Một khác biệt giữa tạng Luận và tạng Kinh
    Hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã
    Thọ gây đau khổ như thế nào
    Thế nào là không thể điều khiển thọ
    Thọ quán niệm xứ
    Ngài Sārīputta (Xá Lợi Phất) tìm con đường dẫn đến tuệ giác cao siêu nhất
    Kinh Dīghanaka Sutta
    Ðạo và Quả phát sanh do nhàm chán
    Ðạo Quả A La Hán của Ngài Sārīputta
    Vedanā bhikkhave anattā, vedanā ca hidaṁ bhikkhave attā  abhavissa nayidaṁ vedanā ābādhāya saṁvatteyya labbhetha ca vedanāya evaṁ  me vedanā hotu evaṁ me vedanā mā ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave vedanā  anattā tasmā vedanā ābādhāya saṁvattati na ca labbhati vedanāya evaṁ me  vedanā hotu evaṁ me vedanā mā ahosīti.
    Nầy chư Tỳ Khưu, vedanā, thọ không phải là tự ngã..."
    Có ba loại thọ (vedanā):
    1. Sukha vedanā -- thọ lạc.
    2. Dukkha vedanā -- thọ khổ.
    3. Upekkhā vedanā -- thọ vô ký, không-vui-không-khổ.
     Thông thường ta không để ý đến thọ vô ký, chỉ có thọ lạc và thọ khổ.  Trong lúc trời nóng nực, ta cảm nghe thích thú khi có ngọn gió mát  thoáng qua, hoặc khi lau mặt, rửa mình với nước mát. Lúc trời lạnh lẽo,  nằm trên giường nệm đấp mền bông thì nghe ấm áp dễ chịu. Sau khi ngồi  hay đứng một thời gian lâu ta duỗi tay, duỗi chân ra hoặc thay đổi tư  thế, làm giảm bớt tình trạng căng thẳng của thân thì cảm nghe thoải mái  dễ chịu, tiện nghi. Tất cả những cảm thọ thoải mái tiện nghi do sự xúc  chạm với những đối tượng thích thú ấy là sukha vedanā, thọ lạc, mà người  đời thường giả thiết là tự ngã: "tôi nghe thích thú, tôi cảm nghe thoải  mái dễ chịu" -- và đeo đuổi chạy theo rượt bắt.
    Những cảm  thọ phát sanh khi xúc chạm với những đối tượng khó chịu đựng như trời  nóng nực, tay chân mệt mỏi, khí hậu lạnh lẽo, ngứa ngáy trong cơ thể,  được xem là dukkha vedanā, thọ khổ. Trường hợp nầy cũng vậy, ta cũng giả  thiết thọ khổ nầy là tự ngã: "tôi đau, tôi nghe nóng, tôi ngứa, tôi cảm  nghe bất mãn." Do đó thông thường ta cố gắng tránh né, không muốn xúc  chạm với những đối tượng khó chịu ấy.
    Những gì Sư vừa mô tả  trên là những cảm thọ thích thú và đau đớn của thân. Tâm cũng có thọ lạc  và thọ khổ. Khi nghĩ đến những đối tượng thích thú, ta cảm nghe hoan  hỷ, hạnh phúc, sukha vedanā, thọ lạc; nghĩ đến những chuyện làm ngã  lòng, nhàm chán, thất vọng, buồn khổ, sầu muộn, phiền não, lo âu v.v...  làm khởi sanh dukkha vedanā, thọ khổ. Khi sống bình thường không có  chuyện gì xảy ra thì tâm ta bình thản, không-vui-không-buồn. Ðó là  upekkhā vedanā, thọ vô ký, trung tính -- không lạc, không khổ.
     Ðó là ba loại thọ liên quan đến tư tưởng hay trí tưởng tượng. Khi thọ  nhận những cảm giác như vậy thì thông thường, người đời giả thiết đó là  tự ngã:
    "Tôi cảm nghe vui sướng, tôi chán nãn, tôi thất vọng,  tôi buồn phiền, tôi cảm nghe bình thản, thản nhiên,  không-vui-không-buồn."
    Khi những đối tượng thích thú được  thấy, được nghe, được hửi, hay được nếm thì thọ lạc phát khởi. Những cảm  thọ nầy được xem là tự ngã, "tôi cảm nghe vừa lòng, tôi cảm nghe hạnh  phúc." Rồi người ta chạy đuổi theo, rượt bắt những điều tốt đẹp ấy của  đời sống: đi hí trường xem múa hát, nghe đờn kèn, đi tìm hoa thơm cỏ lạ,  chạy theo những mùi thơm, những vị ngọt và người ta chịu lao khổ lâu  dài, trải qua nhiều hoàn cảnh khó khăn để thỏa mãn những nhu cầu của  thân và tâm.
    Khi những đối tượng nghịch lòng được thấy, được  nghe, được hửi, hay được nếm thì cảm giác bất mãn phát khởi. Ðây cũng  vậy, người ta giả thiết rằng đó là tự ngã; và cố gắng không quan tâm  đến, quên đi những đối tượng bất hạnh.
    Những diễn biến mà ta  thường nghe và thấy xảy ra hằng ngày là những đối tượng trung tính,  không có tánh cách thích thú hay buồn khổ đủ để gợi thọ lạc hay thọ khổ.  Thọ vô ký nầy cũng được giả thiết là tự ngã. Người ta không bao giờ vừa  lòng với những tình trạng nửa chừng -- không thích thú cũng không buồn  khổ -- do đó cố gắng thành đạt cho được trạng thái thích thú, nhằm hưởng  thụ thọ lạc.
    Một Khác Biệt Giữa Tạng Luận Và Tạng Kinh
     Theo tạng Luận (Abhidhamma), không có thọ lạc hay thọ khổ ngay vào lúc  thấy, nghe, hửi, hay nếm, chỉ có thọ vô ký. Nhưng trong tạng Kinh, có  nhiều bài Kinh mô tả những thọ cảm lạc, khổ và vô ký phát khởi như thế  nào ngay nơi những căn môn, và có những bài Kinh khuyến khích nên quán  niệm những thọ cảm ấy đúng vào lúc thấy hay lúc nghe để thông suốt bản  chất thật sự của nó.
    Bản Phụ Chú Giải (chú giải của bản Chú  Giải) sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, giải thích những thọ lạc, thọ  khổ và thọ vô ký ấy trở thành hiển nhiên như thế nào ngay vào lúc thấy  và lúc nghe như sau:
    Mặc dầu nói rằng nhãn thức liên hợp với  thọ vô ký, hậu quả của một hành động bất thiện phải có tánh chất bất  thiện, không thể là thiện. Cùng thế ấy, mặc dầu nói rằng hậu quả của  hành động thiện là thọ vô ký, tánh chất của nó là thiện, Tất cả những  hành động thiện đều là nguyên nhân sanh quả thiện, thọ lạc."
     Giải thích như vậy là thích nghi hơn và có thể được kiểm nhận qua kinh  nghiệm. Khi nhìn một đối tượng đẹp đẽ, lẽ dĩ nhiên lúc vừa trông thấy  liền có thọ lạc phát khởi. Khi thấy một đối tượng ghê tởm, đáng ghét,  đáng giận, thì dĩ nhiên ta cảm nghe khủng khiếp ghê sợ hay bực mình ngay  vào lúc thấy, điều nầy cũng hiển nhiên. Những kinh nghiệm ấy rõ ràng  nổi bật trong trường hợp nghe hơn là trong lúc thấy. Một âm thanh ṅhân"  êm dịu, nhẹ nhàng, ắt làm phát sanh cảm giác "quả" khoan khoái dễ chịu.  Một âm thanh quá đổi vang rền có thể gây khó chịu cho người nghe. Hậu  quả cũng tức khắc rõ ràng khi cảm thọ một mùi thơm ở mũi, trái lại một  mùi hôi thúi dơ bẩn có thể tức khắc gây khó chịu, buồn nôn, làm nhức đầu  hay tạo nên một triệu chứng bất ổn nào khác. Một luồng hơi độc cũng có  thể làm chết người. Nhưng hậu quả hiển hiện nổi bật nhất có lẽ là vật  thực. Một món ăn hợp khẩu tức khắc tạo nên ở lưỡi một thọ cảm rất thích  thú, nhưng vài thứ thuốc đắng khi ngậm vào thì liền cảm nghe thật khó  chịu. Một độc dược sẽ làm đau khổ vô cùng và có thể đưa đến hậu quả tàn  khốc như chết chóc.
    Ṅhư vậy, mặc dầu nói rằng nhãn thức liên  hợp (tức phát sanh cùng lúc) với thọ vô ký, nhưng hậu quả vô ký khi kinh  nghiệm những đối tượng bất như ý cũng có tánh chất đau khổ, và hậu quả  vô ký có tánh chất thiện khi kinh nghiệm một đối tượng thiện vẫn là  thích thú, hạnh phúc, thọ lạc."
    Những chú giải như thế ấy từ  Bản Phụ Chú Giải sách Thanh Tịnh Ðạo rất là thích nghi. Như vậy theo  tạng Kinh thì tất cả ba loại thọ đều có thể khởi phát ngay vào lúc có sự  hay biết cảm giác. Theo một lối hiểu biết, bất luận loại nào trong ba  loại thọ cũng có thể khởi phát vào giai đoạn javana, tốc hành tâm [Lời  người dịch: Xem Vi Diệu Pháp Toát Yếu, chương IV, chú giải 13, trang  268. Và chương III, chú giải 25, trang 199-203.], trong tiến trình nhãn  thức (cakkhudvāra vithī), tạng Kinh ghi nhận rằng tất cả ba loại thọ đều  khởi phát cùng lúc với thức.
    Hiểu Biết Sai Lầm Rằng Thọ Là Tự Ngã
     Như vậy, những cảm giác được thu nhận như vừa lòng hay nghịch ý mỗi khi  thấy, nghe, đụng chạm hay hiểu biết là thọ (vedanā). Khi cảm nhận thọ  lạc thì có sự luyến ái bám vào tự ngã, "tôi cảm nghe hoan hỷ". Khi có  thọ khổ ắt có sự luyến ái bám vào tự ngã khởi phát, "tôi cảm nghe không  thích thú", hoặc, "lúc nảy tôi cảm nghe hoan hỷ, nhưng bây giờ thì tôi  nghe khó chịu." Khi thọ là vô ký, ý niệm về tự ngã cũng nổi bật rõ ràng,  như "tôi cảm nghe không hoan hỷ cũng không thích thú, không vui cũng  không buồn, tôi thản nhiên." Ðó là bám níu, chấp thủ vào tự ngã, attā,  được gọi là vedaka attā, tin rằng có một tự ngã, một cái "ta", hay một  thực thể sống, một linh hồn xem như thực thể đơn thuần, cảm nhận những  thọ lạc và thọ khổ.
    Ðó là thế nào mỗi người phàm tục chúng ta  chấp thủ vào ý niệm tự ngã. Trong văn chương Ấn Ðộ, thọ, vedanā, được  mô tả là tự ngã, hay có biểu tượng của một tự ngã, nhưng ở Miến Ðiện thì  không có một từ ngữ nào để diễn đạt ý niệm nầy. Tất cả đều như nhau, có  sự chấp thủ vào niềm tin rằng, trong những trường hợp vui thích, "Chính  tôi thích thú vui sướng với điều nầy", và khi gặp những hoàn cảnh khó  khăn, "Chính tôi đau khổ". Lý do có những niềm tin tưởng như thế là vì  những vật vô tri vô giác, như đá như gỗ, thì không cảm nghe lạnh hay  nóng, không cảm giác hạnh phúc hay đau khổ trong hoàn cảnh vừa ý hay  nghịch lòng. Ðàng khác, những vật hữu giác hữu tri, như chúng sanh, như  con người, thì đau khổ hay vui thích tùy hoàn cảnh. Do đó chúng ta giả  thiết rằng con người được phú cho một phần tinh thần hữu giác hữu tri,  một linh hồn, một thực thể sống, và chính cái thực thể sống ấy cảm nhận  những thọ lạc vào lúc hạnh phúc, và thọ khổ vào những cơn đau khổ buồn  phiền.
    Trong thực tế, thọ không phải là tự ngã, không phải là  một thực thể sống, mà chỉ là những hiện tượng khởi sanh và hoại diệt  tùy duyên, do hoàn cảnh tạo điều kiện. Vì lẽ ấy Ðức Thế Tôn tuyên ngôn  trước tiên, lúc mở đầu, Nầy chư Tỳ Khưu, thọ không phải là tự ngã." Và  Ngài tiếp tục giải thích:
    "Nầy chư Tỳ Khưu, nếu thọ là tự ngã  (là chính ta), thì nó không có khuynh hướng gây đau khổ hay thất vọng  buồn phiền (cho ta), và ta phải có khả năng sai bảo, 'Thọ của tôi phải  như thế nầy (tức luôn luôn hoan hỷ thỏa thích), thọ của tôi phải không  như thế kia (tức đau khổ buồn phiền)'. Ta phải có thể ảnh hưởng đến thọ  như thế ấy."
    Ðúng vậy, nếu thọ quả thật là tự ngã, là chính  ta, nó sẽ không gây tổn thương hoặc phiền não cho ta bởi vì thế thường  không ai cố tình làm cho chính mình phải chịu đau khổ. Lại nữa nếu thọ  là tự ngã ắt ta có thể điều khiển, sai bảo, làm cho nó phải như thế nào  tùy theo ý muốn. Giả sử như "thọ là chính ta" ắt nó không có chiều hướng  gây đau khổ cho ta, và không bao giờ ta có những cảm giác khó chịu. Nếu  quả được như vậy ta có thể xem thọ thật sự là tự ngã, là chính ta.
     Lời tuyên bố giả định, ṅếu thọ là tự ngã" làm cho ta dừng lại suy gẫm,  xem thọ có quả thật gây đau khổ cho ta hay không, ta có thể sai bảo thọ  phải như thế nào theo ý muốn của ta không. Sau khi quán chiếu và nghĩ  suy cặn kẽ ta thấy rằng hiển nhiên hầu hết những cảm thọ lúc nào cũng  gây phiền toái, và nó không khởi sanh theo ý muốn của ta mà tùy duyên,  do hoàn cảnh tạo điều kiện.
    Quý vị có thể tự bản thân kinh  nghiệm, thấy thọ gây phiền muộn cho mình như thế nào; quý vị cũng không  thể làm cho sự vật như thế nào vừa theo ý mình bằng cách vui thích hưởng  thọ hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vật thực và xúc chạm vừa lòng.
     Quý vị sẽ khám phá rằng có thọ khổ nhiều hơn là thọ lạc. Lý do vì sao  ta không thể có thọ lạc như ý muốn là bởi vì nó không phải là tự ngã,  không phải là chính ta. Ðức Thế Tôn tiếp tục giải thích tại sao thọ  không phải là tự ngã như sau:
    "Nầy chư Tỳ Khưu, thọ quả thật  không phải là tự ngã. Vì thọ không phải là tự ngã, nó có chiều hướng gây  phiền não, và ta không thể sai bảo, 'Thọ của ta phải như thế nầy, thọ  của ta phải không như thế kia'."
    Mặc dầu biết rõ ràng rằng  chính thọ gây phiền não và ta không thể điều khiển hay sai bảo nó phải  như thế nào, vẫn có người còn chắc chắn đặt niềm tin vào tự ngã và những  đam mê dục lạc, còn tín nhiệm nơi những cảm giác thích thú, còn tin  tưởng rằng thọ là tự ngã và vui vẻ thỏa thích trong đó. Tuy nhiên, khi  thận trọng xem xét ta sẽ phát giác rằng những khoảnh khắc vui thú và  hạnh phúc quả thật là hiếm hoi, so với những trường hợp đau khổ và sầu  muộn.
    Thọ Gây Ðau Khổ Như Thế Nào?
    Lúc nào chúng  ta cũng phải luôn luôn xoay trở thân mình, điều chỉnh tư thế, để được  tiện nghi. Thiếu tiện nghi, cơ thể quá căng thẳng, vọp bẻ tay chân, nóng  sốt, và đau nhức khi ở quá lâu trong một tư thế. Ta cần phải xoay qua  trở lại để làm giảm bớt những trạng thái khó chịu ấy. Ðặc tính gây khó  chịu của thọ thật là hiển nhiên, dầu ở mắt đi nữa, thỉnh thoảng ta cần  phải chớp mắt, nháy mắt hay nhắm mắt lại. Nếu không có những tác động để  điều chỉnh như vậy lắm khi ta cảm nghe không thể chịu được. Các bộ phận  khác của cơ thể cũng có những nhu cầu tương tợ cần phải điều chỉnh.  Trong nhiều trường hợp, mặc dầu điều chỉnh thân như thế nào, thọ cũng  trở nên khó chịu, gây đau khổ trầm trọng và đưa đến trọng bệnh, có khi  phải chết. Có nhiều trường hợp đau ốm người bệnh bị đau nhức quá đổi  không còn chịu đựng được nữa, phải tìm cách tự quyên sinh để thoát cơn  đau. Ðau đớn và sầu khổ không phải chỉ hoàn toàn do thọ làm nguyên nhân;  sắc pháp (rūpa) nguồn cội của đau khổ, cũng góp phần tạo nên tình trạng  mất thoải mái. Do đó, trong chương trước, khi đề cập đến những trạng  thái bất an phiền phức do cơ thể vật chất gây ra Sư có mô tả những loại  thọ khác nhau có thể xem là những khổ đau do thọ uẩn (vedanakkhandha)  gây nên.
    Những nỗi sầu khổ và phiền muộn thuộc về tâm linh  chỉ do nơi thọ (vedanā) đơn độc làm nguyên nhân, sắc không ảnh hưởng gì  trong đó. Khi có một người thân qua đời như cha mẹ, chồng, vợ, hay con  cái quá vãng ắt thọ gây phiền não và sầu muộn. Mất mát tiền của, tài sản  và sự nghiệp, có thể gây sầu khổ và những nỗi khổ sầu ấy có thể đưa đến  chết chóc. Bất mãn và tuyệt vọng trước những vấn đề khó khăn của đời  sống như phải xa lìa người thân kẻ yêu, thất bại, không viên mãn hoàn  tất một nguyện vọng theo ý muốn và bao nhiêu hình thức đau khổ khác đều  do thọ (vedanā) gây ra.
    Chí đến những thọ lạc, rất là thoải  mái dễ chịu khi nó còn tồn tại hiện hữu, cũng có thể là nguyên nhân sanh  đau khổ. Sau một thời gian ngắn ngủi ở với ta, khi nó biến dạng trôi  vào dĩ vãng ắt làm cho ta nhớ nhung luyến tiếc và đau khổ ước mơ. Ta  phải mãi mãi cố gắng bảo trì những hoàn cảnh vui thích. Do đó con người  luôn luôn chạy theo rượt bắt thọ lạc, lắm khi phải dấn thân vào những  hoàn cảnh làm nguy đến tánh mạng. Trong cuộc say mê rượt bắt nầy lắm khi  ta dùng đến những phương tiện bất hợp pháp mà hậu quả rất tai hại trong  kiếp sống, rồi sau khi chết còn phải sa đọa vào khổ cảnh. Do vậy, những  cảm giác có vẽ hình như thích thú (sukha vedanā) cũng có thể là nguyên  nhân sanh sầu khổ và phiền muộn.
    Upekkhā vedanā, thọ vô ký,  những cảm giác không-vui-không-buồn, cũng như thọ lạc, tạo nên hoàn cảnh  thoải mái và hạnh phúc. Và cũng như thọ lạc, nó đòi hỏi phải liên tục  cố gắng bảo trì, và dĩ nhiên sẽ đưa đến tình trạng mệt mỏi và phiền  phức. Cả hai, thọ lạc và thọ vô ký không tồn tại lâu dài. Vì bản chất  phù du tạm bợ ấy nên nó cần phải được liên tục và chuyên cần bảo trì.  Công phu nầy là một sự tinh tấn không ngừng, vốn là saṅkhāra dukkha,  hành khổ [*] có nghĩa là khổ vì các pháp được cấu tạo (saṅkhāra, hành)  tự bản chất của nó là khổ. Ðây chỉ là một chỉ dẫn ngắn về bản chất gây  đau khổ của tất cả ba loại thọ.
    Nếu không có thọ ắt không có  kinh nghiệm đau khổ hay thỏa thích -- vật chất hay tinh thần -- ắt không  có khổ. Hãy thử quan sát một khúc gỗ, một cây trụ, một tảng đá hay một  đống đất: nó không đau khổ vì không có thọ. Dầu ta có chặt đứt, đánh  đập, nghiền nát hay đốt thui, nó cũng không nao núng. Nhưng tiến trình  danh-sắc kết hợp với thọ thì gây đau khổ bằng nhiều cách. Ðiều nầy cho  thấy rõ ràng rằng thọ không phải là tự ngã, thực thể sống của ta.
     [*] Lời người dịch: Có ba loại khổ: 1. Dukkha dukkhatā, khổ-khổ, cái  khổ hiển nhiên, chỉ cần nhìn quanh ta với cặp mắt quan sát và tâm suy tư  để xác nhận. 2. Viparanamā dukkhatā, vô thường khổ, cái khổ phát hiện  như hậu quả của định luật vô thường. Viparanamā là thay đổi, biến  chuyển, thay hình đổi dạng. Ðức Phật dạy: Yadaniccaṁ tam dukkhaṁ, nơi  nào có biến đổi (vô thường) nơi ấy có đau khổ. 3. Saṅkhāra dukkha, hành  khổ, đau khổ vì chúng sanh chỉ là sự kết hợp của hai tiến trình -- tiến  trình vật chất và tiến trình tâm linh -- cả hai đều luôn luôn biến đổi  (hành), tức khổ từ trong sự cấu thành của mình.
    Thế Nào Là Không Thể Ðiều Khiển Thọ?
     Ta không thể điều khiển thọ và thọ cũng không tùng phục vâng theo ý  muốn của ta. Chỉ ghi nhận là ta không thể chỉ thấy những gì ta muốn thấy  và nghe những gì ta muốn nghe, chỉ hửi những mùi êm dịu, và chỉ nếm  những vị ngọt ngào. Mặc dầu lắm lúc, sau khi mất nhiều cố gắng và công  phu, ta chụp bắt được một vài hình sắc, âm thanh, hay hương, vị, vừa ý  thì những trần cảnh đối tượng ấy rất mong manh, không tồn tại lâu dài.  Ta chỉ có thể thưởng thức trong một thời gian ngắn, rồi nó biến tan. Như  vậy ta không thể thu xếp hay bảo trì một hoàn cảnh trong đó những sự  vật đáng được ưa thích sẽ tồn tại thường còn như ý muốn.
    Khi  một trần cảnh đối tượng thích thú tan biến thì liền có những đối tượng  không đáng được ưa thích thế vào, và dĩ nhiên, gây đau khổ. Ta đã giải  thích rằng những âm thanh không đẹp ý làm khó chịu nhiều hơn là những  hình sắc không vừa lòng; mùi hôi thúi làm khó chịu nhiều hơn là tiếng  động ồn ào, và nếm những vị mà mình không thích càng làm khó chịu hơn  nữa. Hơn thế nữa, những chất độc cũng có thể làm chết. Tệ hại hơn tất cả  là xúc giác khó chịu đựng: bị tai nạn gây thương tích, bị đâm chém, bị  hỏa hoạn, hay lâm trọng bệnh, nỗi đau khổ thật rất sâu đậm, đến đổi phải  than khóc kêu la rên siết đến chết. Ðó là những thọ khổ mà ta phải giữ  gìn không để xảy diễn. Cái gì mà mình không thể điều khiển chắc chắn là  không phải tự ngã. Như vậy thọ ắt không phải là tự ngã và như vậy nếu ta  bám níu vào, xem đó là chính ta, là thể chất sống bên trong chúng ta,  là sai lầm, không thích nghi.
    Ðến đây Sư đã mô tả những thọ  cảm được kinh nghiệm trong cảnh người. Những loại thọ trong bốn cảnh khổ  càng khủng khiếp hơn nhiều. Những con thú như bò, trâu, gà và heo phải  đối đầu hầu như không ngừng nghỉ với những nỗi thống khổ tận cùng mà  không ai giúp đỡ để làm giảm suy những khổ nhọc ấy. Chúng sanh trong  cảnh ngạ quỷ (Peta, quỷ đói) phải chịu đau khổ càng nhiều hơn loài thú,  nhưng trong cảnh địa ngục (Niriya) thì đau khổ nhiều nhất. Ta không thể  thản nhiên tự đắc rằng mình không có gì dính dáng đến bốn cảnh khổ. Cho  đến khi chứng đắc Ðạo Quả Tu Ðà Huờn, lúc nào con người cũng có thể phải  đối đầu với niềm đau nỗi khổ của những cảnh thấp kém.
    Vì thọ  có chiều hướng gây đau khổ trong mỗi kiếp sinh tồn, ta không thể xem đó  là tự ngã hay phần nòng cốt bên trong đời sống, và ta không thể cản  ngăn không cho thọ khổ phát sanh. Thọ khổ tự nó phát sanh không thể  tránh. Những nỗi khổ sầu mà chúng ta không muốn, cũng tự nhiên tự nó đến  với ta y như vậy. Tất cả những sự việc ấy chỉ rõ bản chất không thể  kiểm soát của thọ. Mỗi chúng sanh phải đương nhiên chấp nhận loại thọ  của mình như một hiện tượng mà mình không thể kiểm soát, và do đó thọ  không phải là tự ngã hay một thể chất nguyên vẹn nằm bên trong chính  mình.
    Như đã có lời dạy trong Kinh Ðiển, những thọ mà chúng  ta cảm nhận trong thân có chiều hướng gây đau khổ, và ta không thể điều  khiển hay kiểm soát. Do đó rõ ràng thọ không phải là tự ngã, hay thể  chất nằm bên trong ta. Dầu sao, con người trong dân gian thường chấp  thủ, bám chặt vào niềm tin, "chính tôi đau khổ" -- khi kinh nghiệm thọ  khổ; hay "chính tôi hoan hỷ thích thú" -- khi kinh nghiệm thọ lạc." Rất  khó gội rửa hoàn toàn hay loại trừ tận gốc rễ sự chấp thủ nầy. Niềm tin  tưởng vào tự ngã, vào một cái "ta", một thực thể sống, nằm bên trong  chúng sanh, đã đâm chồi mọc rễ ăn sâu vào tâm thảm từ lâu, chỉ có thể  được loại trừ bằng cách tự cá nhân chứng nghiệm bản chất thật sự của  thọ. Và sự chứng nghiệm nầy có thể khởi sanh do công trình quán chiếu và  suy niệm đúng theo Satipaṭṭhāna vipassanā, pháp hành Tứ Niệm Xứ Minh  Sát, hay Trung Ðạo, như Ðức Thế Tôn truyền dạy. Giờ đây chúng ta hãy  thảo luận đến phương cách làm thế nào có thể loại trừ trạng thái chấp  thủ vào tự ngã bằng pháp quán thọ.
    Thọ Quán Niệm Xứ
     Pháp hành thiền minh sát, vipassanā meditation, đã được trình bày vắn  tắt trong chương I. Vị hành giả thận trọng ghi nhận những tác động  phồng, xẹp, ngồi v.v... như đã được mô tả, sẽ ghi nhận đúng lúc những  cảm giác kém tiện nghi như đau nhức, căng thẳng hay nóng bức. Hành giả  phải gom tâm chăm chú an trụ nơi những thọ cảm khác nhau ấy vào lúc nó  vừa khởi sanh và niệm thầm, "đau, đau", "căng cứng, căng cứng", ṅóng,  nóng" tùy trường hợp. Vào lúc hành giả còn sơ cơ, tâm an trụ còn non  nớt, chưa được vững mạnh, những cảm giác khó chịu có thể ngày càng tăng  trưởng, nhưng phải chịu đựng cơn đau nhức kém tiện nghi nầy càng lâu  càng tốt, cứ tiếp tục niệm, ghi nhận cảm giác ngay vào lúc nó khởi phát.  Khi tâm an trụ vững chắc, cảm giác khó chịu sẽ dần dần thuyên giảm và  bắt đầu tan biến. Với tâm an trụ thật vững mạnh, trạng thái đau nhức khó  chịu bỗng nhiên chấm dứt như mình lấy tay cầm vứt nó đi ngay khi đang  ghi nhận nó, và không bao giờ còn trở lại gây phiền phức cho người hành  thiền.
    Chúng ta thấy những thí dụ theo đó thọ chấm dứt nhanh  chóng trong câu chuyện Ngài Mahā Kassapa và những vị khác khi lâm bệnh  được nghe những lời dạy của Kinh Thất Giác Chi (Bojjhaṅga Sutta).
     Tuy nhiên, trước khi an trụ tâm vững chắc, người hành thiền thấy rằng  cảm giác đau đớn tan biến ở một nơi chỉ để phát sanh ở một nơi khác,  dưới một hình thức mới. Khi cảm giác khó chịu được thận trọng ghi nhận  thì nó tan biến, nhường chỗ cho một loại thọ khổ khác khởi sanh ở một  nơi khác. Khi hành giả chuyên cần giữ chánh niệm, liên tục ghi nhận hiện  tượng đau khổ biến tan và phát sanh trở lại, hoại rồi diệt, diệt rồi  sanh, trở đi trở lại như vậy thì sực tỉnh ngộ, "thọ luôn luôn gây đau  khổ, không thể kiểm soát thọ khổ, không thể ngăn ngừa đừng để cho nó  phát sanh. Cả hai, thọ lạc và thọ khổ không phải là tự ngã, không phải  là thực chất của ta bên trong." Ðó là trí tuệ thật sự phát sanh do công  phu quán niệm bản chất vô ngã của thọ.
    Vị hành giả đã nhận  thấy sự tan biến của thọ trong khi quán niệm, hồi nhớ lại bản chất khó  chịu đựng của nó khi còn tồn tại hiện hữu; vị ấy biết rằng thọ nầy tan  biến không phải vì mình muốn nó tan biến, hay vì nó tuân theo lời sai  bảo của mình, mà là hậu quả của những điều kiện cần thiết do năng lực  tinh thần của tâm an trụ. Quả thật không thể điều khiển nó. Như vậy  người hành thiền chứng ngộ rằng thọ, dầu thọ lạc hay thọ khổ, là một  tiến trình thiên nhiên tự nó phát sanh. Thọ không phải là tự ngã hay bản  thể của ta nằm bên trong. Hơn nữa tình trạng khởi phát và tan biến của  thọ như được ghi nhận, cho thấy bản chất vô ngã của nó.
    Khi  tiến đến giai đoạn udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, vị hành giả nhận thấy  rằng pháp hành ghi nhận những hiện tượng của mình tiến triển dễ dàng,  thoải mái và không còn cảm nghe đau nhức nữa. Ðây là sự phát hiện của  loại thọ đặc biệt thích thú mà hành giả không thể kéo dài lâu, dầu muốn  lắm cũng không được. Khi tâm giảm bớt an trụ và trở nên yếu ớt, thọ lạc  thích thú ấy cũng giảm dần và có thể không trở lại, mặc dầu hành giả  mong muốn cách nào. Chừng ấy chân lý dần dần rọi sáng cho hành giả thấy  rằng thọ không thuộc quyền sai khiến, không tuân theo ý muốn của mình,  và như vậy không phải là tự ngã hay tinh chất bên trong mình. Chừng ấy  tự kinh nghiệm bản thân vị hành giả chứng ngộ bản chất vô ngã của thọ.
    Do sự chấm dứt nhanh chóng mỗi khi ghi nhận hành giả cũng nhận thấy hiển hiện rõ ràng bản chất vô ngã của thọ.
     Vào thời kỳ còn sơ cơ, hành giả bị đau, nhức, căng thẳng, ngứa ngáy hay  nóng bức. Thỉnh thoảng người hành thiền cũng cảm nghe chán nản, thất  vọng, buồn phiền, lo sợ, hay ghê tởm. Không nên bỏ cuộc mà cứ tiếp tục  chuyên cần quán niệm những thọ cảm khó chịu ấy. Hành giả sẽ hiểu biết  rằng trong khi thọ khổ hiện hữu thì thọ lạc không phát sanh.
     Trong lúc hành thiền đôi khi hành giả kinh nghiệm những cảm giác rất  thích thú, cả vật chất lẫn tinh thần. Chẳng hạn như khi nghĩ đến một  diễn biến vui thích thì cảm nghe hoan hỷ. Nên giữ chánh niệm, liên tục  ghi nhận thọ cảm thích thú ấy ngay lúc nó khởi sanh. Hành giả sẽ hiểu  biết rằng trong khi thọ lạc hiện hữu thì thọ khổ không khởi sanh. Một  cách tổng quát hành giả lúc nào cũng ghi nhận sự phát sanh và hoại diệt  của tiến trình danh và sắc thông thường, giống như mình ghi nhận cử động  phồng lên xẹp xuống của bụng, không khổ không lạc. Hành giả ghi nhận  những trường hợp chỉ có thọ vô ký là nổi bật, và do đó, hiểu biết rằng  khi thọ vô ký phát sanh thì cả hai, thọ khổ và thọ lạc, không hiện hữu.  Với sự hiểu biết nầy mà chính mình tự chứng nghiệm, hành giả chứng ngộ  rằng thọ chỉ tồn tại nhất thời và nhanh chóng tan biến, quả thật là phù  du tạm bợ, ắt không phải là tự ngã, một bản ngã trường tồn.
     Nơi đây Sư muốn thuật lại câu chuyện trong Kinh Dīghanaka Sutta, một  hình ảnh tốt để thuyết minh rõ ràng sự giác ngộ có thể đến như thế nào.  Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong câu chuyện là Ðức Sāriputta (Xá  Lợi Phất). Chúng ta hãy bắt đầu tường thuật câu chuyện làm thế nào Ðức  Sāriputta (Xá Lợi Phất) thành tựu tuệ giác cao siêu nhất.
    Ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất) Tìm Con Ðường Dẫn Ðến Tuệ Giác Cao Siêu Nhất
     Hai người bạn trẻ, Upatissa và Kolita, mà về sau trở thành Ðức  Sāriputta (Xá Lợi Phất) và Ðức Moggallāna (Mục Kiền Liên), hai vị Ðại Ðệ  Tử của Ðức Phật, lúc bấy giờ là hai đạo sĩ du phương dưới sự hướng dẫn  của vị đại sư Sañjaya nhằm tìm con đường dẫn đến trạng thái không già,  không bệnh và Không Chết [tức Niết Bàn]. Trong thời gian vài ngày hai vị  đã học hết những gì vị đại sư Sañjaya dạy và nhận thấy rằng trong những  lời dạy không có chi là thực chất. Do đó hai vị từ giả đại sư và đi đó  đây khắp miền Trung Du mong tìm Chân Lý.
    Không tìm được ở  đâu, hai vị trở về lại thành Rājagaha (Vương Xá). Chính tại nơi đây  Upatissa có duyên may gặp Ngài Assaji (A Tư Ðà), vị đạo sĩ trẻ tuổi nhất  trong nhóm Năm Anh Em, lúc ấy đang đi trì bình. Upatissa theo sát đến  nơi Ngài thọ thực, dọn chỗ ngồi và dâng nước uống, rồi hỏi thăm vị Thầy  của Ngài là ai và Giáo Huấn là thế nào. Ngài Assaji trả lời rằng vị thầy  là Ðức Phật, bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Còn về Giáo Huấn, vì Ngài mới  xuất gia, mới gia nhập vào Giáo Hội do Ðức Phật thành lập nên chỉ biết  chút ít. Upatissa bèn thưa, "Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ dạy cho chút ít  gì mà Ngài biết về Giáo Huấn, tôi sẽ hiểu rộng thêm ra."
    Ðến đây Ngài Assaji đọc lên cho đạo sĩ Upatissa lời dạy tóm tắt của Ðức Phật như sau:
    Ye dhammā hetuppabhavā, tesaṁ hetuṁ tathāgato āha. Te sañjā yo nirodho. Evaṁ vādi Mahāsamaṇo.
     "Có những pháp, dhammas, (dukkha sacca: chân lý về sự đau khổ, khổ đế)  phát sanh do nguyên nhân (samudaya sacca: chân lý về nguyên nhân của sự  đau khổ, tập đế), Ðức Bổn Sư, bậc Toàn Giác đã chỉ rõ những nguyên nhân  ấy. Và có trạng thái nầy (Niết Bàn), nơi đó tất cả những Pháp ấy và  nguyên nhân của nó đều chấm dứt. Bậc Toàn Giác cũng đã dạy về sự chấm  dứt nầy. Ðó là Giáo Huấn của Ðức Bổn Sư, Ðức Như Lai bậc Ðại Sa Môn."
     Ðó là vắn tắt những lời dạy của Ngài Assaji. Quả thật là vắn tắt: "Tất  cả các pháp đều phát sanh do nguyên nhân. Ðức Bổn Sư đã chỉ dạy về những  nguyên nhân ấy." Nhưng lời dạy giản lược nầy đủ cho đạo sĩ du phương  Upatissa lãnh hội ánh sáng của Giáo Pháp và chứng ngộ tuệ giác của Ðạo  và Quả, trở thành bậc Nhập Lưu.
    Sư phải nói rằng đây là một  sự thành tựu rất nhanh chóng. Sư thấy rằng ngày nay thiền sinh không thể  thành đạt tiến bộ đáng kể như vậy trong một ngày một đêm hành thiền.  Chỉ sau bảy tám ngày tận lực chuyên cần hành giả mới bắt đầu nhoáng thấy  tiến trình danh và sắc và bản chất thiên nhiên vô thường, bất toại  nguyện và vô ngã. Phần lớn hành giả phải mất cả một tháng rưởi mới có  thể đạt đến mức độ gọi là tuệ giác về Ðạo và Quả đầu tiên. Có thể lối  hai tháng rưởi hay ba tháng những vị khác mới có thể được xem là tiến bộ  đến mức ấy.
    Quả thật là lâu, có phải vậy không?
     Sự thành tựu nhanh chóng của đạo sĩ Upatissa có thể là nhờ trong nhiều  kiếp quá khứ Ngài đã có trau giồi và phát triển pháp hành đến mức gần  tới giai đoạn Ðạo và Quả. Ngài đã có đủ khả năng để thành tựu Ðạo và Quả  trong những kiếp quá khứ ấy nhưng vì có lời nguyện sẽ trở thành Ðại Ðệ  Tử của một vị Phật nên chưa chứng đắc. Trong kiếp sống cuối cùng (khi  nguyện vọng sắp được hoàn mãn), sự thúc đẩy mạnh mẽ tạo nên do oai lực  của pháp hành minh sát vipassanā trong những kiếp quá khứ đã giúp Ngài  nhanh chóng tiến vượt qua các tầng tuệ minh sát, vipassanā ñāṇas, đến  Ðạo tuệ và Quả tuệ của tầng Thánh Nhập Lưu. Mặc dầu lời dạy ngắn gọn vắn  tắt nhưng chứa đựng những chỉ dẫn sáng tỏ để phát triển tuệ minh sát.
     Trước khi có giáo huấn của Ðức Phật, người đời thường hiểu rằng, ṁỗi  chúng sanh có một thực thể sống, một tinh chất nằm bên trong, một tự ngã  vĩnh cửu thường còn, trường tồn bất biến. Không phải chỉ giản dị là  những điều kiện phát sanh tùy thuộc nhân duyên mà là một thực thể đơn  thuần nguyên vẹn hằng cửu." Ngài Assaji dạy rằng không có gì như một  thực thể vĩnh cửu thường còn; chỉ có chân lý về sự đau khổ, vật chất và  tinh thần (khổ đế), vốn là hậu quả tạo nên do ái (taṇhā) và thủ  (upādāna), chân lý về nguyên nhân sanh đau khổ (tập đế). Những hậu quả  của nhân sanh đau khổ nầy không phải là gì khác hơn là tiến trình danh  và sắc dính liền theo hành động thấy, nghe v.v...
    Upatissa  chứng ngộ tức khắc rằng tất cả những gì phát hiện ở lục thức, như sự  thấy, sự nghe v.v... từ thuở mới được sanh ra chỉ giản dị là một tiến  trình danh và sắc liên tục phát sanh và hoại diệt. Nó phát sanh như là  hậu quả của ái và thủ, ái dục và sự chấp thủ vào đời sống và sự sinh  tồn. Ta nên hiểu biết rằng Upatissa đã phát triển tuệ minh sát bằng cách  thận trọng chú niệm những hiện tượng vô thường từ lúc Ngài thu nhận  những chỉ dẫn của Ðức Assaji, và nhờ đó Ngài tức khắc chứng ngộ Ðạo tuệ  và Quả tuệ.
    Khi đã trở thành vị Thánh Nhập Lưu, Upatissa bạch  hỏi Ðức Assaji (A Tư Ðà) lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn ngự tại đâu và bạch  với Thầy rằng mình sẽ tìm đến yết kiến Ðức Phật. Bái từ Thầy, Upatissa  trở về để gặp bạn, Kolita. Khi thấy Upatissa, Kolita liền để ý đến cốt  cách phương phi và phong độ thanh nhã của bạn và ghi nhận, Nầy đạo hữu,  phải chăng đạo hữu đã tìm được trạng thái Bất Diệt?" Upatissa xác nhận  rằng quả thật mình đã tìm ra trạng thái Bất Diệt, rồi thuật lại những gì  đã xảy diễn, và đọc lại câu kệ mà Ngài Assaji đã đọc cho mình. Nghe qua  câu kệ Kolita cũng tức khắc chứng đắc Ðạo Quả Nhập Lưu.
    Hai  huynh đệ cùng quyết định đi tìm Ðức Thế Tôn. Nhưng trước tiên phải đến  gặp vị đại đạo sư Sañjaya để cung thỉnh Ngài cùng đi. Sañjaya từ khước  lời thỉnh cầu, nói rằng, "Hai con hãy cùng đi. Thầy không muốn đi. Ðã là  một hồ chứa nước rộng lớn thầy không muốn trở thành một cái hủ nhỏ, tức  trở thành đệ tử của ai khác." Hai người bạn nhắc nhở thầy, "Ðức Thế Tôn  thật sự là bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Người ta sẽ đến với Ngài."  Sañjaya trả lời, "Các con chớ nên lo về điểm nầy. Trên thế gian nầy hạng  cuồng si đông đảo hơn là bậc trí tuệ. Người minh mẫn trí tuệ sẽ đi theo  Sa Môn Cồ Ðàm (Samaṇa Gotama). Kẻ cuồng si, vốn là phần đông, sẽ theo  thầy. Hai con hãy đi theo tiếng gọi của lòng mình."
    Ngày nay  có nhiều vị tự mạo nhận là đạo sư để phỉnh gạt người cũng bám giữ chặt  chẽ những ý kiến tương tợ như đạo sư Sañjaya. Người mong tìm con đường  tu học nên thận trọng suy xét, coi chừng những vị thầy như vậy.
     Rồi Upatissa và Kolita cùng hai trăm năm mươi đạo sĩ đệ tử đến nơi Ðức  Phật ngự. Sau khi nghe Ðức Thế Tôn thuyết giảng, cả hai trăm năm mươi vị  đều đắc Thánh Quả. Tất cả hai vị lãnh đạo cùng với hai trăm năm mươi đệ  tử đều xin xuất gia, gia nhập vào Giáo Hội, và Ðức Thế Tôn truyền giới  bằng cách kêu, Ehi bhikkhu, "Ðến đây, Tỳ Khưu". Kể từ đó đạo sĩ Upatissa  được gọi là Ðức Sāriputta (Xá Lợi Phất) và đạo sĩ Kolita là Ðức  Moggallāna (Mục Kiền Liên).
    Ðã là hàng xuất gia, tất cả mọi  người tiếp tục hành thiền. Ngài Moggallāna (Mục Kiền Liên) đắc Quả A La  Hán trong vòng bảy ngày. Còn Ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất) vẫn còn thực  hành phương pháp anupada dhamma (với tuệ minh sát, ôn duyệt lại và phân  tích theo từng bậc, tất cả những tâm thức đã trải qua) cho đến ngày  trăng tròn tháng Hai (hai tuần sau khi xuất gia) mới chứng đắc Ðạo Quả A  La Hán.
    Vào ngày trăng tròn hôm ấy, đạo sĩ Dīghanakha, một  người cháu của Ngài Sāriputta, vốn ở lại với thầy, đạo sư Sañjaya, có ý  nghĩ sau đây: "Upatissa cậu ta, mỗi khi đi đến một vị đạo sư nào đều  luôn luôn sớm trở về. Nhưng lần nầy viếng vị Sa Môn Gotama, cậu đi đã  hai tuần nay mà không có tin tức gì. Ta hãy đi theo cậu để tìm xem có gì  quan trọng không." Như vậy đạo sĩ Dīghanakha ra đi tìm đến nơi Ðức  Sāriputta cư ngụ và thăm hỏi về Giáo Huấn của Ðức Phật.
    Kinh Dīghanakha Sutta
     Vào một ngày nọ, trong lúc Ðức Thế Tôn đang ngự tại Ðộng Sukarakhātā  trên đỉnh núi Linh Thứu. Ðức Sāriputta (Xá Lợi Phất) đứng sau lưng tay  cầm quạt, nhẹ nhàng quạt Ngài. Ðạo sĩ Dīghanakha đến gần, đảnh lễ, và  bạch: "Bạch Ngài, lý thuyết và quan điểm của con là, 'con không ưa thích  điều gì cả'." Ý nghĩa của lời nói là ông ta không thích niềm tin mới mẽ  nào về sự trở thành; nói cách khác, ông ta không thích niềm tin có một  kiếp sống mới sau kiếp sống hiện tại nầy. Nhưng vì ông nói rằng ông  không thích gì hết, điều nầy có nghĩa là chính niềm tin của ông, ông  cũng không thích. Vì lẽ ấy Ðức Thế Tôn hỏi ông, "Có phải con cũng không  thích quan niệm của con khi nói: 'con không thích điều gì cả'?"
     Dīghanakha lúng túng đáp lời: "Dầu con có ưa thích quan niệm của con đi  nữa thì tất cả đều cũng như nhau." Ðây là lối trả lời đặc biệt tiêu  biểu của những người tà kiến: lúng túng mơ hồ, không nói lên rõ ràng  điều mình tin tưởng hay điều mình nói.
    Ðể làm sáng tỏ quan  điểm của vị đạo sĩ, Ðức Thế Tôn nói, Ṅiềm tin của người theo chủ thuyết  thường kiến (sassata) gần với lòng tham ái, gần với dây trói buộc, với  sự thỏa thích thưởng thức, gần với sự chấp thủ, nắm giữ chắc chắn, và  bám níu chặt chẽ. Tin theo thuyết đoạn kiến (uccheda) gần với lòng  không-tham ái, với sự không-trói buộc, không-thỏa thích thưởng thức,  không-chấp thủ, không-chắc chắn nắm giữ, và không-chặt chẽ bám níu."  Nghe vậy Dīghanakha ghi nhận, "Ðức Gotama tán dương quan điểm của tôi;  Ðức Gotama đã tán dương quan điểm của tôi."
    Tuy nhiên Ðức Thế  Tôn chỉ giải thích suông những phẩm hạnh thật sự và những điểm sai lầm  của hai thuyết thường kiến và đoạn kiến. Người theo thuyết thường kiến  ghê sợ và cố tránh những hành động bất thiện (akusala) nhằm tránh khỏi  những hậu quả không lành trong những kiếp sống tương lai. Họ quyết tâm  làm những việc thiện, nhưng họ thích thú hưởng thụ quả lành, thoả thích  trong lạc thú và sẽ đi vòng quanh trong những kiếp luân hồi. Và Bản Chú  Giải nói rằng một khi đã chấp thủ quan niệm thường kiến thì rất khó từ  bỏ. Chí đến những vị đã quen sống trong truyền thống Phật Giáo, vẫn thấy  khó lòng có thể tin rằng không có tự ngã, không có một thực thể sống mà  chỉ có tiến trình danh và sắc. Ðối với chư vị A La Hán, không còn danh  và sắc khởi sanh trong một kiếp mới nữa sau khi nhập Ðại Niết Bàn  Parinibbāna, vì các Ngài đã hoàn toàn tận diệt mọi ái dục và chấp thủ  (ái và thủ). Tiến trình danh và sắc đã hoàn toàn chấm dứt. Những người  theo thuyết thường kiến thích tin rằng sau khi nhập Ðại Niết Bàn  (Parinibbāna), chư vị A La Hán (Arahats) vẫn tiếp tục tồn tại trong một  hình thức danh sắc đặc biệt nào.
    Về điểm nầy Bản Chú Giải nói:
     Người theo thuyết thường kiến hiểu biết rằng có kiếp sống hiện tại và  có đời sống sau khi chết. Họ hiểu rằng hành động tốt đưa đến hậu quả  lành và hành động xấu sẽ đưa đến quả dữ. Họ cố thực hiện những hành động  tạo phước báu và lùi bước trước những hành động xấu, nhưng họ thích  hưởng thụ dục lạc, thích vui thú trong ngũ trần, vốn là nguyên nhân đưa  họ vào những kiếp sống mới. Dầu cho đến khi đã gặp Ðức Thế Tôn hay các  vị đệ tử của Ngài, họ vẫn cảm thấy khó từ bỏ niềm tin quen thuộc cũ xưa.  Như vậy, về những người tin theo thường kiến ta có thể nói rằng mặc dầu  đó không phải là lỗi lầm trầm trọng, nhưng rất khó từ bỏ.
     "Ðàng khác, người theo thuyết đoạn kiến không biết rằng từ một kiếp sống  ở nơi nào khác ta có thể tái sanh vào cảnh người và sau khi chết còn có  đời sống. Họ không hiểu rằng những hành động thiện sẽ đưa đến hậu quả  lành, và hành động bất thiện sẽ đưa đến hậu quả dữ. Họ không thực hiện  những hành động tạo phước, không sợ những hành động xấu xa dữ tợn. Họ  không thích hưởng thụ dục lạc hay vui thú trong ngũ trần, vốn là nguyên  nhân đưa họ vào những kiếp sống mới (bởi vì họ không tin có đời sống sau  khi chết), nhưng khi gặp được Ðức Thế Tôn hay các vị đệ tử của Ngài thì  họ có thể từ bỏ ngay niềm tin cũ, và ta có thể nói rằng sai lầm của họ  tuy trầm trọng nhưng dễ sửa sai."
    Dīghanakha không thể lãnh  hội ý nghĩa tiềm ẩn bên trong lời tuyên ngôn của Ðức Thế Tôn. Ông ngỡ  rằng Ðức Thế Tôn tán dương quan niệm không tin có đời sống sau khi chết  của ông. Vì lẽ ấy ông nói, "Ðức Gotama tán dương quan điểm của tôi."  Nhằm giúp ông từ bỏ quan kiến sai lầm, Ðức Thế Tôn tiếp tục phê bình ba  quan niệm chánh vào thời bấy giờ: đó là quan niệm thường kiến, chủ  trương rằng "tôi ưa thích tất cả"; quan niệm đoạn kiến nói rằng, "tôi  không ưa thích gì cả"; và một hình thức thường kiến chủ trương "tôi ưa  thích một vài điều và không ưa thích một vài điều."
    Nhằm tóm  lược tuyên ngôn của Ðức Thế Tôn, có lời giải thích: "Khi ta ôm ấp nắm  giữ chặt chẽ một trong ba quan niệm kể trên thì thông thường có sự va  chạm với hai quan niệm kia. Khi có va chạm ắt có tranh cãi, tranh cãi  dẫn đến gây gổ. Và khi có gây gổ ắt có tổn thương." Do đó Ðức Thế Tôn  khuyến khích nên tránh xa ba quan niệm trên. Nơi đây ta có thể hỏi vậy  chớ quan niệm của người Phật tử là "có đời sống mới khởi sanh trong một  kiếp sống mới do nghiệp (kamma) tạo duyên", quan niệm như vậy có trùng  hợp, hay có phải là một, với quan niệm thường kiến không. Câu trả lời là  không. Quan niệm của người Phật tử không bao hàm sự chuyển sinh của một  tự ngã, một thực thể sống, từ một kiếp sống nầy sang kiếp khác. Chỉ có  sự khởi sanh của danh và sắc mới trong kiếp sống mới, tùy thuộc nơi  nghiệp (kamma) quá khứ. Người theo thuyết thường kiến tin có một tự ngã,  di chuyển từ kiếp nầy sang một kiếp sống mới. Như vậy hai quan niệm rõ  ràng khác biệt.
    Lại nữa, một câu hỏi khác có thể được nêu  lên. Theo Phật Giáo, khi chư vị A La Hán (Arahats) nhập Ðại Niết Bàn  (Paranibbāna) thì tiến trình danh và sắc chấm dứt và không bao giờ khởi  sanh trở lại trong một kiếp sống mới. Ðó có phải là cùng một quan niệm  với thuyết đoạn kiến không, vì thuyết nầy cũng chủ trương rằng sau khi  chết là không còn gì. Nơi đây cũng vậy, không có sự giống nhau. Theo  thuyết đoạn kiến, có một thực thể sống hiện hữu trước khi chết và cái tự  ngã nầy tan biến sau khi chết. Không có sự cố gắng đặc biệt nào cần  phải làm cho nó tan biến; tự nhiên nó "thoát ra" theo con đường của nó.
     Người theo chủ thuyết duy vật nghĩ rằng chỉ có đau khổ trước khi chết.  Chết rồi thì hết đau. Bám níu vào quan niệm đau khổ và thích thú trước  khi chết như thế là chấp thủ tự ngã. Theo Phật Giáo, trước khi nhập Ðại  Niết Bàn vị A La Hán không quan niệm có tự ngã mà chỉ thấy một tiến  trình sắc và danh liên tục trôi chảy. Ðau khổ và hạnh phúc là sự biểu  hiện của thọ, khởi sanh và hoại diệt trở đi trở lại theo bản chất thiên  nhiên. Sau khi nhập Ðại Niết Bàn, tiến trình sắc và danh liên tục tiếp  diễn ấy chấm dứt nơi vị A La Hán. Không phải tự nó tự nhiên chấm dứt mà  do Thánh Ðạo, có hiệu lực tận diệt mọi ô nhiễm (kilesa) và nghiệp  (kamma), vốn là nguyên nhân làm khởi sanh tiến trình sắc và danh. Khi  nguyên nhân làm khởi sanh đã tan biến thì tiến trình sắc và danh không  còn sanh khởi nữa. Như vậy là có cả ṁột thế gian khác biệt" giữa sự chấm  dứt sau khi Ðại Niết Bàn trong Phật Giáo và quan niệm chấm dứt của  thuyết đoạn kiến.
    Lại còn một câu hỏi nữa có thể được nêu  lên: Người theo thuyết thường kiến tranh cãi với người chấp thủ quan  niệm đoạn kiến. Vậy, cùng thế ấy, giữa những người tin và những người  không tin có tự ngã, có thế nào có sự tranh luận hay cãi vã không?" --  Giáo huấn xuất nguyên từ Chánh Kiến không đưa đến tranh cãi mà chỉ làm  khởi phát trí tuệ và chân lý vì lợi ích cho người khác. Dạy rằng chỉ có  một tiến trình sắc và danh luôn luôn biến đổi từ cũ sang mới, rằng không  có một tự ngã thường còn hay một linh hồn hằng cửu được xem như một  thực thể đơn thuần nguyên vẹn là lý vô ngã, là Chánh Kiến. Ðối với người  có Chánh Kiến về lý vô ngã, không chấp vào một cái "ta" cho rằng của  mình thì không có lý do gì tự dấn thân vào một cuộc cãi vã, biện luận,  hay tranh luận. Chúng ta sẽ thấy lời giải thích về điểm nầy của chính  Ðức Phật vào phần cuối cùng của bài kinh.
    Sau khi giải thích  những sai lầm của ba quan niệm thường kiến, đoạn kiến và một hình thức  của thường kiến, Ðức Thế Tôn tiếp tục khuyên dạy nên từ bỏ sự chấp thủ  vào cơ thể vật chất nầy:
    "Aggivessana [1], cơ thể vật chất  nầy của chúng ta được cấu thành do bốn nguyên tố chánh [2], phát sanh do  máu huyết và tinh trùng của cha mẹ, và được nuôi dưỡng bằng vật thực  như gạo và bánh mì. Bản chất thiên nhiên của nó là vô thường, phải được  bảo trì bằng cách đấm bóp thoa dầu; và dù đã được dưỡng nuôi như vậy vẫn  phải hư hoại và tan rã. Thân nầy phải được xem là vô thường, đau khổ,  như một tật bệnh, một gai nhọn, một ung nhọt, một tệ hại, một nỗi khổ,  như một vật xa lạ không quen thuộc với mình, một vật phải bị hư hoại,  không có tự ngã. Khi xem thân nầy là như vậy ắt ta sẽ buông xả ái và  thủ, không luyến ái và chấp thủ nó."
    [1] Aggivessana là môn phái của Dīghanakha.
    [2] Tứ đại chánh yếu.
     Khi đã giảng xong bản chất của cơ thể vật chất (rūpa, sắc) Ðức Thế Tôn  giảng tiếp về bản chất của phần tâm linh (nāma, danh):
     "Aggivessana, có ba loại thọ: thọ lạc, thọ khổ và thọ vô ký. Khi cảm  nhận bất luận loại thọ nào trong ba loại thì không kinh nghiệm hai loại  kia. Bởi vì mỗi loại thọ chỉ phát sanh đơn độc, phải nên hiểu rằng nó là  vô thường, được cấu thành do điều kiện (saṅkhata), tùy duyên sanh khởi  (Paṭiccasamuppāda), phải bị hư hoại và tan rã (khaya, vaya), suy tàn và  chấm dứt (virāga, nirodha)".
    (Nên ghi nhận rằng bằng những  lời giảng như trên Ðức Thế Tôn dạy về phương cách niệm thọ. Phải quán  niệm như thế nào để hiểu biết sự khởi sanh tùy thuộc trường hợp và tức  khắc hư hoại, suy tàn và tan rã).
    Vị hành giả ghi nhận những  hiện tượng sắc và danh bắt đầu bằng cử động phồng lên và xẹp xuống ở  bụng, như Sư đã dạy, phải gom tâm chăm chú vào cảm giác và niệm, "đau,  đau" khi có cảm giác đau sanh khởi; "khó chịu, khó chịu" khi có cảm giác  không bằng lòng sanh khởi; "vui thích, vui thích" khi có cảm giác thích  thú sanh khởi và "hạnh phúc, hạnh phúc" khi có cảm giác hạnh phúc. Khi  cảm giác không rõ ràng là hạnh phúc hay đau khổ, sự chú tâm phải hướng  vào thân hoặc vào bất luận trạng thái tâm nào đang nổi bật.
     Trong khi thận trọng quan sát những cảm thọ, thọ lạc và thọ khổ sẽ được  cảm nhận rõ ràng, luôn luôn sanh khởi và tan biến, như những giọt mưa  rơi vào người đang đi dưới đám mưa, chạm đến thân rồi tức khắc tan biến.  Cũng như những giọt mưa bên ngoài, những "giọt mưa" bên trong khởi sanh  giống như rơi vào mình từ một nguyên nhân bên ngoài. Khi thấy được rõ  ràng hiện tượng nầy hành giả nhận thức rằng những thọ cảm nầy là vô  thường, triền miên sanh diệt, không phải là tự ngã, không có một thực  thể đơn thuần. Chứng nghiệm như vậy người hành thiền phát triển tâm nhàm  chán và buông xả mà Ðức Thế Tôn giải thích như sau:
    Tâm Nhàm Chán Và Buông Xả Phát Sanh Do Pháp Thọ Quán Niệm Xứ
     "Aggivessana, khi người hành thiền nhận thấy ba hình thức thọ cảm đều  vô thường thì nhàm chán thọ lạc, thọ khổ và thọ vô ký."
    Ta  phải đặc biệt giữ nằm lòng những lời dạy nầy. Mục đích của thiền minh  sát (vipassanā meditation) là phát triển nibbbidā ñāṇa, tuệ chán nản.  Chỉ khi nào tự cá nhân mình nhận thấy và chứng nghiệm hiện tượng  sanh-diệt ta mới có thể nắm vững đầy đủ và trọn vẹn bản chất vô thường  của vạn hữu và phát triển tâm nhàm chán. Nên ghi nhận rằng kinh  Dīghanakha Sutta không có đề cập đến công trình quán niệm chi tiết các  thành phần khác nhau của sắc pháp. Phải quán niệm thân nầy như một sự  cấu thành, một nhóm (uẩn). Xét theo những lời dạy được trích dẫn ở phần  trên, rõ ràng ta có thể phát triển tâm nhàm chán mà không cần phải quán  niệm chi tiết những thành phần khác nhau trong thân như được mô tả trong  Vi Diệu Pháp.
    Lại nữa, liên quan đến pháp niệm danh, chỉ có  ba loại thọ là được đề cập đến. Không có đoạn nào nhắc đến những thành  phần khác nhau của danh pháp như hành uẩn và thức uẩn. Nơi đây cũng vậy,  ta thấy rõ rằng tâm nhàm chán có thể được phát triển chỉ bằng cách ghi  nhận ba loại thọ, ngay vào lúc nó khởi sanh. Tuy nhiên, phải ghi nhận  rằng không phải chỉ có thọ khổ, mà tất cả ba loại thọ phải được quán  niệm, bởi vì tất cả ba đều biểu lộ hiển hiện.
    Ðến đây Ðức Thế  Tôn tiếp tục giải thích sau khi đã phát triển tâm chán nản, Ðạo Tuệ,  Quả Tuệ và Tuệ Ôn Duyệt phát sanh như thế nào.
    Ðạo Và Quả Phát Sanh Do Nhàm Chán
     Khi tâm nhàm chán đã được phát triển, hay bởi vì đã phát triển tuệ chán  nản, ái dục của hành giả biến tan. Nói cách khác, hành giả đã tận diệt  mọi khát vọng, và tuệ giác của Thánh Ðạo phát sanh. Trí tuệ của Thánh  Ðạo loại trừ ái dục, và hành giả giải thoát, tức chứng đắc A La Hán Quả  (arahattaphala).
    Khi đã giải thoát như vậy ắt khởi sanh đến  hành giả trí tuệ hiểu biết rằng tâm mình đã giải thoát. Ngài ôn duyệt và  hiểu biết, "Tái sanh đã chấm dứt, đời Sống Thánh Thiện đã hoàn thành,  những gì cần phải làm đã được hoàn tất, không còn gì phải làm nữa."
    Bằng những lời lẽ như trên Ðức Thế Tôn mô tả phương cách mà vị A La Hán thành tựu Ðạo Quả và phát triển tuệ ôn duyệt.
     Rồi Ngài tiếp tục giải thích rằng sau khi đã chứng ngộ, bậc A La Hán  không còn bị lôi cuốn trong những cuộc tranh cãi hay biện luận.
     "Aggivessana, vị tỳ khưu đã thoát ra khỏi mọi hoặc lậu (āsava) không  còn tranh cãi với ai nữa. Mặc dầu Ngài còn dùng những danh từ chế định  như "tôi, ông, hay đàn ông, đàn bà", nhưng không lầm lạc chủ trương rằng  đó là chân lý cùng tột. Ngài không còn tranh luận cãi vã với ai bởi vì  đã thấu hiểu chân đế và chỉ nói theo chân lý."
    Kinh Puppha Sutta của phẩm Khandhavagga, trong bộ Tạp A Hàm (Saṁyutta Nikāya) dạy rằng:
    Nahaṁ bhikhave lokena vivadāmi. Lokova mayā vivadati. Na bhikhave dhammavādī kenaci lokasmiṁ vivadati.
     Nầy chư Tỳ Khưu, Như Lai không tranh chấp với thế gian, chính thế gian  tranh chấp với Như Lai. Nầy chư Tỳ Khưu, người có thói quen nói chân lý  không biện luận hay tranh cãi với ai khác trong thế gian. Nói cách khác,  không thể bảo rằng người kia biện luận vì người ấy nói đúng chân lý."
    Ðạo Quả A La Hán Của Ngài Sāriputta
     Trong lúc Ðức Thế Tôn giải thích cho đạo sĩ Dīghanakha phải quán niệm  ba loại thọ như thế nào và như thế nào do quán niệm như vậy ta có thể  thành tựu Ðạo Quả A La Hán thì có Ðức Sāriputta (Xá Lợi Phất) đứng sau  lưng, cầm quạt, quạt Ngài.
    Lúc bấy giờ Ðức Sāriputta (Xá Lợi  Phất) là một vị Tu Ðà Huờn. Khi nghe thời Pháp về ba loại thọ thì Ngài  chứng đắc trí tuệ cao siêu của Ðạo Quả A La Hán, ngay trong lúc quạt mát  cho Ðức Thế Tôn.
    Trong Kinh Anupada Sutta, sự chứng đắc Ðạo  Quả A La Hán của Ngài được mô tả như sau: Ðức Sāriputta nhập Sơ Thiền  (jhāna), Nhị Thiền v.v... xuyên qua tất cả những tầng Thiền Sắc Giới và  Vô Sắc Giới. Mỗi khi xuất ra một tầng Thiền thì Ngài ôn duyệt trở lại và  quán niệm bản chất của tầng Thiền ấy, và do sự quán niệm như vậy Ngài  đắc Quả A La Hán. Trong một bài Kinh khác, chính Ðức Sāriputta giải  thích rằng Ngài chứng đắc Ðạo Quả A La Hán bằng cách quán niệm tiến  trình sắc và danh đang trôi chảy bên trong mình. Ta có thể dung hòa phối  hợp ba bài Kinh và hiểu rằng Ðức Sāriputta trải qua các tầng Thiền  (jhāna) trong khi lắng nghe bài giảng về ba loại thọ, và khi xuất thiền  Ngài quán niệm các thọ cảm đã được chứng nghiệm trong khi đắc Thiền, và  do đó thành tựu trí tuệ cao siêu của Ðạo và Quả.
    Dīghanakha,  người cháu của Ngài Sāriputta, đắc Quả Tu Ðà Huờn sau khi lắng nghe thời  Pháp về ba loại thọ. Ta nên hiểu rằng trong khi nghe giảng, có những  loại thọ khởi sanh đến Ngài. Ngay vào lúc ấy Ngài quán niệm những thọ  cảm vừa khởi sanh và phát triển tuệ minh sát. Sau khi thuyết giảng bài  Kinh, Ðức Thế Tôn xuống núi Linh Thứu và triệu tập một cuộc họp của chư  vị đệ tử. Do thần thông Ðức Sāriputta hay biết có cuộc họp, và dùng thần  thông bay đến Tịnh Xá Veḷuvana (Trúc Lâm).
    Những đặc điểm của cuộc họp là:
    1. Cuộc hợp khởi diễn vào ngày trăng tròn tháng Hai DL., khi chòm sao sư tử bắt đầu sáng tỏ;
    2. Chư Tăng tự động đến tham dự cuộc họp mà không có lời mời;
    3. Tất cả những vị sư đến dự đều đã là các vị A La Hán đã chứng đắc Ðạo Quả cùng với sáu abhiññā, thần thông.
    4. Tất cả những vị sư đến dự đều là những vị đã thọ lễ xuất gia theo phương cách "Ehi bhikkhu".
     [Lời người dịch: Theo phương cách nầy, Ðức Phật chỉ gọi "Ehi Bhikkhu" ,  "hãy đến đây Tỳ Khưu", người thọ giới bỗng nhiên có đầy đủ tăng tướng,  y, bát, râu tóc v.v... giống hệt như một vị tỳ khưu.]
    Kinh sách ghi rằng có tất cả một ngàn hai trăm năm mươi vị đã đến tham dự cuộc họp do Ðức Thế Tôn triệu tập.
     Trong buổi thảo luận hôm nay chúng ta đã vượt ra ngoài phạm vi của bài  Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa Sutta), khi bàn đến Kinh Dīghanakha  Sutta. Sư kết thúc thời Pháp bằng cách nhắc lại đoạn kinh dạy rằng thọ  không phải là tự ngã.
    "Nầy chư Tỳ Khưu, vedanāv - thọ, không  phải là tự ngã; nếu thọ là tự ngã, thì nó không có khuynh hướng gây đau  khổ hay thất vọng buồn phiền, và ta phải có khả năng sai bảo, 'Thọ của  tôi phải như thế nầy, thọ của tôi phải không như thế kia'. Ta không có  thể ảnh hưởng đến thọ như thế ấy".