ hiểu biết vô ngã là cách đối trị chính của vô minh.
Vi Diệu Pháp Tập Luận của ngài Vô Trước đưa ra hai loại mơ hồ {hiểu biết lệch lạc}: mơ hồ về nghiệp và nghiệp quả, và mơ hồ về ý nghĩa thực tại. Qua điều mơ hồ đầu tiên quý vị tích lũy các hành vi cấu hợp {hành} để tái sinh trong các cảnh giới khổ não; qua điều mơ hồ thứ hai, quý vị tích lũy các hành vi cấu hợp để tái sinh trong các cảnh giới hạnh phúc.
(2) Hành[3]
Hành vi cấu hợp {hành} là nghiệp. Có hai loại nghiệp: nghiệp không có phước {bất thiện nghiệp}, nó thúc bách quý vị vào trong các tái sinh khổ não, và nghiệp có phước {thiện nghiệp}, nó thúc bách quý vị vào trong các tái sinh hạnh phúc. Loại sau được phân chia thêm thành hai loại: nghiệp phước đức, nó thúc bách các tái sinh hạnh phúc ở dục giới, và bất chuyển nghiệp, nó thúc bách các tái sinh hạnh phúc vào trong các cảnh giới cao hơn [của chư thiên].
(3) Thức
Trong kinh Đức Phật nói về sáu loại thức. [250] Tuy nhiên, ở đây thức chính là thức nền tảng, theo những người chủ trương có sự hiện hữu của một loại thức như vậy, hoặc ý thức, theo những người không chủ trương có thức nền tảng.
Hơn nữa, quý vị bị dính mắc và tích lũy nghiệp bất thiện qua sự vô minh của mình về sự kiện là cái khổ của đau đớn phát xuất từ khuyết-lậu hạnh. Những khuynh hướng tiềm ẩn của nghiệp thẩm thấu vào tâm thức của quý vị. Tâm thức của đời hiện tại mà trong đó điều này xảy ra là “tâm thức của giai đoạn nguyên nhân”; trong khi tâm thức đi vào chỗ tái sinh trong một cảnh giới khổ não, trong tương lai và tùy thuộc vào tâm thức giai đoạn nguyên nhân, là “tâm thức của giai đoạn kết quả”.
Tương tự, do năng lực của sự hiểu biết lệch lạc của quý vị về thực tại vô ngã, quý vị nhận thức các cảnh giới hạnh phúc là hạnh phúc, không hiểu rằng thật ra nó là khổ não. Qua các nhận thức sai lầm như vậy, quý vị tích lũy nghiệp phước đức và nghiệp không thay đổi. Tâm thức của đời sống trong đó quý vị tích lũy nghiệp như thế là “tâm thức của giai đoạn nguyên nhân”; trong khi, do tùy thuộc vào điều này, mà {tâm} nhập vào kiếp tái sinh hạnh phúc trong dục giới hoặc các cảnh giới cao hơn [của chư thiên] là “tâm thức của giai đoạn kết quả”.
(4) Danh sắc
“Danh” là bốn [trong số năm] uẩn không thuộc về thể chất: thọ, tưởng, hành, và thức. Còn uẩn thứ năm, sắc, nếu quý vị tái sinh trong cõi vô sắc, quý vị không có sắc đích thật, mà chỉ có hột giống của sắc mà thôi. Cho nên, “sắc” trong từ ngữ “danh sắc” áp dụng cho bất cứ hình thể nào, chẳng hạn như trứng đã thụ tinh, điều này thì thích đáng trong mọi hoàn cảnh trừ trường hợp vô sắc giới.
(5) Lục nhập
Nếu quý vị thuộc loại thai sinh, bốn nguồn – mắt, tai, mũi, và lưỡi – thành hình do sự phát triển thêm của “danh”, [tức là thức] và khối giống hình chữ nhật dài trứng đã thụ tinh mà đầu tiên thức khởi nhập vào. Tuy nhiên các nguồn thể chất và tinh thần hiện hữu từ lúc trứng thụ tinh – là thời điểm của danh và sắc.
Sẽ không có các giai đoạn như vậy nếu quý vị thuộc loại hóa sinh, bởi vì các nguồn {nhập} của quý vị thành hình đồng thời với việc quý vị tái sinh. Tuy nhiên, đối với trường hợp noãn sinh hoặc thấp sinh, giải thích cũng tương tự như trường hợp thai sinh, ngoại trừ từ ngữ “thai”. Điều này được giải thích trong Du-già Hạnh Địa Luận.
Trường hợp này, một khi danh sắc đã thành lập, quý vị có một thân thể thật sự. [251] Khi lục nhập được thành lập, người trải nghiệm đã được tạo thành, bởi vì những bộ phận cụ thể của thân thể đã thành hình. Năm nhập {nguồn thể chất} không hiện hữu ở vô sắc giới.
(6) Xúc
Khi đối tượng của giác quan, giác quan, và thức kết hợp với nhau, quý vị phân biệt ba loại đối tượng – hấp dẫn, không hấp dẫn, và trung tính. Một đoạn trong kinh có nói “do lục nhập sinh ra”[4] chỉ đối tượng giác quan và thức.
(7) Thọ
Tương ứng với sự phân biệt của xúc về ba loại đối tượng là ba loại cảm giác – vui thú, đau đớn, và trung tính.
(8) Ái
Ái có nghĩa là khao khát không muốn bị xa lìa những cảm giác vui thú và khao khát được lìa xa những cảm giác đau đớn. Lời trong kinh nói rằng “ái do thọ sinh ra”[5] nghĩa là thọ có vô minh đi kèm sinh ra ái. Khi không có vô minh, ái không xảy ra ngay cả khi thọ hiện diện.
Trường hợp này, xúc là kinh nghiệm của đối tượng và thọ là trải nghiệm về sự tái sinh hoặc quả thành hình của nghiệp. Do đó, khi có đủ hai điều này, sự trải nghiệm cũng đầy đủ. Có ba loại ái, mỗi loại cho mỗi cảnh giới.
(9) Thủ
Thủ chỉ sự mong muốn/khao khát và tham luyến bốn loại đối tượng:
(1) Chấp trước {bám víu} vào cái mình muốn: chẳng hạn như khao khát và tham luyến những những điều gây thích thú cho giác quan, hạn như các hình tướng và âm thanh; những quan điểm xấu (ngoại trừ quan điểm thật chất hóa về các hoại uẩn); giới luật có liên quan tới những quan điểm xấu và hành vi xấu; và quan điểm về các hoại uẩn;
(2) Chấp trước vào các quan điểm;
(3) Chấp trước vào các giới luật và hành vi đạo đức; và
(4) Chấp trước vào các khẳng quyết về sự hiện hữu của một bản ngã.
(10) Hữu {năng lực sinh tồn}
Trong quá khứ, hành đã ngấm vào trong thức một khuynh hướng tiềm ẩn và khi khuynh hướng này được nuôi dưỡng bằng ái và thủ, sẽ được tăng thêm sức mạnh để mang lại một hiện hữu hậu quả.
“Hữu” là cách gọi một nguyên nhân [một khuynh hướng được kích hoạt] bằng tên của kết quả của nó [tái sinh sau này].
(11) Sinh
Sinh chỉ thức lúc vừa khởi nhập vào trong bốn loại tái sinh.
(12) Lão tử
Lão là quá trình trưởng thành và biến đổi các uẩn [thân và tâm]. Tử là rời bỏ dòng tương tục của các uẩn.
2’ Sự phân loại giản lược các yếu tố [252]
Trong Vi Diệu Pháp Tập Luận:[6]
Có những hạng loại nào khi ngươi giản lược các yếu tố lại?
Có bốn loại: yếu tố phóng hoạt, yếu tố được phóng hoạt, yếu tố hiện thực hóa, và yếu tố được hiện thực hóa.
Yếu tố phóng hoạt là các yếu tố nào? Vô minh, hành, và thức. Yếu tố được phóng hoạt là các yếu tố nào? Danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ. Yếu tố hiện thực hóa là các yếu tố nào? Ái, thủ, và hữu. Yếu tố được hiện thực hóa là các yếu tố nào? Sanh, lão, và tử.
Thắc mắc: Vậy thì hai loại quan hệ nhân quả – một loại liên quan tới phóng hoạt và loại kia liên quan tới hiện thực hóa – cho thấy một sự kiện về quan hệ nhân quả trong đó một người tái sinh hay cho thấy hai sự kiện? Nếu là trường hợp đầu thì sẽ là không đúng khi cho rằng các yếu tố hiện thực hóa, ái và v.v. xảy ra sau sự thiết lập nhóm các yếu tố khởi đầu với thức ở giai đoạn kết quả và chấm dứt với thọ [các yếu tố được phóng hoạt]. Nếu là trường hợp sau, sẽ không có vô minh, hành, hoặc thức ở giai đoạn nguyên nhân [các yếu tố phóng hoạt] trong chu kỳ nhân quả sau [trình tự phóng hoạt], và không có ái, thủ, hoặc hữu [các yếu tố hiện thực hóa] trong chu kỳ nhân quả trước [trình tự hiện thực hóa].
Trả lời: Không có sai sót như vậy, bởi vì bất kỳ điều gì được phóng hoạt ra bởi các nguyên nhân phóng hoạt [vô minh, hành, và thức] phải được tạo thành bởi các nguyên nhân hiện thực hóa [ái, thủ và hữu]. Khi cái được phóng hoạt [danh sắc, lục nhập, xúc và thọ] đã được hiện thực hóa, nó chính là cái đó, cái được phóng hoạt và được định danh là có sinh ra, già đi, và chết.
Thắc mắc: Như vậy. mục đích của việc trình bày hai chu trình quan hệ nhân quả là gì?
Trả lời: Cách trình bày như vậy là nhằm chứng tỏ rằng các đặc tính của sự đau khổ đích thực là các hậu quả của sự phóng hoạt thì khác với những thứ {đặc tính của khổ} là kết quả của sự hiện thực hóa. Những yếu tố trước [thức của giai đoạn kết quả, danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ] vẫn còn tiềm tàng vào lúc phóng hoạt. Bởi vì chúng chưa thật sự được thiết lập, chúng chỉ trở thành khổ trong tương lai. Tuy nhiên, những yếu tố sau [sanh, lão và tử] là những hoàn cảnh trong đó cái khổ đã thành, và do đó, là cái khổ trong đời này. Hơn nữa, hai chu trình nguyên nhân và kết quả được trình bày nhằm chứng minh rằng kết quả – phải tái sinh – có hai nguyên nhân: các nguyên nhân phóng hoạt và các nguyên nhân để hiện thực hóa cái đã được phóng hoạt [bởi các nguyên nhân phóng hoạt]. [253] Du-già Hạnh Địa Luận giải thích lý do của việc này:[7]
Cho rằng các yếu tố sinh và lão tử và nhóm các yếu tố bắt đầu với thức của giai đoạn kết quả và chấm dứt với thọ là các hiện tượng có cùng chung các tính chất, vậy tại sao chúng lại được giảng dạy là thuộc hai loại? Làm như vậy (1) nhằm chứng tỏ các tính chất khác nhau của sự vật đem lại đau khổ và (2) để chứng tỏ sự khác biệt giữa phóng hoạt và hiện thực hóa.
Và cũng giải thích:
Trong các yếu tố, có bao nhiêu được kể là khổ thật sự và trở thành khổ trong đời này? Có hai: sinh và lão tử
Có bao nhiêu yếu tố được kể là thật khổ và sẽ chỉ trở thành khổ trong tương lai? Những yếu tố còn tiềm tàng – nhóm các yếu tố bắt đầu với thức [giai đoạn kết quả] và chấm dứt với thọ.
Cho nên, hai yếu tố (1) ái, đó là yếu tố hiện thực hóa, và (2) thọ, làm ái phát khởi, không ở trong cùng một chuỗi duyên khởi. Thọ làm ái phát khởi là một kết quả của một chuỗi duyên khởi khác.
Phóng hoạt và được phóng hoạt phải nên được hiểu qua bốn điều suy xét:
1) Cái gì được phóng hoạt? Bốn yếu tố rưỡi bắt đầu với thức của giai đoạn kết quả và chấm dứt với thọ đã được phóng hoạt.
2) Cái gì phóng hoạt? Hành, phụ thuộc vào vô minh, đã thực hiện sự phóng hoạt.
3) Phóng hoạt xảy ra như thế nào? Phóng hoạt xảy ra bằng các khuynh hướng tiềm ẩn của nghiệp được thấm vào trong thức của giai đoạn nguyên nhân.
4) “Được phóng hoạt” nghĩa là tạo ra các kết quả [thức ở giai đoạn kết quả, danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ] thuận lợi cho sự hiện thực hóa một khi các tác nhân hiện thực hóa, chẳng hạn như ái, đang hiện hữu.
Tác nhân hiện thực hóa và điều được hiện thực hóa nên được hiểu qua ba điều suy xét sau đây:
1) Cái gì tiến hành việc hiện thực hóa? Thủ thực hiện hành động này, mà thủ lại do ái gây ra.
2) Cái gì được hiện thực hóa? Sinh và lão tử được hiện thực hóa.
3) Hiện thực hóa xảy ra như thế nào? Hiện thực hóa xảy ra bằng phương tiện của sự truyền năng lực của các khuynh hướng tiềm ẩn của nghiệp để qua tác động của hành thấm vào trong thức.
Ngài Thế Thân, trong Duyên Khởi Phân Giải Luận (Pratītya-Samutpādadi-vibhaṅga-nirdeśa),[8] đã lấy yếu tố sinh làm yếu tố được hiện thực hóa duy nhất và sau đó dạy rằng lão và tử là những khiếm khuyết của các yếu tố phóng hoạt và hiện thực hóa này. [254]
Như thế trường hợp này, hiện thực hóa phải được hiểu như sau: hành bất thiện bị thúc đẩy bởi vô minh về nghiệp và nghiệp quả đã lưu lại các khuynh hướng tiềm ẩn của nghiệp xấu trong thức. Điều này tạo điều kiện sẵn sàng để hiện thực hóa các nhóm yếu tố của một sự tái sinh khổ não bắt đầu với thức của giai đoạn kết quả và chấm dứt với thọ. Qua việc nuôi dưỡng thường xuyên bằng ái và thủ, những khuynh hướng tiềm ẩn này được tăng thêm sức mạnh, và sinh, lão, v.v… .sẽ được hiện thực hóa trong các kiếp tái sinh khổ não sau này.
Diễn giải cách khác, bị thúc đẩy bởi vô minh về ý nghĩa của vô ngã, hành phước đức {các hành vi cấu hợp phước đức} – chẳng hạn như giữ giới luật trong cõi dục – hoặc bất chuyển hành – chẳng hạn như tu tập thiền định trong các cảnh giới cao hơn [của chư thiên] – lưu lại các khuynh hướng tiềm ẩn của nghiệp tốt trong thức. Điều này tạo điều kiện sẵn sàng để hiện thực hóa các nhóm yếu tố bắt đầu với thức của giai đoạn kết quả và chấm dứt với thọ để hướng đến, lần lượt là một sự tái sinh hạnh phúc ở cõi dục hoặc một sự tái sinh làm trời ở những cảnh giới cao hơn. Qua việc nuôi dưỡng thường xuyên bằng ái và thủ, những khuynh hướng tiềm ẩn này được tăng thêm sức mạnh, và sau đó sinh, v.v… sẽ được hiện thực hóa trong các kiếp tái sinh hạnh phúc đó.
Hơn nữa, mười hai yếu tố được phân loại thành ba con đường – con đường phiền não, nghiệp, và đau khổ. Như bậc trí tuệ Long Thọ nói:[9]
Yếu tố thứ nhất, thứ tám, và thứ chín là phiền não.
Yếu tố thứ hai và thứ mười là nghiệp.
Bảy yếu tố còn lại là đau khổ.
Đạo Cang Kinh (Śāli-stamba-sūtra) đề cập bốn nguyên nhân xếp loại mười hai yếu tố duyên khởi.[10]. Kinh này giải thích rằng khi hột giống của tâm thức được vô minh gieo vào trong ruộng nghiệp và sau đó được tưới bằng nước ái, chúng sinh khởi ra mầm danh sắc trong dạ con của người mẹ.
3’ Số đời cần có để hoàn tất tất cả mười hai yếu tố
Mặc dù có thể phải mất vô số đại kiếp để đi qua các yếu tố phóng hoạt và các yếu tố được phóng hoạt, nhưng các yếu tố được phóng hoạt cũng có thể được hiện thực hóa ngay trong đời kế tiếp mà không có đời nào xen kẽ. Bởi vì các yếu tố hiện thực hóa [ái, thủ, và hữu] và các yếu tố được hiện thực hóa [sanh và lão tử] xảy ra mà không có đời nào xen kẽ, nên có thể hoàn thành tất cả mười hai yếu tố trong thời gian ngắn nhất là hai đời. [255] Thí dụ, trong một đời chẳng hạn như đời này, trước tiên quý vị có thể tích lũy nghiệp để đem lại kết quả tái sinh làm một vị thiên cũng như các trải nghiệm sau đó về đời sống và nguồn tài lực của một phạm thiên. Khi điều này xảy ra, hai yếu tố rưỡi – vô minh, hành, và thức của giai đoạn nguyên nhân – cũng như ái, thủ, và hữu (cho tới thời điểm chết) được hoàn tất trong đời này. Trong đời sau đó, bốn yếu tố rưỡi được phóng hoạt [thức của giai đoạn kết quả, danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ] và hai yếu tố được hiện thực hóa [sinh và lão tử] sẽ được hoàn tất.
Ngay cả trong trường hợp lâu nhất, sự hoàn thành tất cả mười hai yếu tố sẽ không bị trì hoãn quá ba đời, bởi vì các tác nhân hiện thực hóa [ái, thủ, và hữu], và hai yếu tố được hiện thực hóa [sanh và lão tử], và ba yếu tố phóng hoạt [vô minh, hành, và thức] đều đòi hỏi phải có những đời riêng cho chúng, trong khi các yếu tố được phóng hoạt [danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ] được bao gồm trong đời của các yếu tố được hiện thực hóa. Hơn nữa, mặc dù có thể nhiều đời xen vào giữa các tác nhân phóng hoạt và các tác nhân hiện thực hóa, đây không phải là những đời của các chu kỳ duyên khởi cụ thể của chúng, mà là những đời của các chu kỳ duyên khởi khác. Trong số các tính toán về hai hoặc ba đời này, thì đời của trạng thái trung ấm không được kể riêng.
Do đó, ngay cả trong đời mà những yếu tố kết quả đã được hiện thực hóa, không có cái ngã là người tích lũy nghiệp hoặc thể nghiệm nghiệp quả. Đúng hơn, như đã giải thích trước đây, có các yếu tố kết quả mà bản thân chúng chỉ là các hiện tượng, sinh khởi từ các yếu tố nguyên nhân mà bản thân chúng cũng chỉ là các hiện tượng. Do không hiểu quá trình luân hồi này và lẫn lộn về nó, quý vị cho là có một cái ngã. Vì ước muốn cái “ngã” của mình được hạnh phúc, quý vị tạo tác điều thiện và bất thiện về thân, khẩu và ý cho mục đích ấy, và như thế quý vị lại cung cấp nhiên liệu cho quá trình luân hồi. Cho nên, hai yếu tố nghiệp [hành và hữu] phát sinh từ ba yếu tố phiền não [vô minh, ái và thủ], và từ đó, bảy yếu tố khổ đau [thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh và lão tử] phát khởi. Phiền não lại phát sinh từ bảy sự khổ đau, và – giống như trước – quý vị trôi lăn trong luân hồi. Vì thế, bánh xe luân hồi quay không gián đoạn. Trong Duyên Khởi Tâm Luận, đạo sư Long Thọ nói:
Từ ba yếu tố khởi sinh hai;
Từ hai yếu tố khởi sinh bảy, và lại từ bảy yếu tố
Phát sinh ba. Bánh xe luân hồi
Tự nó quay liền liền.
Khi quý vị suy ngẫm về việc mình lang thang như vậy trong dòng luân hồi, thì mười hai yếu tố duyên khởi là phương pháp hay nhất để phát khởi lòng chán ngán luân hồi. Hãy quán chiếu về nghiệp phóng hoạt của quý vị, những nghiệp thiện và bất thiện mà quý vị đã tích lũy qua vô số kiếp lượng, chưa phát sinh quả cũng chưa bị diệt trừ bằng các biện pháp đối trị. [256] Khi ái và thủ trong đời sống hiện tại nuôi dưỡng chúng, quý vị trôi lăn qua các cảnh giới hạnh phúc hoặc khổ đau dưới sự kiểm soát của chúng. Các vị A-la-hán có vô lượng nghiệp phóng hoạt đã tích lũy khi còn là phàm phu, nhưng đã thoát khỏi luân hồi bởi vì họ không còn phiền não. Một khi đạt được sự xác tín về điều này, quý vị sẽ coi phiền não là kẻ thù và sẽ nỗ lực diệt trừ chúng.
Về điểm này, vị thiện tri thức vĩ đại Pu-chung-wa đã tu tâm hoàn toàn dựa trên mười hai yếu tố duyên khởi và khiến giai trình đạo chỉ đơn thuần là việc suy ngẫm về sự tiến triển và chấm dứt các yếu tố này. Ngài giải thích rằng quán chiếu về sự tiến triển và chấm dứt mười hai yếu tố của các cảnh giới khổ đau là giáo pháp dành cho những người có khả năng nhỏ và sau đó, suy ngẫm về việc tiến triển và chấm dứt mười hai yếu tố của hai cảnh giới hạnh phúc là giáo pháp dành cho người có khả năng trung bình. Giáo pháp dành cho những người có khả năng cao là thẩm định tình trạng của chính họ theo hai cách hành trì này [của người có khả năng nhỏ và trung bình]. Rồi họ phát triển lòng yêu thương và từ bi đối với chúng sinh, những người đã từng là mẹ của họ và vì mười hai yếu tố mà đang lang thang trong luân hồi, tu tập trong ước nguyện vì các chúng sinh này mà thành Phật, và học hỏi đường đạo cho đến cùng.
4’ Tóm lược tầm quan trọng của các yếu tố duyên khởi
Như được giải thích ở trên, quý vị cần hiểu rõ luân hồi – các uẩn của khổ đau –được hình thành như thế nào qua sức mạnh về nguồn gốc của nó – nghiệp và phiền não – và, đặc biệt là bánh xe luân hồi xoay vần như thế nào trong khuôn khổ mười hai yếu tố. Hiểu được và trở nên thành thạo với điều này sẽ phá hủy bóng tối không thể chịu đựng nổi của hoang man {vô minh} – nguồn gốc của mọi vấn đề. Nó loại trừ mọi quan điểm sai lầm cho rằng các hành bên ngoài và bên trong phát sinh không có nguyên do hoặc từ những nguyên do không tương hợp. Nó làm tăng trưởng sự dồi dào trân quý cho kho tàng các giáo pháp của đấng Điều Ngự, và đó là điều thúc đẩy quý vị tiến đến con đường giải thoát qua sự hiểu biết chính xác về các tính chất của luân hồi và qua sự chán chường tột độ về chúng. [257] Đó là phương tiện tốt nhất để kích hoạt các khuynh hướng tiềm ẩn mà nhờ đó quý vị đạt được trạng thái siêu phàm của bậc thánh.
Cho nên, Đồng Tử Vấn Mật Điển nói:[11]
Đạo pháp duyên khởi diệt trừ vô minh.
Đạo Cang Kinh nêu lên rằng khi hiểu rõ duyên khởi, quý vị chấm dứt mọi quan điểm xấu coi đối tượng là khởi đầu, kết cuộc, hoặc hiện tại. Đạo sư Long Thọ nói:[12]
Lý duyên khởi này là vật trân bảo
Thậm thâm trong kho ngôn từ của đấng Điều Ngự.
Cơ Sở Giới Luật[13] nêu lên rằng bộ đôi Xá-lợi-phất (skt. Śāriputra) và Mục-kiền-liên {skt. Maudgalyāyana} có thói quen du hành nơi năm loại chúng sinh. Sau khi đã tới đó, hai vị quay về Nam Thiêm Bộ Châu và kể lại những khổ đau của các chúng sinh này với tứ chúng đệ tử của Đức Phật.
Trong các đệ tử của Phật có một số người sống chung với hoặc sống gần những người coi thường giới hạnh thanh tịnh. Những đệ tử đưa những người này tới trước bộ đôi xuất chúng và hai vị chỉ dẫn cho họ qua các câu chuyện về những khổ đau của các cõi khác. Kết quả của việc giảng dạy này là họ trở nên hoan hỷ với giới hạnh thanh tịnh và sự hiểu biết của họ cũng được nâng cao hơn.
Bậc Đạo sư thấy vậy liền hỏi ngài A-nan {skt. Ānanda} và ngài A-nan trình lên Đức Phật các nguyên do, nghe xong Đức Phật nói rằng: “Bởi vì không phải lúc nào cũng sẽ có những bậc thầy như bộ đôi xuất chúng này, hãy đặt ở cổng nhà một bức vẽ bánh xe luân hồi có năm phần, vòng quanh đường tròn của bánh xe này là mười hai duyên khởi theo cả hai chiều thuận và nghịch”. Bánh xe luân hồi liền được vẽ như vậy.
Vào dịp khác, một bức họa của Đức Phật sắp được gửi tới Vua Udrāyaṇa. Trước khi gửi đi, mười hai duyên khởi theo chiều thuận và nghịch được viết thành thi kệ ở phần dưới bức tranh. Đức vua học thuộc lòng bài kệ này và rồi vào lúc hừng đông ngồi gác chéo chân, giữ thân mình ngay thẳng, và hướng sự tập trung vào thiện hạnh. Bằng cách tập trung vào hai quá trình duyên khởi, nhà vua đạt được trạng thái siêu phàm của một bậc thánh.
[1]BA537 AK: 328; P5590:119.3.5.
[2]Thật chất hóa (eng. reify) tức là tiến trình cửa tư tưởng biến một khái niệm hay một sự định danh trừu tượng thành cụ thể rõ ràng có thêm ít nhiều các đặc tính thật sự như sắc tướng, cảm thụ, có tư tưởng, có hành vi …. Nói rằng có sự thật chất hóa về các uẩn chính là quan điểm cho rằng các pháp (cấu tạo từ uẩn hợp) có một thật chất bền vững rắn chắc nào đó. Trong khi thật sự điều này hoàn toàn không xảy ra cho đến từng thời điểm chóng vánh. Tất cả đều theo luật duyên khởi và phụ thuộc lẫn nhau: sinh diệt liên tục.
[3]Hành được dịch từ chữ “compositional activity” có nghĩa là hoạt động duyên hợp cấu thành hay còn gọi là hoạt động cấu hợp.
[4]BA538 Śālistamba-sūtra, {Đạo Cang Kinh} P876: 303.3.4.1-2.
[5]BA539 Nt., P876: 303.4.2
[6]BA540 Abhidharma-samuccaya, P5550: 246.5.7-247.1.2
[7]BA541 Yogā-caryā-bhūmi (Sa’i dngos gzhi), P5536: 263.4.4-6,263.4.8-263.5.2.
[8]BA542 rTen ‘brel mdo ‘grel trong P ở đây là Pratītya-samutpādadi-vibhaṅga-nirdeśa, P5496.
[9]BA543 Pratītya-samutpāda-hṛdaya-kārikā (Duyên Khởi Tâm Luận): 2; P5467:270.5.1. Trích dẫn kế đến là kệ liền theo sau các câu này: 3; P5467:270.5.2.
[10]BA544 Ārya-śālistamba-nāma-mahāyāna-sūtra, {Đạo Cang Đại Thừa Kinh – Kinh về gieo giống lúa} P876; xem Vaidya 1964:104.
[11]BA545 Subāhu-paripṛcchā-tantra, P428: 35.3.5.
[12]BA546 Suhṛl-lekha: 112a; P5682: 237.5.7.
[13]BA547 Tiếng Tây Tạng là ‘Dul ba lung giống như trên ở chú thích 496.