Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Tám   NÓI RÕ PHẦN ÐẦU CỦA BA MƯƠI                              PHÁP NI TÁT KỲ BA DẠ ÐỀ.                                  1. GIỚI: CẤT Y DƯ QUÁ HẠN.                              Khi Phật an trú tại một tinh xá                              có lầu gác trong rừng Ðại Lâm, nói rộng như trên.                              Bấy giờ, trưởng lão Nan Ðà và Ưu Ba Nan Ðà du hành                              các thôn xóm rồi chở về đầy xe các thứ vải vóc phẩm                              vật đã nhận được. Sáng sớm hôm ấy, Thế Tôn nghe                              tiếng xe chở nặng, biết mà vẫn hỏi các Tỳkheo: "Tiếng                              xe gì vậy?".                              Các Tỳkheo bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Ðó là tiếng xe của trưởng lão Nan Ðà và Ưu                              Ba Nan Ðà du hành tại các thôn xóm đã nhận được                              nhiều vải vóc và phẩm vật chở về".                              Khi ấy, Thế Tôn bèn suy nghĩ: "Các                              đệ tử của Ta tìm cầu nhiều y vật đến như vậy                              nhỉ!"Sau đó vào một đêm mồng tám giữa mùa đông,                              tuyết sa rất lạnh, đầu đêm Thế Tôn mặc chiếc áo nhập                              vào thiền có giác, có quán, đến lúc nửa đêm cảm thấy                              hơi lạnh, Thế Tôn bèn mặc chiếc áo thứ hai, nhưng                              đến cuối đêm, lại cảm thấy lạnh hơn, bèn mặc thêm                              chiếc áo thứ ba. Thế rồi, ngài suy nghĩ: "Các đệ tử                              của Ta chỉ cần mặc ba y (áo) là đủ ngăn ngừa những                              khi quá lạnh, quá nóng, đề phòng muỗi mòng, che                              khuất sự hổ thẹn, không làm tổn thương đến thánh thể.                              Nếu ai không chịu nổi rét lạnh thì Ta cho phép mặc                              thêm những chiếc áo cũ kĩ".                              Thế rồi, trải qua đêm đến sáng                              sớm, Thế Tôn bèn đi đến chỗ các Tỳkheo, (291b) trải                              tọa cụ ngồi, nói với các Tỳkheo: "Một hôm vào buổi                              sớm mai ta nghe tiếng xe chở nặng bèn hỏi các Tỳkheo:                              "Tiếng xe gì thế?", các Tỳkheo đáp: "Trưởng lão Nan                              Ðà và Ưu Ba Nan Ðà du hành các xóm làng và nhận được                              nhiều y vật, nên đã dùng xe chở về vậy". Ta bèn suy                              nghĩ: "Các đệ tử của Ta tìm cầu nhiều y vật, sính                              mặc nhiều áo thế nhỉ?". Rồi vào một đêm mùng tám                              giữa mùa đông..., cho đến mặc ba chiếc áo, bèn suy                              nghĩ: "Các đệ tử của Ta chỉ cần mặc ba y là vừa đủ                              ngăn ngừa khi quá lạnh, quá nóng, đề phòng các muỗi                              mòng, che khuất sự hổ thẹn, không làm tổn thương đến                              thánh thể". Từ hôm nay trở đi, Ta cho phép các                              Tỳkheo chỉ cất giữ chừng ba y. Nếu được vải mới thì                              may một y Tăng già lê hai lớp, một y Uất đa la tăng                              một lớp và một y An đà hội một lớp. Nếu ai không                              kham chịu lạnh thì Ta cho phép tùy ý mặc thêm những                              chiếc y cũ".                              Lại nữa, khi Phật ở tại Tỳ Xá                              Ly, nói rộng như trên. Bấy giờ, tại một làng kia có                              ba Tỳkheo Ma ha la cùng sống chung. Rồi một người                              qua đời để lại nhiều y vật, hai người còn sống không                              biết chia cách nào, một Tỳkheo nói: "Tôi cần Tăng                              già lê". Người thứ hai cũng nói: "Tôi cũng cần nó".                              Như vậy hai người đều muốn giành các vật mà không                              thể quyết đoán được. Khi ấy Ưu Ba Nan Ðà du hành các                              thôn xóm rồi ghé qua chỗ họ. Các Ma ha la từ xa                              trông thấy Thầy đến, bèn suy nghĩ: "Ông này thuộc                              dòng dõi Thích Ca, tướng hảo đoan chánh, xuất gai từ                              dòng giống Phật, có thể giúp chúng ta chấm dứt sự                              tranh giành này", bèn thưa: "Tại chỗ chúng tôi hiện                              có các y vật, ai cũng muốn giành lấy, không thể chia                              được. Hôm nay mong tôn giả hãy vì chúng tôi mà chia                              giúp các y vật này để tránh sự tranh giành ".                              Ưu Ba Nan Ðà đáp: "Tôi chia                              giúp y vật cho các ông tránh sao khỏi các ông oán                              tôi!".                               Ma ha la nói: "Nếu Thầy không                              chia thì ai chia giúp chúng tôi? Chẳng lẽ chúng tôi                              đi nhờ các ngoại đạo chia giùm y vật hay sao?".                              Ưu Ba Nan Ðà lại nói: "Trước                              hết hai người phải cam kết nghe theo lời tôi, thì                              tôi mới chia cho".                              Ðáp: "Xin nghe lời".                              Thế rồi, Ưu Ba Nan Ðà bảo: "Ðem                              hết các vật ra đây".                              Họ bèn đem ra. Rồi Ưu Ba Nan Ðà                              chia làm ba phần. Khi ấy, Ma ha la suy nghĩ: "Chúng                              ta chỉ có hai người mà ông ta lại chia làm ba phần,                              hay là ông ta muốn lấy một phần chăng? Vậy hãy bảo                              ông ta lấy một phần để chấm dứt sự tranh chấp của                              chúng ta".                               Sau khi chia ba phần ấy đã xong,                              Ưu Ba Nan Ðà lại hỏi các Ma ha la: "Còn vật gì hãy                              đem hết ra đây, kẻo để sau này lại tranh chấp nhau                              nữa". Người thứ nhất không muốn đem ra, nhưng người                              thứ hai bèn lấy mang ra, rồi nói: "Hết cả rồi!". Khi                              ấy, Ưu Ba Nan Ðà bèn chia thêm vào ba phần trước rồi                              tự mình đứng giữa hai phần, còn một phần đem đặt                              giữa hai Ma ha la, nói: "(291c) Các ông hãy nghe tôi                              làm Yết ma". Ðáp: "Vâng", bèn nói: "Hai phần này và                              cả tôi, như vậy tôi có ba; còn hai ông và một phần,                              như vậy hai ông cũng có ba. Thế là đằng này ba, đằng                              đó ba, hai bên đều được ba là công bằng phải không?".                              Các Ma ha la vì trước đó đã cam kết, hơn nữa do sợ                              uy con dòng họ Thích, nên không dám nói gì nữa.                              Thế nên hai người bằng lòng                              nhận lấy một phần ấy, nhưng không biết làm sao chia,                              bèn nói: "Trưởng lão! Phần này của chúng tôi giờ đây                              phải chia bằng cách nào?"                              Bấy giờ, Ưu Ba Nan Ðà bèn chia                              ra làm hai phần. Rồi mỗi Ma ha la nhận lấy một phần                              mang đi.                               Bấy giờ, các Tỳkheo bèn đem                              nhân duyên ấy bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao                              mà Ưu Ba Nan Ðà lại lừa gạt các Tỳkheo Ma ha la kia                              như vậy?".                               Phật bèn nói với các Tỳkheo: "Ông                              Ưu Ba Nan Ðà này không những ngày nay lừa gạt các                              Tỳkheo ấy mà trong thời quá khứ cũng đã từng lừa dối                              họ". Các Tỳkheo lại bạch với Phật: "Ðã từng có như                              vậy sao?".                               Ðáp: "Ðã từng có như vậy. Trong                              thời quá khứ, tại một nước ở phương Nam, có một con                              sông trong sạch, trong sông ấy có hai con rái cá,                              một con có thể lặn xuống nước sâu, còn một con chỉ                              lặn ở trên cạn. Bấy giờ, con lặn dưới sâu, bắt được                              một con cá lý... như trong kinh Bản Sinh đã nói rõ".                              Lại nữa, khi Phật ở tại Tỳ Xá                              Ly, nói rộng như trên. Vì mười việc lợi ích mà cứ                              năm hôm đức Như Lai đi tuần hành đến các phòng                              Tỳkheo một lần. Khi Thế Tôn đi qua các phòng, đến                              phòng của A Nan Ðà trông thấy trong phòng cất chứa                              nhiều y vật: Có y đang hong phơi, có y đang may, có                              cái đang nhuộm, có cái vừa mới đập cho hết hồ, có                              cái tác tịnh. Nan Ðà sắp xếp từng chỗ như thế, giống                              như đang chuẩn bị mở đại hội bố thí các tăng vật.                              Khi ấy, Thế Tôn tuy biết mà vẫn                              hỏi: "Nan Ðà! Những y vật này của ai thế?"                              Ðáp: "Của con đấy".                              Phật nói:"Này Tỳkheo! Y này                              nhiều quá!".                              Nan Ðà liền bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Trước đây Thế Tôn cho phép dùng hai lớp y                              Tăng già lê, một lớp y Uất đa la tăng và một lớp y                              An đà hội kia mà!".                              Phật nói: "Nhưng y này cũng vẫn                              nhiều".                               Ðáp: "Bạch Thế Tôn! Con có các                              đệ tử đồng hành, đệ tử y chỉ đều cần may hai lớp y                              Tăng già lê, một lớp y Uất đa la tăng, một lớp y An                              đà hội, lại còn may y cho Sa di nữa".                              Phật lại nói: "Nhưng y này cũng                              vẫn còn nhiều".                              Rồi thầy bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Những người xuất gia chúng con khi cần đến                              y phục thì khó tìm được, cho nên các vải vóc này                              giặt phơi xong rồi, con đem cất vào trong tủ, để khi                              y phục bị rách sẽ lấy ra may y mà dùng".                              Phật bèn nói với Nan Ðà: "Ðó là                              việc xấu. Ông là người xuất gia vì sao vẫn còn tham                              lam như kẻ thế tục? Ông há không thường nghe Ta                              (292a) chê trách đa cầu, đa dục, khó thỏa mãn và                              khen ngợi thiểu dục tri túc hay sao? Thế mà nay ông                              lại đa dục, khó thỏa mãn, cầu nhiều y vật cất chứa                              lâu dài. Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời Ta                              dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp                              được. Vì sao lại cất chứa vải lâu ngày để dùng? Từ                              nay trở đi nếu nhận được vải vóc thì cho phép cất                              giữ một đêm".                              Các Tỳkheo liền bạch với Phật:                              "Bạch Thế Tôn! Vì sao ông Nan Ðà này lại cất chứa                              nhiều vải mà không biết đủ?".                              Phật liền nói với các Tỳkheo: "Ông                              Nan Ðà này không những ngày nay cất chứa nhiều vải                              vóc, không biết đủ, mà trong thời quá khứ cũng đã                              từng cất chứa nhiều, không biết đủ, như trong Kinh                              Ðiểu Sinh (Thuộc Bản Sinh?) đã nói rõ".                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              Câu Xá Di, được chư thiên và người đời cung kính                              cúng dường. Ðến giờ khất thực, Thế Tôn khoác y, cầm                              bát đi vào thành Câu Xá Di tuần tự khất thực. Bấy                              giờ, hoàng hậu của quốc vương tên là Xá Di, đem một                              ngàn năm trăm tấm dạ cúng dường cho Thế Tôn. Phật                              bèn bảo A Nan đem những tấm dạ ấy chia cho các                              Tỳkheo. Trưởng lão A Nan liền đem chia cho các                              Tỳkheo, nhưng các Tỳkheo không nhận, và nói với A                              Nan: "Dùng kiếp bối nhuộm chưa xong, cho nên không                              đúng pháp".                              Khi đó, A Nan đem nhân duyên ấy                              đến bạch với Thế Tôn. Phật liền nói với A Nan: "Từ                              nay trở đi nếu được vải thừa, ta cho phép để dành                              đến mười hôm".                              Thế rồi, có các Tỳkheo cất vải                              thừa đã đủ mười ngày bèn cầm đến bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Những vải này cất đã mười ngày, nay phải                              làm sao?"                               Phật nói với các Tỳkheo: "Nếu                              có Tỳkheo bạn ở gần bên thì nên làm phép tịnh thí,                              rồi mười ngày thay đồ cũ và mặc đồ mới một lần".                              Lại nữa, khi Phật ở tại Tỳ Xá                              Ly, hằng năm, dân chúng tại thành này cúng dường                              chúng Tăng ăn uống xong rồi, bèn bố thí y vật cho                              các Tỳkheo, nhưng các Tỳkheo không nhận. Thế rồi,                              các thí chủ bèn đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân,                              rồi bạch với Phật rằng: "Có phương tiện gì cho phép                              các Tỳkheo nhận các y vật về dùng, để cho người bố                              thí thì được phước, người thọ dụng thì được lợi ích                              hay không?".                              Phật nói: "Ðược". Như trên đã                              nói rõ.                               Lúc bấy giờ, Phật truyền lệnh                              cho các Tỳkheo đang sống tại Tỳ Xá Ly phải tập họp                              lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các                              Tỳkheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- "Nếu Tỳkheo, việc y phục                              đã hoàn tất, y Ca hi na cũng đã xả, nhận được y (do                              thí chủ cúng dường) được cất giữ trong vòng mười hôm;                              nếu quá mười hôm thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề".                              Giải thích:                              - Y phục đã hoàn tất:                              Tỳkheo đã may xong ba y, gọi là y đã hoàn tất. Hoặc                              không thọ y Ca hi na, cũng gọi là y đã hoàn tất.                              Hoặc đã xả y Ca hi na, cũng gọi là y đã hoàn tất.                              (292b) Hoặc y giặt nhuộm đã xong, cũng gọi là y đã                              hoàn tất.                               - Y: Gồm có các                              loại: y Khâm bà la, y kiếp bối, y Sô ma, y Câu xá da,                              y Xá na, y Ma, y Khu mâu đề. Lại có các loại y khác                              như: Tăng già lê, Uất đala tăng, An đà hội, Ni sư                              đàn, y Tắm mưa, y Che ghẻ, y Chắp vá, y Cư sĩ, y                              Phấn tảo, hoặc làm, hoặc không làm, y Như pháp, y                              không như pháp, y biết rõ, y Ca hi na. Ðó gọi là y.                              - Ðã xả: Tức xả y                              Ca hi na. Có mười trường hợp xả y như sau: 1- Thọ y                              xả; 2- Y hết xả ; 3- Hết thời gian mà xả; 4- Nghe xả;                              5- Ra đi (khỏi trú xứ) xả; 6- Bị mất mà xả; 7- Bị hư                              mà xả; 8- Ðưa y đi chỗ khác mà xả; 9- Thời gian đã                              qua mà xả; 10- Hết thời gian mà xả. Ðó gọi là mười                              trường hợp xả y.                              - Vừa đúng mười ngày:                              Số ngày tối đa là mười ngày.                              - Y để lâu ngày (trường                              y): Ngoại trừ số y được phép thọ dụng, các y                              khác nếu để quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba                              Dạ Ðề.                               - Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề:                              Nghĩa là chiếc y đó cần phải xả giữa Tăng, rồi sám                              hối tội Ba Dạ Ðề; nhưng nếu không xả mà sám hối, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.                              - Ba Dạ Ðề: Các                              tội phải đọa vào đường ác như: Tội được thấy, được                              nghe, tội bị cử (nêu ra).v.v... Nếu Tỳkheo ngày thứ                              nhất được y, rồi liên tục các ngày khác đều nhận                              được y, thì được cất trong vòng mười ngày không cần                              tác tịnh (cho tượng trưng). Nếu quá mười ngày thì                              tất cả các y đó đều phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo ngày thứ nhất được                              y, rồi liên tục các ngày khác cũng được y mà trong                              nửa số đó có tác tịnh, nửa số không tác tịnh, thì                              những cái có tác tịnh là hợp pháp, còn những cái                              không tác tịnh là không hợp pháp, nếu để quá mười                              ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo ngày thứ nhất được                              y, ngày thứ hai tác tịnh; ngày thứ hai lại được y,                              ngày thứ ba tác tịnh; ngày thứ ba lại được y, ngày                              thứ tư tác tịnh; ngày thứ tư lại được y, ngày thứ                              năm tác tịnh; ngày thứ năm lại được y, ngày thứ sáu                              tác tịnh; ngày thứ sáu lại được y, ngày thứ bảy tác                              tịnh; ngày thứ bảy lại được y, ngày thứ tám tác tịnh;                              ngày thứ tám lại được y, ngày thứ chín tác tịnh;                              ngày thứ chín lại được y, ngày thứ mười tác tịnh;                              ngày thứ mười lại được y để đến ngày thứ mười một,                              thì tất cả đều phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề. Vì tương                              tục không gián đoạn vậy.                              Nếu Tỳkheo ngày thứ nhất được y                              liền tác tịnh ngay trong ngày ấy, cho đến hết ngày                              thứ mười được y, liền tác tịnh trong ngày thứ mười,                              ngày thứ mười một được một y, tác tịnh trong ngày                              thứ mười một, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Vì không gián                              đoạn vậy.                               - Gián đoạn: Nếu                              Tỳkheo ngày thứ nhất được y, bèn đình lại đến chín                              ngày; ngày thứ hai được y, bèn đình lại đến tám ngày,                              ngày thứ ba được y, bèn đình lại đến bảy ngày; ngày                              thứ tư được y, bèn đình lại đến sáu ngày; ngày thứ                              năm được y, bèn đình lại đến năm ngày; ngày thứ sáu                              được y, bèn đình lại đến bốn ngày; ngày thứ bảy được                              y, bèn đình lại đến ba ngày; ngày thứ tám được y                              (292c), bèn đình lại đến hai ngày; ngày thứ chín                              được y, bèn đình lại đến một ngày; ngày thứ mười                              được y, bèn tác tịnh tất cả các y kể trên trong ngày                              thứ mười. Nếu ngày thứ mười một được y, thì không                              nên nhận. Ðó gọi là gián đoạn.                              Nếu Tỳkheo trước được y nhiều,                              sau được y ít, do vì hiệu lực của y trước, nên phạm                              tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề. Nếu Tỳkheo trước được y ít,                              sau được y nhiều, vì hiệu lực của y trước, nên phạm                              tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề. Nếu Tỳkheo trước có y, trung                              gian không có, nếu có thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ                              Ðề. Nếu Tỳkheo trước không có y, trung gian lại có,                              nếu có, thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề .                              (Lại có các trường hợp) Hoặc                              các Tỳkheo không thọ y Ca hi na mà tưởng có thọ;                              hoặc đã xả y Ca hi na mà tưởng chưa xả; hoặc không                              thọ y mà tưởng có thọ; hoặc không tác tịnh mà tưởng                              đã tác tịnh ; hoặc không cho (người khác) mà tưởng                              đã cho; hoặc không ghi nhớ mà tưởng ghi nhớ; hoặc vì                              trong lòng mê muội, tác tịnh không đúng chỗ...                              - Không thọ y Ca hi na mà                              tưởng có thọ: Tỳkheo không thọ y Ca hi na mà                              tự bảo đã thọ, rồi cất giữ y quá mười ngày thì phạm                              tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Ðã xả y Ca hi na mà                              tưởng chưa xả: Tỳkheo đã xả y Ca hi na mà tự                              bảo chưa xả, rồi cất giữ y quá mười ngày thì phạm                              tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Chưa thọ y mà tưởng đã                              thọ: Nếu Tỳkheo đối với ba y tự mình không                              thọ mà tự bảo mình đã thọ rồi, nên không tác tịnh để                              y quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Chưa tác tịnh mà tưởng                              đã tác tịnh: Tỳkheo cất y lâu ngày không                              tịnh thí (cho người khác theo thủ tục chứ không thực                              cho), mà tưởng mình đã tịnh thí rồi để quá mười ngày,                              thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Không cho mà tưởng đã                              cho: Chiếc y ấy không hiến cho Tháp, không                              hiến cho Tăng, không cho người, mà bảo là đã cho rồi,                              để quá mười ngày, thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Không nhớ rõ mà tưởng                              nhớ rõ: Nếu Tỳkheo không nhớ rõ rằng đây là                              Ni sư đàn, đây là y Che ghẻ, đây là áo tắm mưa, mà                              tưởng là nhớ rõ, rồi không tác tịnh, để quá mười                              ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Mê muội: Nếu                              Tỳkheo được y, mà vì mê muội, nên không tác tịnh, để                              quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              - Tâm niệm thuyết tịnh:                              Trong lòng định thuyết tịnh, mà miệng không nói                              thành lời đó gọi là thuyết tịnh phi pháp, phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Nhưng nếu miệng nói thì không có tội.                              - Không đúng chỗ:                              Nếu tác tịnh với người thế tục, người không hay biết,                              với súc sinh, thì cũng như không tác tịnh. Nếu (tác                              tịnh rồi) để quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba                              Dạ Ðề.                               Ưu Ba Ly bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Thầy Tỳkheo có y thừa muốn tác tịnh, vậy                              phải tác tịnh với ai?".                              Phật nói với Ưu Ba Ly: "Nên tác                              tịnh với Tỳkheo, Tỳkheo ni, Thức xoa ma ni, Sa di,                              Sa di ni" (293a).                              Lại hỏi: "Tác tịnh với những                              người ở cách mình chừng bao xa?". Phật nói: "Chừng                              ba do tuần và phải biết họ đã mất hay còn (Họ còn                              sống mới tác tịnh được)".                              Ưu Ba Ly lại bạch với Phật: "Bạch                              Thế Tôn! Chiếc y để dành đem tác tịnh với Sa di mà                              Sa di ấy thọ giới cụ túc thì thế nào?".                              Phật nói: "Xưng là Tỳkheo không                              có tuổi hạ để tác tịnh".                              Ưu Ba Ly lại hỏi: "Nếu ông                              Tỳkheo không có tuổi hạ ấy chết thì phải làm sao?".                              Phật đáp: "Ðược đình lại mười                              ngày, rồi tác tịnh với những người quen biết khác".                              Lại hỏi: "Tấm vải rộng mức độ                              nào phải tác tịnh? Mức độ nào khỏi phải tác tịnh?"                              Phật nói: "Nếu tấm vải (y) rộng                              chừng một khuỷu tay, dài chừng hai khuỷu tay thì                              phải tác tịnh. Nhưng nếu hai Tỳkheo có một tấm vải                              chung chưa chia thì không phạm. Nếu đã chia ra rồi                              thì phải tác tịnh, nếu không tác tịnh để quá mười                              ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề".                              Nếu nhà Bà la môn mời chư Tăng                              đến thọ trai và bố thí vải vóc, nhưng có một Tỳkheo                              do bệnh bèn nhờ người khác nhận giúp phần vải của                              mình, rồi Tỳkheo ấy nhận giúp phần vải đó đem về,                              tuy cất lâu ngày chưa đưa vẫn không phạm tội. Nhưng                              khi Tỳkheo bệnh đã nhận rồi thì phải tác tịnh, nếu                              không tác tịnh, để quá mười ngày, thì phạm tội Ni                              Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo nghe nói thầy hoặc                              đệ tử sẽ cho y cho mình, nhưng chưa nhận được, thì                              lâu ngày vẫn không phạm tội. Nếu đã nhận được thì                              phải tác tịnh, nếu không tác tịnh để quá mười ngày                              thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo nhờ thợ dệt áo cho                              mình, áo tuy dệt xong đã lâu mà họ chưa đưa, thì                              Tỳkheo không phạm tội. Nhưng nếu đã nhận được áo thì                              phải tác tịnh, nếu không tác tịnh, để quá mười ngày                              thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo mua y, tuy giá cả đã                              dứt khoát, nhưng chưa nhận được y thì không phạm tội.                              Nếu đã nhận được y thì phải tác tịnh, nếu không tác                              tịnh để quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ                              Ðề.  Nếu Tỳkheo vì việc cúng dường                              Phật, cúng dường Tăng, rồi đi tìm kiếm y đem về để                              một chỗ, tuy lâu ngày chưa dùng đến vẫn không phạm.                              Nếu Tỳkheo nhận được các y vật                              từ những cuộc bố thí lớn tại các nơi như Phật đản                              sinh, đắc đạo, chuyển pháp luân, chỗ A Nan mở đại                              hội, chỗ La Vân mở đại hội, chỗ năm năm đại hội một                              lần, rồi đem các y vật đó nhập vào của Tăng, chưa                              phân chia, tuy lâu ngày vẫn không phạm tội. Nếu y                              vật ấy đã phân chia, nhiều người được chung một phần,                              trong đó có người am tường luật đồng ý tác tịnh cho                              mọi người thì không có tội. Nếu không tác tịnh để                              quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo đi đường gặp chỗ                              nguy hiểm đáng sợ, bèn giấu y mà đi, để quá mười                              ngày trở lại lấy, thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu có người lấy y ấy mang đến cho Tỳkheo mà Tỳkheo                              nhận thì cũng phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo bị quân giặc đuổi,                              bèn vứt y mà chạy, quá mười ngày, có người nhặt được                              y ấy, đem trả lại Tỳkheo, thì Tỳkheo không có tội.                              Nếu y không mất mà tưởng là mất                              (293b) hoặc mất mà tưởng là không mất, hoặc mất mà                              tưởng là mất, đều không phạm nên để quá mười ngày                              không có tội. Nhưng nếu y không mất mà biết là y                              không mất, để quá mười ngày thì phạm tội Ni Tát Kỳ                              Ba Dạ Ðề.                               Nếu Tỳkheo cất y thừa quá mười                              ngày, muốn xả nó, thì nên nhờ một Tỳkheo trì luật,                              biết làm Yết ma mời một số Tỳkheo quen biết ra ngoài                              đại giới, nếu nơi ấy không có giới trường thì phải                              kết tiểu giới để làm Yết ma, rồi thầy Yết ma nên nói:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy                              phạm vi từ ngoài chỗ Tăng ngồi một tầm trở vào, dùng                              phạm vi ấy làm Yết ma, xin các đại đức Tăng hãy nghe:                              Ở tại chỗ này từ ngoài chỗ Tăng ngồi một tầm trở vào                              trong, dùng phạm vi ấy làm Yết ma... Tăng bằng lòng                              nên im lặng. Việc này cứ như thế mà chấp hành".                              Chỗ đất nào không làm Yết ma (kết                              cương giới) thì không được làm các việc của Tăng (không                              được giải quyết việc của Tăng), nếu làm thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Vị luật sư nên nói với Tỳkheo ấy: "Thầy                              hãy xả y này". Rồi Tỳkheo ấy phải quì xuống chắp tay                              nói như sau:                              "Mong chư đại đức Tăng nhớ cho:                              Con là Tỳkheo mỗ giáp đã cất y này quá mười ngày,                              phạm tội Ni Tát Kỳ, nay con xả nó giữa chúng Tăng".                              Vị luật sư lại hỏi: "Thầy đã                              dùng chiếc y này chưa?". Nếu nói: "Ðã dùng", thì nên                              bảo: "Thầy đã phạm tội Ba Dạ Ðề, vì sử dụng y bất                              tịnh (không đúng qui định), do sử dụng nên phạm thêm                              tội Việt Tỳ Ni". Nếu đáp: "Chưa dùng". Thì lại nói:                              "Thầy phạm tội Ba Dạ Ðề".                              Thầy Tỳkheo ấy phải quì trước                              vị luật sư, chắp tay bạch: "Xin trưởng lão nhớ cho:                              Tôi là mỗ giáp, cất giữ y quá mười ngày, đã xả giữa                              chúng Tăng, trong đó phạm tội Ba Dạ Ðề. Nay xin sám                              hối trước trưởng lão, không dám che giấu".                              Vị luật sư hỏi: "Thầy có tự                              thấy tội không?".                              Nếu đáp: "Thấy", thì nên khuyên                              bảo: "Chớ có phạm lại nữa".                              Ðáp: "Xin vâng"(3 lần).                              Rồi Tỳkheo ấy lại nói như sau:                              "Xin trưởng lão nhớ cho: Tôi Tỳkheo mỗ giáp, cất y                              quá mười ngày, đã xả giữa chúng Tăng, trong đó phạm                              tội Ba Dạ Ðề, vìø đã sử dụng y bất tịnh, phạm thêm                              tội Việt Tỳ Ni, nay hướng đến trưởng lão thành tâm                              sám hối tất cả các tội ấy không dám che giấu".                              Vị luật sư hỏi: "Thầy có tự                              thấy tội không?".                              Nếu đáp: "Thấy", thì bảo: "Thầy                              chớ có tái phạm".                              Ðáp: "Xin đội lên đầu chấp hành".                              Lập lại như thế đến lần thứ hai, thứ ba.                              Vị luật sư lại hỏi: "Trong                              chúng Tăng đây ai là người mà Thầy quen biết?"                              Nếu đáp: "Mỗ giáp", liền nói: "Hãy                              ngồi theo thứ tự". Rồi làm Yết ma:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Tỳkheo mỗ giáp đã cất y quá mười ngày và đã xả giữa                              chúng Tăng đúng pháp. Nếu thời gian thích hợp đối                              với Tăng, nay Tăng đem chiếc y này cho vị Tỳkheo                              quen biết với Tỳkheo mỗ giáp".                              Rồi bạch như sau:                              "(293c) Xin đại đức Tăng lắng                              nghe! Thầy Tỳkheo mỗ giáp này cất y quá mười ngày và                              đã xả giữa Tăng đúng pháp. Nay Tăng đem chiếc y này                              cho Tỳkheo quen biết với Tỳkheo mỗ giáp. Các đại đức                              Tăng nào bằng lòng đem chiếc y này cho Tỳkheo quen                              biết với Tỳkheo mỗ giáp thì im lặng, ai không bằng                              lòng hãy nói. Ðây là lần Yết ma thứ nhất".                              Lần thứ hai, thứ ba cũng nói                              như thế. Rồi kết luận:                              "Tăng đã bằng lòng đem chiếc y                              này cho Tỳkheo quen biết với Tỳkheo mỗ giáp xong. Vì                              Tăng bằng lòng nên im lặng. Việc này cứ như thế mà                              thi hành"                               Sau đó, thầy Tỳkheo quen biết                              nên trả y lại cho vị kia ngay trong ngày ấy, hoặc                              ngày hôm sau, nhưng không được trả ở giữa chúng Tăng,                              cũng không được để hơn nửa tháng mới trả. Thầy                              Tỳkheo ấy được y lại rồi hoặc thọ trì, hoặc tác tịnh.                              Nếu không biết cách thọ trì và không biết tác tịnh                              thì Tăng nên dạy nói như sau:                              "Tôi mỗ giáp, chiếc y Tăng già                              lê này, chiếc y Uất đa la tăng này, chiếc y An đà                              hội này tôi luôn luôn thọ trì không rời nó qua đêm".                              Nói như thế ba lần. Nếu tác                              tịnh thì nên dạy nói như sau:                              "Tôi là Tỳkheo A, chiếc y này                              dư thừa, nay tịnh thí cho Tỳkheo B; vì Tỳkheo B ở                              gần tôi. Tôi sẽ tùy ý giặt phơi, vá lại và nếu có                              nhân duyên thì đem ra sử dụng".                              Nói như vậy ba lần.                              Thế nên nói:                              "Nếu Tỳkheo việc y đã hoàn tất,                              y Ca hi na cũng đã xả, có thể cất giữ y (ngoài ba y)                              trong vòng mười ngày, nếu để quá mười ngày thì phạm                              tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề".                              (Hết giới Ni Tát Kỳ thứ                              nhất)                                 2. GIỚI: RỜI Y MÀ NGỦ.                              Khi Phật ở tại thành Xá vệ nói                              rộng như trên. Bấy giờ, có một Bà la môn mời chúng                              Tăng về nhà nghỉ qua đêm để cúng dường và bố thí y                              vật. Các Tỳkheo nghe ông ta mời chúng Tăng liền suy                              nghĩ: "Lúc này thời tiết ôn hòa, không lạnh, không                              nóng, chúng ta chỉ cần mặc y thượng, y hạ đi đến,                              nếu ông ta cúng dường y thì ta cứ xem như thọ nhận                              thêm cái y thứ ba", bèn mặc y thượng và hạ ra đi.                              Bấy giờ, đức Thế Tôn vì 5 việc                              lợi ích nên cứ 5 hôm đi tuần hành đến các phòng của                              Tăng chúng một lần. Khi đến đó, Thế Tôn mở cửa một                              căn phòng, thấy trên giá có nhiều y, mặc dù biết,                              Thế Tôn vẫn hỏi: "Trên giá có nhiều cái y, là y của                              ai thế?"                               Có một Tỳkheo bệnh bạch với Thế                              Tôn: "Có một Bà la môn mời các Tỳkheo về nhà nghỉ                              qua đêm để cúng dường và bố thí các y vật. Các                              Tỳkheo nghĩ rằng thời tiết ấm áp nên để lại các y                              này, chỉ mặc thượng, hạ y mà đi, nếu như ông ta cúng                              dường y, thì thọ làm cái y thứ ba".                              Phật liền nói với các Tỳkheo:                              "Nên biết rằng: Như Lai Ứng Cúng là người an lạc bậc                              nhất, xuất gia ly dục là niềm vui bậc nhất, tùy theo                              chỗ mà ở, lúc đi khất thực phải đem theo ba y và                              bát, ví như đôi cánh của chim (294a) luôn dính sát                              vào thân. Tỳkheo các ông đã từ bỏ dòng họ cũ, vì                              lòng tin xuất gia, thế nên, hễ đi đến đâu phải đem                              pháp y theo bên mình, không nên lìa y qua đêm".                              Lại nữa, khi Phật an cư tại                              thành Xá vệ xong, bèn đi đến thành Vương xá. Lúc ấy,                              có một Tỳkheo ở thành Vương xá vì lòng tin xuất gia,                              sau khi an cư tại một thôn làng khác vừa kết thúc,                              nghe tin Phật an cư xong đi đến thành Vương xá, bèn                              thầm nhủ: "Nay ta nên đến vấn an Thế Tôn rồi cùng                              theo Phật đi thăm những bà con, lúc này trời không                              lạnh, không nóng, vậy ta nên để lại một y, chỉ cần                              mặc y thượng, y hạ mà ra đi". Thế là bị Thế Tôn quở                              trách rằng: "Phép tắc của Tỳkheo là pháp y và ứng                              khí (bát) phải luôn đem theo bên mình, ví như chim                              bay, lông cánh luôn theo bên mình, không nên rời                              xa".  Khi Phật trú tại thành Vương xá                              nơi tinh xá trong vườn trúc Ca lan đà. Bấy giờ,                              trưởng lão Xá Lợi Phất suy nghĩ: "Nay ta nên vì lợi                              ích của bà con an cư tại thôn Na La. Nhưng vì lòng                              tôn kính đối với Thế Tôn nên không muốn rời xa, song                              cũng khó đến nói với Phật".                              Các Tỳkheo nghe thế, bèn đem                              việc ấy bạch đầy đủ với Thế Tôn. Do đó, Phật nói với                              các Tỳkheo: "Từ hôm nay, Ta cho phép chư Tăng ở tinh                              xá Trúc Viên tại thành Vương xá và chư Tăng tại thôn                              Na La cùng thiết lập chung một giới trường bố tát để                              cho Xá Lợi Phất được sống an lạc. Người làm Yết ma                              nên nói như sau:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe! Từ                              hôm nay tinh xá Trúc Viên tại thành Vương Xá và thôn                              Na La cùng thiết lập chung một giới trường Bố tát.                              Nếu thời gian thích hợp đối với tăng, nay Tăng đem                              tinh xá Trúc Viên tại thành Vương xá và thôn Na la                              thiết lập chung một giới trường Bố tát, xin bạch như                              thế".  Một lần bạch Yết ma, cho đến                              "Vì Tăng bằng lòng nên im lặng. Việc ấy cứ như thế                              mà thi hành".                              Bấy giờ, tôn giả Xá Lợi Phất an                              cư tại thôn Na La, hằng ngày đi đến tinh xá Trúc                              Viên đảnh lễ Thế Tôn, gặp lúc trời mưa suốt bảy                              ngày, bèn suy nghĩ: "Thân ta nay già yếu, mà y Tăng                              già lê này thì nặng, ta muốn mang đi, nhưng bị mưa                              ướt càng nặng thêm, còn nếu không mang đi, lỡ ra                              không về kịp, thành phạm tội Xả đọa. Vậy ta hãy chờ                              mưa tạnh rồi sẽ đi đến Thế Tôn". Nhưng lúc đi đường,                              gặp các ngoại đạo, tôn giả bèn luận bàn với họ (như                              kinh Sa Môn Quả đã nói) rồi mới đi đến Thế Tôn, đảnh                              lễ vấn an. Phật biết mà vẫn hỏi: "Xá Lợi Phất! Vì                              sao lâu ngày Ta không gặp ông?". Tôn giả bèn hướng                              đến Thế Tôn nói rõ các việc trên.                              Bấy giờ, Thế Tôn nói với các                              Tỳkheo: "Từ nay trở đi gộp chung tinh xá Trúc Viên                              tại thành Vương xá và thôn Na La làm thành một giới                              "Bất ly y túc"(ngủ đêm không rời y), để các Tỳkheo                              được sống an lạc. Người làm Yết ma nên nói như sau:                              "Xin đại đức (294b) Tăng lắng                              nghe! Nay từ tinh xá Trúc Viên tại thành Vương xá                              đến thôn Na La - Trừ các nhà dân và ranh giới của                              thôn - làm thành một phạm vi không mất y. Nếu thời                              gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay gộp chung từ                              thành Vương xá đến thôn Na la - Trừ các nhà dân và                              ranh giới của thôn - làm thành một phạm vi không mấy                              y.  Các đại đức nào bằng lòng gộp                              chung từ thành Vương xá đến thôn Na la.- Trừ các nhà                              dân và ranh giới của thôn - làm thành một phạm vi                              không mất y, thì im lặng, ai không bằng lòng hãy                              nói...                               - Tăng đã bằng lòng vì im lặng.                              Việc ấy cứ như thế mà thi hành".                              Sau khi kiết giới không mất y                              rồi thì từ thành Vương xá đến thôn Na la, hai bên                              đường mỗi bên 25 khuỷu tay đều thuộc giới vức không                              mất y, nên Tỳkheo có thể để y tại thành Vương xá rồi                              đi đến thôn Na La mà không có tội, hoặc để y tại                              thôn Na la rồi đi đến thành Vương xá cũng thế. Như                              nhân duyên của Xá Lợi Phất, nhân duyên của Mục Kiền                              Liên cũng như vậy.                              Lại nữa, khi Thế Tôn an trú tại                              tinh xá Kỳ hoàn thuộc thành Xá vệ. Lúc ấy có một                              Tỳkheo sau bữa ăn muốn đến rừng Khai Nhãn ngồi                              thiền, liền suy nghĩ: "Nếu ta nghỉ đêm tại rừng Khai                              nhãn thì sẽ mất y Tăng già lê (y này bị phạm luật),                              liền đem cả ba y theo; bỗng gặp Thế Tôn. Phật biết                              mà vẫn hỏi: "Này Tỳkheo! Vì sao thầy mang theo nhiều                              y thế?". Ðáp: "Bạch Thế Tôn! Con muốn đến rừng Khai                              nhãn ngồi thiền, nhưng sợ lỡ ra buổi chiều không trở                              về kịp thì sẽ mất y Tăng già lê, nên phải mang theo                              cả ba y".                               Do thế, Phật bèn nói với các                              Tỳkheo: "Từ nay trở đi, kể từ rừng Kỳ Hoàn đến rừng                              Khai Nhãn các tinh xá Ðông phường, tinh xá Tây                              phường tinh xá Ðông lâm, tinh xá Tây lâm, tinh xá                              Vương viên, tháp Thọ trù, tinh xá Bà la lâm gộp lại                              làm thành giới vức không mất y, để các Tỳkheo sống                              trong đó được an lạc. Thầy Yết ma nên nói như sau:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe:                              Nay từ Kỳ Hoàn đến rừng Khai Nhãn, từ tinh xá Ðông                              lâm cho đến tháp Thọ Trù, trong phạm vi đó, trừ thôn                              và ranh giới của thôn... nếu thời gian thích hợp đối                              với Tăng, Tăng nay lấy từ rừng Kỳ hoàn cho đến tháp                              Thọ trù, làm pháp Yết ma kết giới không mất y. Ðó là                              lời tác bạch                              Xin đại đức Tăng lắng nghe: Từ                              rừng Kỳ Hoàn cho đến tháp Thọ Trù, trong phạm vi đó,                              trừ thôn và ranh giới của thôn (294c) Tăng nay kết                              giới không mất y. Các đại đức nào bằng lòng lấy từ                              rừng Kỳ Hoàn qua rừng Khai Nhãn cho đến tháp Thọ Trù                              làm giới vức không mất y thì im lặng; ai không bằng                              lòng hãy nói.  Tăng đã bằng lòng lấy từ rừng                              Kỳ Hoàn qua rừng Khai Nhãn cho đến tháp Thọ Trù làm                              giới vức không mất y, vì Tăng đã bằng lòng nên im                              lặng. Vậy việc đó cứ như thế mà thi hành".                              Lại nữa, khi Phật trú tại tinh                              xá Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ. Bấy giờ, trong thành                              Xá Vệ bị hỏa hoạn nên dân chúng, voi, ngựa, xe cộ và                              trai gái mang vác y phục chạy ra khỏi thành. Còn các                              Tỳkheo thì phần lớn gởi y ở trong thành, nên vì sợ                              cháy y mà từ ngoài chạy gấp vào trong thành. Thấy                              thế, những kẻ không tin Phật ở trong thành đều chê                              trách: "Chúng ta vì bị lửa cháy mà chạy ra khỏi                              thành tị nạn, còn các Sa môn này lại chạy vào thành                              giống như những con thiêu thân lao vào lửa, có việc                              gì mà gấp thế?"                              Khi ấy có người nói: "Bọn Sa                              môn này không sống theo chánh đạo, muốn lấy đồ vật                              của người ta. Ví như quân trộm cướp rình xem người                              ta giấu của ở đâu để lấy về nuôi sống, như là thuốc                              trị bệnh. Bọn Sa môn này cũng như vậy, chờ khi người                              ta bị tai họa mà chạy xông vào thành... Ðó là những                              kẻ bại hoại, nào có đạo hạnh gì!"                              Các Tỳkheo nghe thế, bèn đem                              nhân duyên ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              gọi các Tỳkheo ấy đến. Họ bèn gọi đến. Khi các                              Tỳkheo ấy đến rồi, Phật liền hỏi: "Vì so các ông lại                              hướng về trong thành mà chạy khiến cho người đời                              hiềm trách?". Ðáp: "Bạch Thế Tôn! Y phục và vật dụng                              của chúng con trước đây để trong thành, khi trong                              thành phát hỏa, chúng con sợ mất y nên mới chạy vào                              để lấy".                               Phật liền hỏi các Tỳkheo: "Vì                              sao Tăng chúng các ông không tác pháp Yết ma ly y                              túc?"  Ðáp: "Có tác Yết ma".                              Phật lại hỏi: "Tác Yết ma bằng                              cách nào?"                               Ðáp: "Kết luôn cả thành Xá vệ".                              Phật liền nói với các Tỳkheo:                               -- "Vì sao các ông lại tác Yết                              ma gom chung chỗ A lan nhã với thôn xóm? Từ nay trở                              đi ta không cho phép làm phép Yết ma gom chung A lan                              nhã với thôn xóm, mà phải A lan nhã kết chung với A                              lan nhã, thôn xóm kết chung với thôn xóm . Nếu ghép                              chung A lan nhã với thôn xóm, thôn xóm với A lan nhã                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni". Thế rồi Phật ra lệnh cho                              các Tỳkheo đang sống tại (295a) thành Xá vệ phải tập                              họp lại tất cả. Rồi vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỳkheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              --"Nếu Tỳkheo việc y đã                              xong, y Ca hi na cũng đã xả, mà rời một trong ba y                              ngủ qua đêm một chỗ khác - trừ trường hợp Tăng Yết                              ma cho phép - thì phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề".                              Giải thích:                              - Y đã xong: Ba y                              đã đầy đủ gọi là y đã xong. Hoặc không thọ y Ca hi                              la cũng gọi là y đã xong, hoặc đã xả y ca hi na cũng                              gọi là y đã xong, hoặc y được giặt nhuộm xong cũng                              gọi là y đã xong.                              - Y: Y gồm có các                              loại y Kiếp bối, y Khâm bà la, y Sô ma, y Kiêu xà                              da, y Xá na, y Ma, y Khu mâu đề.                              - Xả y Ca hi na:                              Gồm có mười việc từ thọ y xả cho đến chung cục xả.                              - Một đêm: Từ lúc                              mặt trời sắp lặn cho đến bình minh xuất hiện.                              - Ba y: Y Tăng                              già lê, y Uất đa la tăng và y An đà hội.                              - Trừ Tăng Yết ma:                              Nếu Tăng không làm Yết ma cho phép thì không được                              rời y một đêm. Nhưng nếu làm Yết ma mà bạch không                              đúng cách thì việc Yết ma cũng không thành tựu. Hoặc                              làm Yết ma mà tất cả đều sai cách thức thì cũng như                              không làm Yết ma.                              - Làm Yết ma:                              Bạch thành tựu (đúng cách thức), Yết ma thành tựu,                              chúng thành tựu, tất cả mọi chi tiết đều đúng pháp                              thì gọi là Tăng đã làm Yết ma. Nếu đã làm Yết ma như                              thế thì Thế Tôn bảo là không có tội (tức được rời y                              một đêm không phạm tội).                              - Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề:                              Tức chiếc y ấy cần phải xả giữa chúng Tăng, rồi sám                              hối tội Ba Dạ Ðề; nếu không xả mà sám hối thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni.                              - Ba Dạ Ðề: Như                              trên đã nói.                              - Cương giới: 1- Cương giới Yết                              ma; 2- Cương giới du hành; 3- Cương giới nương tựa;                              4- Cương giới bảy cây Am bà la (xoài).                              1- Cương giới Yết ma:                              (a) Nói rộng; (b). Nói sơ lược; (c). Thôn xóm; (d).                              Nêu tên; (e). Cột mốc; (f). Tùy khúc giới; (g). Tị                              nạn giới; (hoặc) Chư phương giới.                              a- Nói rộng: Như                              tại nước Ma Ðầu La có Tùng Lâm tinh xá, ở phía Ðông                              của Ma Ðầu La, có sông Diêm Phù Na và về phía Ðông                              của sông này có tinh xá Tiên Nhân Tụ Lạc. Bấy giờ,                              các Tỳkheo ở tinh xá Tiên Nhân Tụ Lạc sai sứ giả đến                              thưa với chư Tăng tại tinh xá Tùng Lâm như sau:                              "Chúng tôi muốn cùng quí vị kết                              chung một giới vức Bố tát".                              Các Tỳkheo kia hỏi: "Vì sao                              vậy?"  Ðáp: "Vì ở bên đó có nhiều thức                              ăn ngon lành, lại được y của từng phòng riêng, y An                              cư, nên chúng tôi muốn cùng được san sẻ".                              Các Tỳkheo kia nên trả lời:                              "Nếu vì y phục và ẩm thực mà muốn kết giới chung thì                              điều đó không thích hợp, các vị cứ hãy ở yên bên                              đó".  Nhưng nếu họ nói: "Trú xứ của                              chúng tôi có nhiều Tỳkheo trẻ tuổi, không am tường                              Khế Kinh, Tì Ni, A Tì Ðàm, không khéo quán tưởng về                              ấm, giới, nhập, 12 nhân duyên, cho nên muốn đến các                              Trưởng lão để học Khế Kinh, Tỳ Ni, A Tì Ðàm, ấm,                              giới, nhập, quán tưởng 12 nhân duyên".                              Thì các vị kia nên nói: "Sau                              khi Tăng chúng bên các thầy làm Yết ma mà không gặp                              trở ngại gì thì chúng tôi sẽ cùng (295b) các Thầy                              kết giới chung".                              Ðồng thời bảo tất cả Tỳkheo đến                              hết bên đó. Nếu không đến thì tất cả phải ra hết                              ngoài giới, hoặc là bên đó đến, hoặc là ra hết ngoài                              giới rồi mới làm phép Yết ma. Người làm Yết ma nên                              nói thế này:  "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy                              từ tinh xá Tùng Lâm đến tinh xá Tiên Nhân Tụ Lạc, ở                              trong đó: Nội giới, ngoại giới, nội ngoại giới và                              trung gian giới cùng kết chung một giới vức Bố tát".                              Rồi bạch như sau:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe! Từ                              tinh xá Tùng Lâm này đến tinh xá Tiên Nhân Tụ Lạc, ở                              trong đó: Nội giới, ngoại giới, nội ngoại giới và                              trung gian giới Tăng nay kết hợp chung thành một                              giới vức Bố tát. Các đại đức nào bằng lòng thì im                              lặng, ai không bằng lòng hãy nói.                              Tăng đã bằng lòng đem tinh xá                              Ma Ðầu La, Tùng Lâm kết chung với tinh xá Tiên Nhân                              Tụ Lạc - Hai đại giới này - Thành một giới vức Bố                              tát đã xong. Tăng bằng lòng vì im lặng. Việc này cứ                              như thế mà thi hành".                              Nếu ở trung gian không có sông                              thì nên làm Yết ma thành một chỗ, nhưng nếu ở Trung                              gian có sông thì phải làm Yết ma chia thành ba khu                              vực:  1- Tinh xá Ma Ðầu La.                              Nhưng nếu trong sông có cù lao                              thì phải làm Yết ma chia thành 5 khu vực:                              1- Tinh xá Ma Ðầu La.                              Cũng như trên đất liền cách hai                              bên đường mỗi bên 25 khuỷu tay, ở trong nước cũng                              vậy.  Sau khi kiết giới xong, một hôm                              vào mùa hạ, nước dâng lên cao, Tỳkheo nhận dục xong                              muốn đến tham dự Yết ma, nhưng bị nước cuốn trôi ra                              khỏi ranh giới, suýt chết, may mà sống được, bèn                              bạch với các Tỳkheo: "Vừa rồi tôi nhận dục xong đến                              đây bị nước cuốn trôi, may mà thoát chết, nay có thể                              kiết giới rộng được không?".                              Các Tỳkheo đáp: "Ðược! Vậy Thầy                              hãy đi đến phía trên, phía dưới nước khoảng ba do                              tuần làm các tiêu xí như cây, đá, hoặc đống đất, rồi                              trở về đây".                              Bấy giờ, người làm Yết ma nên                              nói thế này:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe! Từ                              tinh xá Ma Ðầu La cho đến tinh xá Tiên Nhân Tụ Lạc,                              nội giới, ngoại giới, nội ngoại giới, trung gian                              giới và trên, dưới nước với chừng mực như thế trở                              lại... Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng                              nay kết từ tinh xá Ma Ðầu La cho đến Tinh Xá Tiên                              Nhân Tụ Lạc, trên dưới sông với chừng mực như thế                              trở lại làm thành giới vức Bố tát Yết ma, xin bạch                              như vậy".                              Rồi bạch một lần Yết ma cho đến                              "Tăng bằng lòng vì im lặng. Việc đó cứ như thế mà                              thi hành".                               Lại có một lần, một người nhận                              dục xong đi đến chỗ Yết ma, bèn lên thuyền định đi,                              nhưng người chèo đò kéo thuyền ngược dòng nước rồi                              mới chèo, liền nói với Tỳkheo: "(295c) Thuyền nặng                              khó kéo đi, Thầy hãy lên bờ đến chỗ chèo được rồi                              hãy lên thuyền trở lại". Thầy Tỳkheo này vì đang                              nhận dục nên không được lên bờ, vì hễ ra khỏi giới                              thì bị mất dục. Do đó, Thầy phải lội dọc theo bờ mà                              đi tới, nhưng vì thuyền trôi quá nhanh nên ra khỏi                              phạm vi của giới vức. Tỳkheo bèn ở trong phạm vi của                              giới vức bơi theo thuyền, nhưng nước lại cuốn thuyền                              trôi về phía dưới quá ba do tuần. Bấy giờ, Tỳkheo                              phải bỏ thuyền nhắm bờ mà lội đến, khi tới được đầu                              đường thuộc phạm vi trong giới vức rồi mới lên bờ.                              Ðó là trình bày rộng.                              b- Nói sơ lược:                              Người làm Yết ma nên nói thế này:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe:                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy                              từ tinh xá Ma Ðầu La cho đến tinh xá Tiên Nhân Tụ                              Lạc, nội giới, ngoạigiới, nội ngoại giới và trung                              gian, kết chung thành một cương giới Bố tát, xin                              bạch như thế".                              Bạch một lần Yết ma cho đến "Vì                              Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc đó cứ như thế mà                              thi hành".                               Ðó gọi là nói sơ lược về cương                              giới.  c- (Cương giới của) thôn                              xóm: Nếu như tinh xá Ma Ðầu La ở phương Tây                              và tinh xá Tụ Lạc muốn kết chung thành một cương                              giới Bố tát thì nên kể tên các tinh xá trong phạm vi                              ba do tuần để làm Yết ma. Người làm Yết ma nên nói                              thế này:                               "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy                              từ tinh xá Ðiềm, tinh xá Ðông, tinh xá Thắng, tinh                              xá Bất Loạn, tinh xá Hiền, tinh xá Giới Thứ Ðệ, tinh                              xá Loa, tinh xá Lạc Thôn và tinh xá Hoàng, trong các                              tinh xá như vậy, nội giới, ngoại giới, nội ngoại                              giới và trung gian giới kết chung thành một cương                              giới Bố tát, xin bạch như thế".                              Rồi bạch một lần Yết ma, cho                              đến: "Vì Tăng bằng lòng nên im lặng. Việc đó cứ như                              thế mà thi hành".                              d- Nêu tên (cương giới):                              Nếu Tỳkheo làm Yết ma không biết tên của các tinh xá                              thì nên nhờ một cựu Tỳkheo hiểu biết xướng tên của                              các tinh xá giữa chúng Tăng, rồi người làm Yết ma                              nên nói thế này:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, thì kể từ hôm                              nay, Tăng đem các tinh xá mà thầy Tỳkheo mỗ giáp vừa                              nêu tên, nội giới, ngoại giới, nội ngoại giới và                              trung gian giới, kết chung thành một cương giới Bố                              tát, xin bạch như thế".                              Rồi bạch một lần Yết ma, cho                              đến: "Vì Tăng bằng lòng nên im lặng. Việc đó cứ như                              thế mà thi hành".                              Ðó gọi là nêu tên cương giới.                              e- Cột mốc của giới:                              Người làm Yết ma nói như thế này:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe:                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy                              các cột mốc như tảng đá, ngọn núi, cái giếng, bến                              đò, gốc cây, nội giới, ngoại giới, nội ngoại giới và                              trung gian giới, (296a) kết thành một cương giới Bố                              tát. Xin bạch như thế".                              Rồi bạch một lần Yết ma, cho                              đến: "Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc đó cứ                              như thế mà thi hành".                              Nếu người làm Yết ma không biết                              rõ các cột mốc thì trước hết phải nhờ một Tỳkheo cựu                              trú hiểu biết xướng tên các cột mốc ở giữa Tăng như                              trong trường hợp nêu tên ranh giới ở trên.                              f- Tùy khúc giới:                              Có các tinh xá ở cuối thôn xóm bị hư hại nhiều, rồi                              có người cúng dường dụng cụ cho chúng Tăng muốn các                              Tỳkheo của các tinh xá kết chung một cương giới Bố                              tát, và dùng các dụng cụ ấy sửa chữa các tinh xá.                              Nhưng Tỳkheo ở các nơi có người thì muốn kết giới                              chung, có người thì không muốn. Nếu gặp trường hợp                              như thế, thì những người muốn kết giới chung phải                              tập họp hết lại rồi dẫn nhau ra khỏi cương giới. Còn                              những người không muốn kết giới chung thì phải đặt                              những cột mốc trong phạm vi tinh xá của mình để an                              trú. Trong khi ấy những người muốn kết giới chung                              sau khi đã tập họp một chỗ thì người làm Yết ma nên                              nói thế này:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, kể từ hôm nay,                              Tăng đem trú xứ này với trú xứ mỗ giáp, có những cột                              mốc chỉ rõ nội giới, ngoại giới, nội ngoại giới và                              trung gian giới kết chung thành một cương giới Bố                              tát. Xin bạch như thế".                              Rồi bạch một lần Yết ma, cho                              đến: "Vì Tăng bằng lòng nên im lặng. Việc đó cứ như                              thế mà thi hành".                              Ðó gọi là Tùy khúc giới.                              g- Tị nạn giới:                              Tại một trú xứ kia, các Tỳkheo đã tiền an cư, hậu an                              cư xong, bỗng một hôm có tai nạn xảy ra, như nạn                              giặp cướp, nạn vua, hoặc bị cướp đoạt mạng sống,                              hoặc phá giới, hoặc nước có nhiều ký sinh trùng lọc                              không sạch; do thế, các Tỳkheo muốn đến một tinh xá                              cách đó ba do tuần để lánh các tai nạn ấy. Bấy giờ,                              phải gọi các Tỳkheo ở tinh xá ấy đến, hoặc ra ngoài                              giới, rồi người làm Yết ma tác bạch thế này:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng đem                              trú xứ này với tinh xá Tụ Lạc mỗ giáp kia gồm nội                              giới, ngoại giới, nội ngoại giới và trung gian giới                              kết chung thành một cương giới Bố tát. Xin bạch như                              thế".  Rồi bạch một lần Yết ma, cho                              đến: "Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc đó cứ                              như thế mà thi hành".                              Nếu đến nơi đó rồi, lại muốn                              tới các tinh xá khác nữa, thì nên xả cương giới                              trước bằng cách bạch Yết ma như sau:                              "Xin đại đức Tăng lắng nghe!                              Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay đem                              trú xứ này với trú xứ trước kia kết thành cương giới                              tụng giới riêng, xin bạch như vậy".                              Rồi bạch một lần Yết ma cho                              đến: "Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Việc ấy cứ                              như thế mà thi hành".                              Thế rồi, Tăng lại muốn đi tới                              một tinh xá cách đó ba do tuần và (296b) kết thành                              một cương giới Bố tát. Rồi muốn đi tới trước nữa,                              thì phải xả cái sau, kết cái trước, cho đến khi tìm                              được nơi thích ý ở phía trước. Cứ như vậy, tùy ý                              kết, tùy ý xả. Ðó gọi là cương giới tị nạn.                              h- Chư phương giới:                              Nếu Tỳkheo trong lúc hạ an cư mà xảy ra các tai nạn                              như: Nạn vua, nạn giặc, nạn cướp, nạn giết hại, nạn                              phá giới, hoặc nước có nhiều ký sinh trùng không thể                              lọc sạch được, thì tùy theo bốn phương, mỗi phương                              cách ba do tuần, được tự do kết giới, như đã nói ở                              trên. Nếu tai nạn đến bất ngờ, không thể làm Yết ma                              được, thì có thể ra đi, không có tội. Ðó gọi là                              cương giới ở các phương.                              2- Cương giới du hành:                             Ðó là các cương giới như:                              a- Cương giới của một thôn có                              60 gia đình. b- Cương giới có ngăn cách. c- Cương                              giới lầu gác. d- Cương giới giữa   hai con đường. e-                              Cương giới của giếng. f- Cương giới của cây. g-                              Cương giới của vườn. h- Cương giới của đám dây bò                              dưới đất. i- Cương giới tạm trú một đêm. k- Cương                              giới của thuyền. l- Cương giới trong nhà. m- Cương                              giới gồm chung.                              a- Cương giới của một                              thôn có 60 gia đình: Như một thôn xóm lớn                              của nước Thích Ca Lê, thôn lớn của nước Tô Di, thôn                              lớn của nước Ma Ðầu La, thôn lớn của ấp Ba Liên                              Phất; các thôn ấy đều có xây cất nhà cửa. Nếu Tỳkheo                              để y tại ngôi nhà thứ nhất còn bản thân mình ngủ đêm                              tại ngôi nhà thứ ba, mà lúc ra đi mặt trời chưa lặn                              đến lúc mặt trời xuất hiện mới trở về thì phạm tội                              Ni Tát Kì. Nhưng nếu ra đi lúc mặt trời đã lặn đến                              sáng hôm sau mặt trời chưa xuất hiện trở về thì chưa                              có tội. Nhưng khi ra đi mặt trời chưa lặn đến khi                              mặt trời chưa xuất hiện trở về thì không có tội.                              Hoặc giả, trong tất cả các ngôi nhà ấy đều có Tỳkheo                              trú ngụ thì không có tội. Hoặc đã kết giới không mất                              y, thì không có tội. Hoặc thôn xóm có tường vách bao                              quanh thì không có tội. Hoặc có hào mương bao quanh                              cũng không có tội. Hoặc có bờ ngăn nước bao quanh                              cũng không có tội. Hoặc các ngôi nhà ấy đều đi chung                              một cửa cũng không có tội. Nếu thôn xóm đó có con                              đường xuyên qua mà Tỳkheo để y ở bên trái đường còn                              mình đi qua bên phải đường từ lúc mặt trời chưa lặn                              đến khi mặt trời xuất hiện, thì như đã nói ở trên.                              Nếu Tỳkheo nằm nghỉ ở giữa đường, dùng ba y gối đầu,                              (cho đến khi mặt trời chưa xuất hiện) mà y rời khỏi                              đầu thì phạm tội Ni Tát Kì. Vì (theo luật) không                              được cách ly với y (vào lúc ban đêm). Thế nên tất cả                              các y ấy đều phải xả (giữa chúng Tăng). Nếu thôn xóm                              có tường bao xung quanh, hoặc có hào mương, có bờ                              rào, hoặc cả thôn chỉ có một cổng mà cổng được đóng                              lại, thì đều không có tội. Ðó gọi là cương giới của                              một thôn có 60 gia đình.                              b- Cương giới bị ngăn                              cách: Cũng như trên.                              c- Cương giới của lầu                              gác: Cách con đường lên gác thang mỗi bên 25                              khuỷu tay, đó gọi là cương giới của lầu gác. Nếu                              Tỳkheo để y trên gác, rồi vào lúc mặt trời chưa lặn                              ra đi cách đó hơn 25 khuỷu tay, đến khi mặt trời                              xuất hiện mới trở về thì phạm tội Ni Tát Kì. Nhưng                              nếu ra đi lúc mặt trời đã lặn, đến khi mặt trời xuất                              hiện trở về thì không có tội. Hoặc ra đi lúc mặt                              trời đã lặn đến khi mặt trời chưa mọc mà trở về, thì                              không có tội. Nếu Tỳkheo đang ở trên lầu gác mà sợ                              bọn giặc cướp đến cướp phá lầu gác nên mang y ra                              khỏi lầu gác cách xa hơn 25 khuỷu tay cất giấu, rồi                              trở về nghỉ trên lầu, khi ra đi mặt trời chưa lặn                              (296c) đến lúc mặt trời xuất hiện mới nhận lại y thì                              phạm tội Ni tát kì, cũng như trên đã nói.                              Nếu Tỳkheo ban đêm đi đại tiểu                              tiện lìa y trong vòng 25 khuỷu tay, rồi sau đó trở                              về lại chỗ để y, thì không có tội. Ðó gọi là Cương                              giới của lầu gác.                              d- Cương giới của hai                              loại đường: Ðó là: (1)- Ðường bộ; (2)- Ðường                              xe đi.                               (1)- Cương giới đường bộ: Có                              Tỳkheo vì sợ lạnh nên đi đến các xứ ấm áp, hoặc vì                              sợ nóng nên đi đến những xứ ôn đới. Trong khi đi                              đường, Thầy vừa đi vừa bàn luận với các bạn bè, đệ                              tử mang y bát đi sau, theo Thầy không kịp. Ðến lúc                              mặt trời lặn, Thầy sợ phạm tội nghỉ rời y, nên rời                              khỏi con đường, dừng lại một chỗ để đợi đệ tử. Nhưng                              lúc đệ tử đi qua không thấy Thầy, nên Thầy ngồi đợi                              cho đến sáng. Nếu chỗ Thầy ngồi đợi y cách đường                              trong vòng 25 khuỷu tay, rồi sau đó mới gặp lại y,                              thì không phạm. Nhưng nếu chỗ ngồi chờ quá 25 khuỷu                              tay thì phạm tội Ni tát Kỳ.                              Hoặc trường hợp đệ tử cầm y đi                              trước, khi mặt trời lặn liền suy nghĩ: "Chớ để Thầy                              ta nghỉ đêm rời y"bèn dừng lại ở ngoài đường đợi                              Thầy đến. Nhưng vì ngủ quên không hay Thầy đi qua,                              đến sáng mới gặp nhau thì cũng như trên đã nói. Ðó                              gọi là đường bộ.                              (2)- Cương giới đường xe đi:                              Tỳkheo cùng đi xe với khách buôn, để y trên xe, vì                              sợ bụi bặm nên đi trước, đến lúc mặt trời lặn, sợ                              phạm tội ngủ rời y, phải dừng lại ở ngoài đường                              trong vòng 25 khuỷu tay chờ xe để đến để gặp lại y,                              thì không phạm.                              Nếu Tỳkheo để y trên xe rồi đi                              theo sau xe, đến khi mặt trời lặn không biết chiếc                              xe nào là xe mình để y, thì bấy giờ Tỳkheo nên nghỉ                              cách bến xe trong vòng 25 khuỷu tay, rồi sáng hôm                              sau gặp lại y thì không phạm.                              Nếu chiếc xe lớn phải leo lên                              một, hai, ba tầng cấp mà Tỳkheo để y trên xe rồi                              đứng dưới xe, từ lúc mặt trời chưa lặn cho đến khi                              mặt trời xuất hiện thì phạm tội Ni Tát Kì, cũng như                              trên đã nói. Nhưng nếu giữa đêm có sờ tay vào trên                              xe thì không phạm.                              Nếu Tỳkheo nghỉ trên xe mà để y                              dưới xe, hoặc ở trước xe mà để y sau xe, hoặc ở sau                              xe mà để y trước xe (297a), hoặc ở bên trái xe mà để                              y bên phải xe, hoặc ở bên phải xe mà để y bên trái                              xe, từ lúc mặt trời chưa lặn cho đến khi mặt trời                              mọc thì phạm tội Ni Tát Kì.                              Nếu Tỳkheo để y trên xe rồi tìm                              chỗ yên lặng cách xe hơn 25 khuỷu tay để nghỉ; ra đi                              từ lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc mới                              trở về thì phạm tội Ni Tát kì, như trên đã nói.                              Nếu Tỳkheo vì sợ bọn cướp nên                              đem y cất giấu một chỗ cách xe hơn 25 khuỷu tay rồi                              trở về ngủ trên xe, khi mặt trời chưa lặn cho đến                              khi mặt trời mọc thì phạm tội Ni Tát Kì, như trên đã                              nói. Nhưng nếu ban đêm trở dậy đi đại tiểu tiện, rời                              y trong vòng 25 khuỷu tay, rồi trở về chỗ để y thì                              không có tội.                              Nếu tại bãi xe người ta dùng                              dây dài ngăn ra để nhốt bò, mà Tỳkheo nghỉ phía bên                              này dây, để y phía bên kia dây, từ lúc mặt trời chưa                              lặn cho đến khi mặt trời mọc thì phạm tội Ni Tát Kì,                              như trên đã nói. Ðó gọi là cương giới hai loại                              đường.                               e- Cương giới của giếng:                              Nếu Tỳkheo đi đường với khách buôn, lỡ đường trú lại                              ở bên giếng, cách thành giếng trong vòng 25 khuỷu                              tay gọi là cương giới của giếng. Nếu để y trên thành                              giếng mà Tỳkheo đi cách thành giếng hơn 25 khuỷu                              tay, lúc ra đi mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời                              mọc mới trở về thì phạm tội Ni Tát Kì, cũng như trên                              đã nói.                               Nếu vì sợ bọn cướp nên từ lúc                              mặt trời chưa lặn đem y đi giấu cách giếng hơn 25                              khuỷu tay, rồi trở về nghỉ lại bên giếng đến khi mặt                              trời mọc mới lấy lại y thì phạm tội Ni Tát Kì. Nếu                              để y nơi cái lều che giếng rồi nghỉ trên giếng, từ                              lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc thì phạm                              tội Ni Tát Kì. Nếu dùng dây buộc từ cái y đến thân                              mình thì không phạm. Hoặc để y dưới đáy giếng, ngủ ở                              trên giếng, hoặc để y trên giếng, ngủ dưới đáy giếng                              (nếu giếng khô) cũng như thế. Nếu ban đêm đưa tay,                              chân chạm đến giếng, hợp cùng y thì không có tội.                              Ðó gọi là cương giới của giếng.                              f- Cương giới của cây:                              Trên cành lá của cây trong vòng 25 khuỷu tay gọi là                              cương giới của cây. Nếu Tỳkheo để y cách xa cây hơn                              25 khuỷu tay, từ lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt                              trời mọc... thì giống như trên đã nói. Nếu Tỳkheo vì                              sợ bọn cướp lấy y nên để y cách xa cây hơn 25 khuỷu                              tay, từ lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc                              mới lấy lại y, thì phạm tội Ni Tát Kì. Nếu rời y từ                              lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời chưa mọc nhận                              lại y thì không phạm. Hoặc ra đi từ lúc mặt trời đã                              lặn đến khi mặt trời mọc mới trở về thì không phạm.                              Hoặc trong đêm ghé lại chỗ để y chạm vào y, thì                              không phạm. Nếu để y trên cây, nghỉ dưới gốc cây,                              hoặc để y dưới gốc cây nghỉ trên cây từ lúc mặt trời                              chưa lặn đến khi mặt trời mọc thì phạm tội Ni Tát                              Kì. Nếu dùng dây buộc từ y đến thân mình thì không                              có tội. Ðó gọi là cương giới của cây.                              g- Cương giới của vườn:                             Cũng như vậy.                              h- Cương giới của đám dây                              bò dưới đất: Các loại dây như dây mây, dây                              dang (297b), dây chùm bao, dây bìm bìm, dây tơ                              hồng.v.v... Cách ngoài các loại dây ấy chừng độ 25                              khuỷu tay thì được gọi là cương giới của các đám                              dây. Nếu Tỳkheo đi đường với khách buôn gặp những                              đám dây như thế, muốn nghỉ lại bèn tìm một chỗ khuất                              để giấu y dưới đám dây, rồi ra ngoài phạm vi 25                              khuỷu tay, từ lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời                              mọc mới trở về, thì phạm Ni Tát Kì. Nhưng nếu ra đi                              từ lúc mặt trời đã lặn đến khi mặt trời mọc trở về                              thì không có tội. Hoặc ra đi từ lúc mặt trời chưa                              lặn đến khi mặt trời chưa mọc trở về cũng không có                              tội. Nếu vì sợ bọn cướp lấy y nên đem giấu y cách                              đám dây hơn 25 khuỷu tay, rồi trở về nghỉ chỗ đám                              dây, ra đi lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời                              mọc thì cũng như trên đã nói. Nếu trong đêm đi tiểu                              rồi trở về chỗ để y chạm vào y thì không có tội.                              Nếu để y trên đám dây, nghỉ                              dưới đám dây, để y dưới đám dây nghỉ trên đám dây                              thì cũng như vậy. Nhưng nếu dùng dây buộc từ y đến                              thân thì không có tội. Ðó gọi là cương giới của đám                              dây.  i-Cương giới tạm trú:                              Nếu Tỳkheo dừng chân nơi lữ quán với nhiều hạng                              người, rồi chủ lữ quán nói: "Ở trong đây sợ có kẻ                              trộm cắp, vậy mỗi người phải tự phòng bị".                              Tỳkheo bèn hỏi chủ lữ quán:                              "Lão trượng! Chỗ nào an toàn?".                              Chủ lữ quán đáp: "Trên gác an                              toàn", hoặc nói: "Dưới gác an toàn". Rồi Tỳkheo giấu                              y dưới gác, lên nghỉ trên gác, hoặc giấu y trên gác                              xuống nghỉ dưới gác, rời y từ lúc mặt trời chưa lặn                              đến khi mặt trời mọc mới nhận lại y thì phạm Ni Tát                              Kì, như trên đã nói. Nhưng nếu con đường lên thang                              gác thông nhau, thì không phạm.                              Nếu Tỳkheo trong lúc đi đường                              dừng chân tại một Thiên Tự, rồi người chủ Thiên Tự                              nói: "Ở nơi đây sợ có kẻ lấy trộm đồ, vậy mỗi người                              phải tự phòng bị lấy".                              Tỳkheo bèn hỏi chủ Thiên Tự:                              "Nơi nào an toàn?".                              Người chủ Thiên Tự hoặc đáp: "Ở                              trong nhà an toàn, hoặc ở ngoài nhà an toàn".                              Rồi Tỳkheo bèn để y ở trong                              nhà, ra ngoài nhà nằm quay đầu về hướng nhà, rời y                              từ lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc mới                              nhận lại y thì phạm Ni Tát Kì, như trên đã nói.                              Nhưng nếu Tỳkheo nằm gần cửa thì không phạm.                              Nếu Tỳkheo đi đường rồi dừng                              chân tại một thôn xóm hoang vắng, để y tại căn phòng                              thứ nhất, còn mình nghỉ tại căn phòng thứ ba, từ lúc                              mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc, thì như trên                              đã nói. Nhưng nếu tất cả các phòng đều có Tỳkheo                              trú, thì không phạm. Hoặc đã làm Yết ma kết giới                              (không mất y), hoặc thôn xóm có hàng rào, tường,                              mương nước bao quanh, hoặc có con sông chảy xung                              quanh, thì không phạm.                              Ðó gọi là cương giới tạm trú.                              k- Cương giới của thuyền:                              Nếu Tỳkheo đi thuyền hoặc ngược dòng, hoặc xuôi dòng                              nước, trên thuyền có nhiều chỗ trú chân, hoặc chỗ                              trú chân của Tỳkheo, hoặc chỗ trú chân của ngoại                              đạo. Chỗ trú chân của Tỳkheo không kín đáo, không an                              toàn, nên Tỳkheo đem y đến gởi tại chỗ của ngoại đạo                              (297c), rời y từ lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt                              trời mọc mới nhận lại y thì phạm Ni Tát Kì, cũng như                              trên đã nói. Nhưng nếu ngoại đạo đồng ý cho gởi y                              vật, thì không phạm (?).                              Nếu thuyền cập bến, Tỳkheo để y                              trên thuyền, rồi lên thuyền đi quá 25 khuỷu tay, từ                              lúc mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc thì như                              trên đã nói.                              Nếu vì sợ trên thuyền có kẻ                              trộm nên Tỳkheo đem y lên bờ giấu ở chỗ cách thuyền                              hơn 25 khuỷu tay, rồi trở về nghỉ lại trên thuyền,                              rời y từ khi mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc                              mới nhận lại y thì phạm Ni Tát Kì. Nhưng nếu trong                              đêm đi đại tiểu tiện rồi ghé lại chỗ để y, chạm vào                              y thì không phạm.                              Nếu Tỳkheo phơi y trên thuyền,                              bị gió thổi khiến y bay cách xa thuyền, trải qua                              suốt đêm, thì phạm Ni Tát Kì. Nhưng nếu trong đêm                              gió thổi y bay vào trong thuyền thì không phạm. Nếu                              phơi y một nửa trong thuyền, một nửa ở ngoài thuyền                              thì phạm Ni Tát Kì.                              Vì y không được rời người, nên                              (nếu y rời người) thì phải xả tất cả.                              Ðó gọi là cương giới của                              thuyền.                               l- Cương giới trong nhà:                              Có hai anh em nhà kia cùng sống chung trong một nhà,                              sau đó họ ngăn hai ra, hoặc anh không cho em vào nhà                              mình, hoặc em không cho anh vào nhà mình. Nếu Tỳkheo                              nghỉ tại nhà người anh để y tại nhà người em, từ lúc                              mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc, thì như trên                              đã nói. Nhưng nếu hai anh em nói với Tỳkheo: "Vì                              chúng tôi là người thế tục nên phải ngăn ra như thế                              nhưng đối với pháp không có gì trở ngại, Thầy cứ tùy                              ý an trú", thì khi ấy có thể tùy ý để y (bên nào                              cũng được) không có tội.                              Nếu Tỳkheo đến nhà bạch y rồi                              nghỉ lại, vì sợ kẻ trộm nên hỏi bạch y: "Chỗ nào an                              toàn".                               Ðáp: "Trong nhà an toàn".                              Tỳkheo bèn để y trong nhà và nghỉ ở ngoài nhà từ khi                              mặt trời chưa lặn đến khi mặt trời mọc, thì như trên                              đã nói. Nếu trong đêm đưa một cánh tay vào trong nhà                              ngang qua lỗ trống, thì không phạm.                              Ðó gọi là cương giới trong nhà.                              m- Cương giới cả bốn bên:                              Nếu ở tại chỗ ranh giới của 4 thôn, Tỳkheo gối y                              trên đầu mà nằm, đầu thuộc một ranh giới, hai tay                              mỗi tay thuộc một ranh giới và chân thuộc một ranh                              giới. Nếu để y rời khỏi đầu, thì phạm Ni Tát Kì.                              Nhưng nếu trong đêm tay chân có chạm vào y thì không                              phạm.  Nếu xe dừng tại chỗ 4 ranh giới                              ấy mà đầu xe thuộc một ranh giới, đuôi xe thuộc một                              ranh giới, bánh xe trái thuộc một ranh giới, bánh xe                              phải thuộc một ranh giới; nếu để y trước xe, nghỉ                              sau xe, hoặc để y sau xe, nghỉ trước xe; hoặc để y                              bên phải xe, nghỉ bên trái xe; hoặc để y bên trái                              xe, nghỉ bên phải xe, từ lúc mặt trời chưa lặn đến                              khi mặt trời mọc, thì phạm Ni Tát Kì. Nếu rời y từ                              lúc mặt trời đã lặn đến khi mặt trời mọc chạm lại y                              thì không phạm. Hoặc rời y từ lúc mặt trời chưa lặn                              đến khi mặt trời chưa mọc, chạm lại y thì không                              phạm.  Ðó gọi là cương giới của 4 bên.                              3- Cương giới nương tựa                              (thôn xóm): Nếu Tỳkheo mặc thượng, hạ y vào                              thôn xóm, có chủ nhân (298a) nói với Tỳkheo: "Ðêm                              nay tôi muốn cúng dường tượng Phật để tạo phước đức,                              nhờ Thầy hãy giúp tôi sắp đặt cho". Tỳkheo bèn giúp                              họ trang trí tượng Phật hoặc treo màn, cắm hoa, trải                              tòa, sắp đặt giường ghế, đến lúc mặt trời lặn,                              Tỳkheo nói với chủ nhân: "Trời đã hoàng hôn, tôi                              phải về lại tinh xá", nhưng chủ nhân ân cần lưu                              Tỳkheo nghỉ lại. Nếu ở đây có các Tỳkheo khác có y                              dư thì nên mượn tạm để mặc. Nếu tại đó không có, mà                              gần đó có Tỳkheo cư trú thì nên đến họ mượn y. Nếu                              không có Tỳkheo mà có Tỳkheo ni cư trú thì cũng nên                              đến họ mượn. Nếu cũng không có mà người thế tục ở                              đây lại có y thì nên mượn y của họ rồi tác tịnh làm                              dấu để mặc. Nếu không có các trường hợp ấy thì rạng                              đông hôm sau khi cửa thành mở, phải trở về chùa gấp.                              Lúc trở về tinh xá, nếu cổng chùa chưa mở thì phải                              gọi người mở cửa. Nếu gọi không được thì phải trú                              dưới nhà của cổng chùa. Nếu cổng không có nhà thì                              phải đưa một tay xuyên qua lỗ trống vào bên trong.                              Lỗ trống có 2 loại: Hoặc lỗ trống của cửa, hoặc cống                              nước. Nếu cửa không có lỗ trống mà có cống nước thì                              nên đưa tay hoặc chân vào trong lỗ trống của cống                              nước. Trước khi đút tay chân vào nên dùng cây quậy                              nước cho rắn rít kinh sợ bỏ chạy rồi mới đút tay                              chân vào để tiếp cận với cương giới của y. Nếu không                              có cống nước thì nên leo tường mà vào; trước khi leo                              vào phải ra hiệu để người bên trong biết, kẻo họ ngỡ                              là bọn cướp mà sinh ra kinh sợ. Nếu không vào được                              thì phải xả y (để ở chùa) để khỏi phạm tội Việt Tỳ                              Ni, mà từ tội nhẹ hóa thành tội nặng.                              Nếu Tỳkheo ở tại tinh xá giặt y                              rồi trải trên bờ tường để phơi, bất ngờ ban đêm bị                              gió thổi làm rơi bên ngoài tường thì phạm Ni Tát Kì.                              Nhưng nếu y rơi bên trong tường thì không phạm.                              Nếu Tỳkheo ra ngoài tinh xá cởi                              y chấp tác, rồi để quên y ngoài đó, ban đêm nhớ lại                              ra tìm, nhưng không thấy, đến sáng sớm ra tìm mới                              thấy. Nếu y đó để cách tinh xá trong vòng 25 khuỷu                              tay thì không phạm,nhưng nếu cách tinh xá hơn 25                              khuỷu tay thì phạm Ni Tát Kì. Y đó phải xả giữa                              chúng Tăng.                              Ðó gọi là cương giới của thôn                              xóm.  4- Cương giới của 7 cây                              xoài: Khi Phật an trú tại thành Xá vệ, lúc                              ấy có một Bà la môn chuyên trồng loại cây xoài. Ông                              ta nghe nói Samôn Cù Ðàm ở thành Xá Vệ có Nhất thiết                              tri kiến, ai hỏi điều gì đều có thể trả lời thông                              suốt, bèn suy nghĩ: "Nay ta hãy đến hỏi về phương                              pháp trồng xoài, xem làm cách nào để cho gốc rễ vững                              chắc, cành lá tốt tươi, hoa quả sum sê, chồi mầm                              sinh trưởng, không bị chướng ngại". Nghĩ thế rồi,                              ông bèn đi đến chỗ Thế Tôn (298b), cùng nhau thăm                              hỏi, rồi ngồi xuống một bên, bạch với Thế Tôn:                              "Samôn Cù Ðàm! Trồng xoài bằng phương pháp nào để                              cho gốc rễ vững chắc, cành lá tốt tươi, hoa quả sum                              sê, chồi mầm sinh trưởng không bị chướng ngại?".                              Khi ấy, Thế Tôn nói với Bà la                              môn: "Dùng năm thước làm mức đo, cứ bảy thước trồng                              một cây, trồng như thế thì có thể làm cho cây ấy có                              gốc rễ vững chắc, cành lá tốt tươi, hoa quả sum sê,                              chồi mầm sinh trưởng, không bị trở ngại nhau". Bấy                              giờ, Bà la môn hoan hỉ, bèn thốt lên rằng: "Lành                              thay Samôn Cù Ðàm! Biết rất rành phương pháp trồng                              cây, thật là bậc có trí biết tất cả mọi thứ", rồi từ                              chỗ ngồi đứng dậy ra đi.                              Sau khi Bà la môn ra đi không                              bao lâu, Phật bèn nói với các Tỳkheo: "Ông Bà la môn                              này bữa nay thật là thiệt thòi lớn, điều nên hỏi thì                              không hỏi, điều không nên hỏi lại hỏi. Nếu ông ta                              hỏi về ý nghĩa của khổ tập thì đã có thể thấy được                              dấu vết của đạo mầu rồi. Tuy nhiên ông ta bữa nay                              đối với ta phát tâm hoan hỉ, như vậy cũng đã được                              ích lợi rồi".                              Khi ấy, Ưu Ba Ly biết đúng lúc,                              bèn bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Chúng con đã nghe về                              giới hạn của cây xoài, giờ xin hỏi thêm: "Nếu có một                              thành thị thôn xóm nào đó không thể biết được ranh                              giới, nhưng ta muốn làm Yết ma thì đến chừng mức nào                              được xem là Yết ma tốt nhất để cho Tăng chúng ở các                              chỗ đều có thể trông thấy nhau, khiến pháp Yết ma                              thành tựu, Tăng chúng không phạm tội biệt chúng?".                              Phật nói với Ưu Ba Ly: "Cứ 5                              khuỷu tay thành một cung, 7 cung trồng một cây xoài,                              làm Yết ma trong phạm vi 7 cây xoài, thì gọi là pháp                              Yết ma tốt nhất, khiến cho Tăng chúng ở các chỗ thấy                              được nhau, khỏi phạm tội biệt chúng. Ðó gọi là cương                              giới của 7 cây xoài".                              Nếu Tỳkheo lìa y ngủ qua đêm                              thì nên bạch với một vị trì luật có thể làm Yết ma                              như sau: "Thưa Trưởng lão! Tôi đã ngủ cách ly với                              chiếc y này qua đêm nên phải xả, xin Trưởng lão làm                              Yết ma giúp tôi". Pháp Yết ma này như trường hợp y                              quá 10 ngày đã nói ở trên. Thế nên nói:                              "Nếu Tỳkheo y đã xong, y Ca Hi                              Na cũng đã xả, nếu rời một trong ba y ngủ ở một chỗ                              khác thì phạm tội Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề, ngoại trừ                              trường hợp Tăng Yết ma cho phép".                              (Hết giới Ni Tát Kì thứ                              hai)                                 3. GIỚI: CẤT VẢI QUÁ HẠN.                              Khi Phật an trú tại thành Xá                              Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả A Na Luật                              đang dừng chân ở bên sông A Kì La được một miếng vải                              nhỏ, thầy bèn đem xuống sông A Kì La giặt rồi cất,                              định tìm thêm những miếng khác nữa. Khi ấy, đức Thế                              Tôn khuất dạng nơi chỗ trú và hiện đến bên bờ sông A                              Kì La, mặc dù biết Ngài vẫn hỏi A Na Luật: "Ông làm                              gì đó?".                               Ðáp: "Bạch Thế Tôn! Con được                              một miếng vải nhỏ, kích thước không đủ (298c), con                              định kiếm thêm những miếng khác nữa".                              Phật nói với A Na Luật: "Ông có                              chỗ nào hy vọng kiếm thêm được vải nữa không?".                              Ðáp: "Có!"                              Thế Tôn hỏi: "Chừng nào có thể                              được?".                               Ðáp: "Một tháng".                              Phật dạy: "Từ nay trở đi, ta                              cho phép ai có vải không đủ (may y) mà có chỗ hy                              vọng tìm thêm được nữa, thì có thể đợi một tháng để                              tìm cho đủ". Rồi Phật truyền lệnh cho các Tỳkheo                              đang trú tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, dù                              ai nghe rồi cũng phải nghe lại và chế giới:                              --"Nếu Tỳkheo y đã xong, y                              Ca hi na cũng đã xả mà được vải phi thời, lại đang                              cần y, thì hãy may nhanh thành y để dùng. Nếu số vải                              đó không đủ may y mà có chỗ hy vọng kiếm thêm cho                              đủ, thì Ta cho phép được cất trong một tháng. Trái                              lại, nếu cất trên một tháng thì dù đủ hay không đủ                              đều phạm Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề".                              Giải thích:                              - Y đã xong: Ba y                              đã đầy đủ cũng gọi là y đã xong. Không thọ y Ca hi                              na cũng gọi là y đã xong. Y Ca hi na đã xả cũng gọi                              là y đã xong. Giặt nhuộm y cũng gọi là y đã xong.                              - Ðã xả y Ca hi na:                              Có mười trường hợp xả y Ca hi na như trên đã nói.                              - Ðược vải: Ðược                              vải từ những người tại gia, xuất gia gọi là được                              vải.  - Phi thời: Nếu                              có thọ y Ca hi na thì thời gian phi thời là 7 tháng.                              Nếu không thọ y Ca hi na thì thời gian phi thời là                              11 tháng. Nếu được vải trong thời gian ấy, thì vải                              ấy thuộc phi thời.                              - Vải: Như trên                              đã nói.                               - Cần: Nếu vị                              Tỳkheo này thật sự đang cần đến y thì có thể dùng                              vải (vừa nhận được) may nhanh thành y để dùng. Nếu                              vải chưa đủ thì có thể triển hạn 1 tháng, tức là 30                              ngày, được cất giữ trong thời gian đó để chờ cho đủ.                              - Có hy vọng: Nếu                              Tỳkheo nghe nói nơi nào đó sẽ cúng vải thì có thể                              đợi cho đủ số, nên được cất giữ trong một tháng; nếu                              quá một tháng thì phạm Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề.                              - Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề:                              Chiếc y đó phải xả giữa chúng Tăng, rồi sám hối tội                              Ba Dạ Ðề. Nếu không xả mà sám hối thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni.                               - Ba Dạ Ðề: Như                              trên đã nói. Nếu Tỳkheo trong 10 ngày ấy có hy vọng                              được thêm vải, rồi mất hy vọng, hoặc hy vọng rất nhỏ                              nhoi, hoặc không có thể hy vọng, hoặc hy vọng yếu                              ớt, hoặc sinh hy vọng trở lại rồi mất hy vọng, hoặc                              hy vọng một chỗ khác.v.v.., những trường hợp này đều                              là triển hạn không chính đáng. Nếu khi được vải đủ                              số mà trong đó một nửa có tác tịnh, một nửa không                              tác tịnh, thì số đã tác tịnh được xem là hợp pháp;                              còn số không tác tịnh, để quá 10 ngày phạm Ni Tát                              Kì.  Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              đầu hoặc được vải từ cư sĩ, hoặc được vải phấn tảo                              mà không tự mình may y, không nhờ người khác may hộ,                              lại không cần dùng, không tác tịnh, thì số vải đó dù                              có may y hay không may y và các vải dư khác để quá                              10 ngày đều phạm Ni Tát Kì.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              đầu được vải cũ hoặc vải vụn (299a) mà không tự may                              y, không nhờ người khác may, để quá 10 ngày thì phạm                              Ni Tát Kì.                               Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              giữa được vải đã giặt sạch hoặc chưa giặt sạch mà                              không tự mình may y cũng không nhờ người khác may,                              không sử dụng cũng không tác tịnh, thì số vải ấy dù                              đem may y hay không may y và các vải dư khác để quá                              10 ngày đều phạm Ni Tát Kì.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              được vải thích hợp hoặc không thích hợp, nhận rồi mà                              không tự may y, cũng không nhờ người khác may y, để                              quá 10 ngày, thì phạm tội Ni Tát Kì.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              sau được vải, ban đầu định may một y, nhưng sau lại                              muốn may hai y. Rồi các Tỳkheo khác nói với Tỳkheo                              ấy: "Trưởng lão! Ban đầu Thầy định may một y, nay vì                              sao lại may hai y? Nay Thầy nên may một y như dự                              định ban đầu". Vị Tỳkheo ấy khi đã được vải không tự                              mình may y mà cũng không nhờ người khác may, lại để                              quá 10 ngày sau thì phạm Ni Tát Kì.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              sau được vải định may một y nhỏ nhiều mảnh, nhưng                              lại may một cái y lớn nhiều mảnh. Các Tỳkheo khác                              nói với Tỳkheo ấy: "Trưởng lão! Ban đầu Thầy định                              may một y nhỏ nhiều mảnh nay vì sao lại may một y                              lớn nhiều mảnh? Thầy hãy may theo dự định ban đầu".                              Vị Tỳkheo này được vải rồi mà không tự mình may y,                              không nhờ người khác may, không sử dụng, cũng không                              tác tịnh, thì số vải ấy dù may hay không may y, và                              các vải dư khác đã để quá 10 ngày đều phạm Ni Tát                              Kì.  Nếu Tỳkheo được vải trong vòng                              10 ngày đầu thì nên may y liền trong 10 ngày đầu;                              Ðược vải trong vòng 10 ngày giữa thì nên may y liền                              trong vòng 10 ngày giữa; Ðược vải trong vòng 10 ngày                              sau thì nên may y trong vòng 10 ngày sau.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              đầu, 5 ngày đã qua mà có hy vọng được vải thì trong                              5 ngày sau của 10 ngày đầu và trong 5 ngày đầu của                              10 ngày giữa, trong khoảng 10 ngày ấy nên may y.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              giữa đã qua hết 5 ngày đầu mà có hy vọng được vải                              thì trong 5 ngày sau của 10 ngày giữa và trong 5                              ngày đầu của 10 ngày sau, trong khoảng 10 ngày ấy                              nên may y.                               Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              sau đã qua hết 5 ngày đầu mà có hy vọng được y thì                              nên may y trong 5 ngày còn lại ấy.                              Nếu Tỳkheo trong vòng 10 ngày                              sau đã qua hết 6 ngày mới có hy vọng được vải, thì                              nên may y trong 4 ngày còn lại ấy. Hoặc đã qua 7                              ngày mới được vải, thì nên may y trong 3 ngày còn                              lại ấy. Hoặc đã qua hết 8 ngày mới được vải thì nên                              may y trong hai ngày còn lại ấy. Hoặc đã qua hết 9                              ngày mới được vải thì nên may y trong một ngày còn                              lại ấy. Nếu ngày thứ 10 được vải thì nên may y ngay                              trong ngày ấy. Khi may y nên nhờ những người khác                              giúp đỡ; đoạn giặt sạch, cắt xén, chằm vá, thêu                              thùa, thêu chiều ngang, thêu chiều dài, thêu viền                              xung quanh, đem đi nhuộm, tác tịnh rồi mới sử dụng.                              Nếu sợ làm một ngày không xong thì nên làm sơ sài                              cho xong để dùng (299b). Rồi sau đó mới dọn kỷ lại,                              cho nên Thế Tôn dạy:                              "Nếu Tỳkheo y đã xong, y Ca hi                              na đã xả... cho đến dù vải đủ hay không đủ để may y                              (mà để quá một tháng) thì phạm Ni Tát Kì".                              (Hết giới Ni Tát Kì thứ                              ba)                                 4. GIỚI: NHẬN Y CỦA NGƯỜI                              KHÔNG PHẢI BÀ CON.                              Khi Phật an trú tại thành Xá                              vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỳkheo ni Ưu Bát La                              đem chiếc y Tăng kỳ chi cho tôn giả A Nan Ðà. Vì                              chiếc y này dơ bẩn không sạch, nên A Nan Ðà đem tẩy                              những vết bùn lấm rồi phơi nắng. Phật biết nhưng vẫn                              hỏi: "A Nan Ðà! Ông làm gì đó?"                              Ðáp: "Bạch Thế Tôn! Tỳkheo ni                              Ưu Bát La cho con chiếc y Tăng kỳ chi này nhưng nó                              dơ bẩn không sạch nên con đem tẩy bùn đất, rồi đem                              phơi nắng".                              Phật lại hỏi A Nan Ðà: "Ông                              dùng vật dụng gì để đổi phải không?"                              Ðáp: "Không phải đổi, bạch Thế                              Tôn!".                               Phật nói với A Nan Ðà: "Nên cho                              một vật gì đó để đổi lấy, vì người nữ ít có những                              lợi lộc".                               Thế nhưng A Nan Ðà không muốn                              cho. Phật hỏi A Nan Ðà: "Vì sao không cho?"                              A Nan Ðà bạch Phật: "Cho vật                              gì?".  Phật bảo A Nan Ðà: "Ông nên đem                              tấm vải kiếp bối dài 16 khuỷu tay, rộng 8 khuỷu tay                              do vua Ba Tư Nặc đã bố thí mà cho".                              Tuy vậy, A Nan Ðà vẫn cố tình                              không cho, như kinh Kiếp Bối đã nói rõ.                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỳkheo ni                              Thiện Sinh mặc y rách rưới, dẫn đồ chúng đến đảnh lễ                              Thế Tôn. Phật biết nhưng vẫn hỏi các Tỳkheo: "Tỳkheo                              ni này là ai mà mặc y rách rưới đến đảnh lễ Ta                              vậy?".                               Các Tỳkheo bạch Phật rằng:                              "Bạch Thế Tôn! Ðó là Tỳkheo ni Thiện Sinh".                              Phật hỏi các Tỳkheo:"Tỳkheo ni                              Thiện Sinh này được y mà không mặc, hay không được                              y?".  Các Tỳkheo đáp: "Bạch Thế Tôn!                              Khi được y rồi cô bèn đem cho Ưu Ðà Di".                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỳkheo ni                              Thâu Lan Nan Ðà mặc y rách rưới, dẫn đồ chúng đến                              hầu thăm Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật. Phật                              biết mà vẫn hỏi các Tỳkheo: "Tỳkheo ni này là ai mà                              mặc y rách rưới đến viếng Ta vậy?".                              Các Tỳkheo bạch Phật rằng:                              "Bạch Thế Tôn! Ðó là Tỳkheo ni Thâu Lan Nan Ðà".                              Phật hỏi các Tỳkheo: "Tỳkheo                              Thâu Lan Nan Ðà này được y mà không mặc, hay vì                              không được y mà không mặc?".                              Các Tỳkheo đáp: "Chỉ vì khi                              được y rồi cô liền đem cho A Nan Ðà".                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỳkheo ni                              Tô Tì Ðề mặc y rách rưới, dẫn đồ chúng đến viếng                              thăm Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật (299c).                              Phật biết mà vẫn hỏi các Tỳkheo: "Tỳkheo ni này là                              ai mà mặc y rách rưới đến thăm Ta thế?".                              Các Tỳkheo bạch Phật rằng:                              "Bạch Thế Tôn! Ðó là Tỳkheo ni Tô Tì Ðề".                              Phật bèn hỏi các Tỳkheo:                              "Tỳkheo ni Tô Tì Ðề này được y mà không mặc hay                              không được y?".                              Các Tỳkheo đáp: "Chỉ vì khi                              được y rồi cô liền đem cho Tỳkheo Thiện Giải".                              Lại nữa, khi Phật an trú tại                              Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỳkheo ni                              Thất Lợi Ma mặc y rách rưới, dẫn đồ chúng đến viếng                              Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật. Phật biết mà                              vẫn hỏi các Tỳkheo: "Tỳkheo ni này là ai mà mặc y                              rách rưới đến viếng thăm Ta vậy?"                              Các Tỳkheo bạch Phật rằng:                              "Bạch Thế Tôn! Ðó là Tỳkheo ni Thất Lợi Ma".                              Phật hỏi các Tỳkheo:"Tỳkheo ni                              Thất Lợi Ma này được y mà không mặc hay không được                              y?"  Các Tỳkheo đáp: "Chỉ vì khi                              được y rồi cô liền đem cho chư Tăng". Phật lại hỏi                              các Tỳkheo: "Nếu thấy Tỳkheo ni thân quyến mặc y                              rách rưới như vậy thì Tỳkheo thân quyến có đành lòng                              nhận y cô ta không?".                              Ðáp: "Không nhận!"                              Thế Tôn lại hỏi: "Nếu Tỳkheo ni                              thân quyến mặc chiếc y rách rưới thì có thể đem                              chiếc y đó cho Thầy Tỳkheo thân quyến hay không?".                              Ðáp: "Không thể, bạch Thế                              Tôn!".                               Phật nói: "Thế nên Tỳkheo không                              nên lấy y của một Tỳkheo ni không phải bà con, trừ                              trường hợp trao đổi".                              Bấy giờ, Phật truyền lệnh cho                              các Tỳkheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp                              lại tất cả, rồi vì mười lợi ích mà chế giới cho các                              Tỳkheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              --"Nếu Tỳkheo nhận y của                              Tỳkheo ni không phải bà con - trừ trường hợp trao                              đổi - thì phạm Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề".                              Giải thích:                              - Tỳkheo: Như                              trên đã nói.                              - Tỳkheo ni không phải bà                              con: Không phải con cùng một cha, không phải                              con cùng một mẹ, thì gọi là Tỳkheo ni không phải bà                              con. Nếu một người là bà con mà nhiều người không                              phải bà con, hay nhiều người là bà con mà một người                              không phải bà con, như Sa di ni là bà con mà Tỳkheo                              ni không phải là bà con, hay Sa di ni không phải là                              bà con mà Tỳkheo ni là bà con, nếu được y - thuộc                              của chung - từ những người này thì phạm tội. Ngoại                              trừ hai chúng này thì không có tội.                              - Y: Gồm các loại                              y Khâm bà la, y Kiếp bối, y Kiêu xá da, y Sô ma, y                              Xá na, y Ma, y Khu vật đề.                              - Lấy (nhận):                              Nhận của người kia bố thí.                              - Trừ trường hợp trao                              đổi: Phật dạy nếu trao đổi thì không có tội.                              - Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề:                              Như trên đã nói.                              - Ba Dạ Ðề: Như                              trên đã nói.                              (300a) Tỳkheo không phải bà                              con, sai sứ giả đi nhận, sứ giả trao tự tay mình                              nhận, tự tay người này đưa, tự tay người kia nhận,                              người này sai sứ đưa, người kia sai sứ nhận.                              - Sai sứ giả nhận:                              Tỳkheo ni tự tay đưa y, rồi Tỳkheo sai sứ giả nhận                              lấy.  - Sứ giả trao, tự tay                              mình nhận: Tỳkheo ni sai sứ giả mang y đến                              cho Tỳkheo, rồi Tỳkheo tự tay mình nhận lấy.                              - Tự tay người này đưa,                              tự tay người kia nhận: Tỳkheo ni tự tay đưa                              y rồi Tỳkheo tự tay nhận lấy.                              - Người này sai sứ giả                              đưa, người kia sai sứ giả nhận: Tỳkheo ni                              sai sứ giả cầm y trao cho Tỳkheo, rồi Tỳkheo sai sứ                              giả nhận lấy.                              Nếu Tỳkheo nhận y từ một Tỳkheo                              ni không phải bà con, hứa sẽ đổi một vật khác mà                              không đưa, cũng không bảo ai đưa, không nói trực                              tiếp, cũng không nhờ ai nói hộ, rồi trả lại y hoặc                              cắt xén bớt rồi trả, hoặc đưa một vật khác với vật                              đã hứa và để vật ấy cách xa chỗ thấy nghe, ngoài                              phạm vi cương giới, thì Tỳkheo ấy phạm tội Ba Dạ Ðề.                              - Không đưa: Tự                              mình không đưa.                              - Không bảo ai đưa:                              Không bảo người khác đưa.                              - Không nói trực tiếp:                              Không tự mình nói với Tỳkheo ni: "Bữa sau vào lúc                              đó, tôi sẽ đưa y cho cô".                              - Không nhờ ai nói hộ:                              Không nhờ người khác nói với Tỳkheo ni: "Sau này vào                              hôm nào đó, tôi sẽ đưa y cho cô".                              - Trả lại y trước:                              Trả lại chiếc y trước của Tỳkheo ni. Ðó là điều                              không nên làm, mà nên đưa cho cô chiếc y khác.                              - Cắt xén bớt:                              Cắt xén chiếc y trước rồi trả lại cô ấy, thì đó                              không thể gọi là trao đổi.                              - Ðưa cái y thiếu kích                              thước: Nhận của họ cái y hoàn toàn, rồi đưa                              cho họ cái y nhỏ thiếu kích thước. Ðó không phải là                              cách trao đổi, mà phải đưa cho họ một cái y hoàn                              toàn.  - Trao cho vật khác:                              Chẳng hạn lấy y của họ, rồi đưa họ một cái bát nhỏ                              hoặc một cái tô, hoặc đưa thức ăn và những thứ khác.                              Ðó không phải gọi là trao đổi, mà nên trao đổi bằng                              y.  - Ðể cách xa chỗ thấy,                              nghe: Nếu Tỳkheo lấy y của một Tỳkheo ni                              không phải bà con, rồi không đưa lại trực tiếp,                              không nhờ ai đưa, mình không tự nói, cũng không nhờ                              ai nói, lại để cách xa chỗ nghe thấy, thì phạm Ba Dạ                              Ðề.  - Cách xa cương giới:                              Nếu Tỳkheo lấy y của một Tỳkheo ni không phải bà con                              mà không đổi lại vật khác, không tự mình đưa, không                              nhờ người khác đưa, mình không nói trực tiếp, cũng                              không nhờ ai nói giúp, rồi bỏ y ngoài cương giới 25                              khuỷu tay thì phạm Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỳkheo lấy y của một Tỳkheo                              ni không phải bà con hứa đổi lại vật khác mà không                              đưa, không tự mình đưa, không bảo người khác đưa                              giúp, không nói trực tiếp, không nhờ người khác nói                              giúp, rồi ngồi hoặc nằm, hoặc nhập định, đều phạm                              tội Ba Dạ Ðề. Nếu Tỳkheo ni không phải bà con đưa y                              cho một người quen biết rồi dặn: "Sa di! Tôi đưa cho                              chú chiếc y này, chú cầm đưa cho Tỳkheo mỗ giáp, sẽ                              được phước đức". Rồi Tỳkheo nhận lấy thì không có                              tội. Cũng vậy (nếu Tỳkheo ni ấy) đưa y cho Sa di ni,                              Thức xoa ma ni, Ưu bà tắc, cho đến các Ưu bà di và                              nói: "Ta đưa cho ngươi chiếc y này, ngươi hãy cầm                              đưa cho tôn giả Tỳkheo mỗ giáp, thì sẽ được công                              đức". Rồi Tỳkheo (300b) nhận lấy thì không có tội.                              Nếu Tỳkheo ni nói với Tỳkheo:                              "Tôi cho tôn giả mượn chiếc y này, tùy ý mặc", thì                              Tỳkheo được quyền mặc cho đến rách rồi trả lại vẫn                              không có tội.                              Nếu nhiều Tỳkheo ni cho y cho                              một Tỳkheo, thì Tỳkheo này phải đổi y lại cho mỗi                              Tỳkheo ni ấy, cũng có thể dùng một chiếc y cho các                              Tỳkheo ni ấy, và nói: "Này các chị em, chúng ta hãy                              trao đổi qua lại". Hoặc một Tỳkheo ni cho các Tỳkheo                              mỗi người một chiếc y, thì các Tỳkheo này mỗi người                              cũng phải cho lại Tỳkheo ni ấy một chiếc y. Cũng có                              thể chỉ cho một chiếc và nói: "Này chị, chúng tôi                              đổi lại cho chị chiếc y này".                              Hoặc nhiều Tỳkheo ni cho y cho                              nhiều Tỳkheo, thì các Tỳkheo cũng phải cho y lại cho                              các Tỳkheo ni ấy.                              Hoặc một Tỳkheo ni cho y một                              Tỳkheo, thì Tỳkheo này phải cho y lại cho Tỳkheo ni                              ấy.  Nếu Tỳkheo ni cho Tỳkheo bát,                              hoặc chén, hoặc tô, hoặc thức ăn và các vật nhỏ nhặt                              khác, thì Tỳkheo đều có thể lấy mà không có tội. Thế                              nên nói:                               "Nếu Tỳkheo nhận y từ Tỳkheo ni                              không phải bà con - trừ trường hợp trao đổi - thì                              phạm Ni Tát Kì Ba Dạ Ðề".                              (Hết giới thứ 4)
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2- Trong nước.                             
3- Tinh xá Tiên Nhân Tụ Lạc.                             
2- Trong nước.                             
3- Trên cù lao.                             
4- Trong nước.                             
5- Thôn Tiên Nhân.                             
 
 
 
