XXXIV. PHẨM KHÓ TIN HIỂU
01
 Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch              Thế Tôn! Chẳng siêng năng tinh tấn, chưa trồng thiện căn, đủ căn bất              thiện, bị ác tri thức chi phối, nên đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thậm thâm mà Phật đã nói này, thật khó tin hiểu.               Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy!              Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, chẳng siêng năng tinh tấn, chưa trồng              thiện căn, đủ căn bất thiện, bị ác tri thức chi phối, nên đối với              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm đã nói này, thật khó tin hiểu.                            Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:              Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, thậm thâm như thế nào mà khó tin khó              hiểu?              Phật dạy: Này Thiện Hiện! Sắc chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc không có tánh sở hữu, là tự              tánh của sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức không có tánh sở hữu, là tự tánh              của thọ, tưởng, hành, thức. Nhãn xứ chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì nhãn xứ không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn xứ; nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ. Sắc xứ chẳng phải buộc chẳng phải mở. Vì sao? Vì              sắc xứ không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc xứ; thanh, hương, vị,              xúc, pháp xứ chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh, hương,              vị, xúc, pháp xứ không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh, hương,              vị, xúc, pháp xứ. Nhãn giới chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì nhãn giới không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn giới; sắc              giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc giới cho đến              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tánh sở hữu, là tự              tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Nhĩ              giới chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ giới không có              tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và              nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm              duyên sanh ra không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh giới cho              đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Tỷ giới chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì tỷ giới không có tánh sở hữu, là tự tánh              của tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không có tánh              sở hữu, là tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm              duyên sanh ra. Thiệt giới chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              thiệt giới không có tánh sở hữu, là tự tánh của thiệt giới; vị giới,              thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì vị giới cho đến              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có tánh sở hữu, là tự              tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.              Thân giới chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thân giới không              có tánh sở hữu, là tự tánh của thân giới; xúc giới, thân thức giới              và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc              làm duyên sanh ra không có tánh sở hữu, là tự tánh của xúc giới cho              đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Ý giới chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì ý giới không có tánh sở hữu, là tự tánh              của ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc              làm duyên sanh ra chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp              giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có tánh sở hữu,              là tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.              Địa giới chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì địa giới không              có tánh sở hữu, là tự tánh của địa giới; thủy, hỏa, phong, không,              thức giới chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thủy, hỏa,              phong, không, thức giới không có tánh sở hữu, là tự tánh của thủy,              hỏa, phong, không, thức giới. Vô minh chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì vô minh không có tánh sở hữu, là tự tánh của vô minh;              hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              hành, thức cho đến sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có              tánh sở hữu, là tự tánh của hành, thức cho đến sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não. Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa không có tánh sở hữu, là tự tánh              của bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có tánh sở hữu, là tự tánh              của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Pháp không nội chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp không nội không có tánh sở              hữu, là tự tánh của pháp không nội; pháp không ngoại, pháp không nội              ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa,              pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không              không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp              không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp              không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không              không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh vô sở hữu là tự tánh pháp không ngoại cho              đến pháp không không tánh tự tánh. Chơn như chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì chơn như không có tánh sở hữu, là tự tánh của              chơn như; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi              khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế,              cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không có              tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.              Thánh đế khổ chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Thánh đế khổ              không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế khổ; Thánh đế tập,              diệt, đạo chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Thánh đế tập,              diệt, đạo không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế tập, diệt,              đạo. Bốn tịnh lự chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn tịnh              lự không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn tịnh lự; bốn vô lượng,              bốn định vô sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn vô              lượng, bốn định vô sắc không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn vô              lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì tám giải thoát không có tánh sở hữu, là tự tánh của              tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ. Bốn niệm trụ chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì bốn niệm trụ không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn              niệm trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi              đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không có tánh sở hữu, là              tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Pháp môn giải              thoát không chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp môn giải              thoát không không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát              không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện              không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng,              vô nguyện. Mười địa Bồ-tát chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì mười địa Bồ-tát không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười địa              Bồ-tát. Năm loại mắt chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì năm              loại mắt không có tánh sở hữu, là tự tánh của năm loại mắt; sáu phép              thần thông chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sáu phép thần              thông không có tánh sở hữu, là tự tánh của sáu phép thần thông. Mười              lực Phật chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì mười lực Phật              không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười lực Phật; bốn điều không              sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,              mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có              tánh sở hữu, là tự tánh của là tự tánh bốn điều không sợ cho đến              mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp không quên mất không có tánh sở hữu,              là tự tánh của pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tánh luôn luôn xả không có tánh sở              hữu, là tự tánh của tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì trí nhất thiết không có tánh sở hữu,              là tự tánh của trí nhất thiết. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì trí đạo tướng, trí nhất              thiết tướng không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí đạo tướng, trí              nhất thiết tướng. Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tánh sở hữu,              là tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa              không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.              Dự-lưu quả chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Dự-lưu quả              không có tánh sở hữu, là tự tánh của Dự-lưu quả; Nhất-lai, Bất-hoàn,              A-la-hán quả chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Nhất-lai,              Bất-hoàn, A-la-hán quả không có tánh sở hữu, là tự tánh của Nhất-lai,              Bất-hoàn, A-la-hán quả. Quả vị Ðộc-giác chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì quả vị Ðộc-giác không có tánh sở hữu, là tự tánh của              quả vị Ðộc-giác; tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không có tánh sở hữu, là tự              tánh của hạnh đại Bồ-tát. Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư              Phật không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật.              Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc              đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc đời trước              không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc đời trước; thọ, tưởng, hành,              thức đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng,              hành, thức đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của thọ, tưởng,              hành, thức đời trước. Nhãn xứ đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì nhãn xứ đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh              của nhãn xứ đời trước; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời trước chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời              trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý              xứ đời trước. Sắc xứ đời trước chẳng phải buộc chẳng phải mở đời              trước. Vì sao? Vì sắc xứ đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh              của sắc xứ đời trước; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời trước chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ              đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ đời trước. Nhãn giới đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì nhãn giới đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh              của nhãn giới đời trước; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời trước chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm              duyên sanh ra đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc              giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời trước. Nhĩ              giới đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ giới              đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ giới đời trước;              thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm              duyên sanh ra đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời trước              không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do              nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời trước. Tỷ giới đời trước chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tỷ giới đời trước không có tánh sở              hữu, là tự tánh của tỷ giới đời trước; hương giới, tỷ thức giới và              tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời trước chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì hương giới cho đến các thọ do              tỷ xúc làm duyên sanh ra đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh              của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời trước.              Thiệt giới đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              thiệt giới đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của thiệt giới              đời trước; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do              thiệt xúc làm duyên sanh ra đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra              đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của vị giới cho đến các              thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời trước. Thân giới đời trước              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thân giới đời trước không              có tánh sở hữu, là tự tánh của thân giới đời trước; xúc giới, thân              thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra              đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì xúc giới cho              đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời trước không có tánh sở              hữu, là tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra đời trước. Ý giới đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì ý giới đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của ý              giới đời trước; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì              sao? Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời              trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra đời trước. Địa giới đời trước chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì địa giới đời trước không có tánh sở              hữu, là tự tánh của địa giới đời trước; thủy, hỏa, phong, không,              thức giới đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thủy,              hỏa, phong, không, thức giới đời trước không có tánh sở hữu, là tự              tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời trước. Vô minh đời              trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì vô minh đời trước              không có tánh sở hữu, là tự tánh của vô minh đời trước; hành, thức,              danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              hành, thức cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời trước không              có tánh sở hữu, là tự tánh của hành, thức cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não đời trước. Bố thí Ba-la-mật-đa đời trước chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa đời trước không              có tánh sở hữu, là tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa đời trước; tịnh              giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đời trước              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh              tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đời trước không có tánh sở hữu,              là tự tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đời trước.              Pháp không nội đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              pháp không nội đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp              không nội đời trước; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp              không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu              vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới,              pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh,              pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp,              pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không              tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đời trước chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp không ngoại cho đến pháp không không              tánh tự tánh đời trước không có tánh sở hữu là tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đời trước. Chơn              như đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì chơn như              đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của chơn như đời trước;              pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời trước              không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất              tư nghì đời trước. Thánh đế khổ đời trước chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì Thánh đế khổ đời trước không có tánh sở hữu, là              tự tánh của Thánh đế khổ đời trước; Thánh đế tập, diệt, đạo đời              trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt,              đạo đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế tập,              diệt, đạo đời trước. Bốn tịnh lự đời trước chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì bốn tịnh lự đời trước không có tánh sở hữu, là              tự tánh của bốn tịnh lự đời trước; bốn vô lượng, bốn định vô sắc đời              trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn              định vô sắc đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn vô              lượng, bốn định vô sắc đời trước. Tám giải thoát đời trước chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tám giải thoát đời trước không              có tánh sở hữu, là tự tánh của tám giải thoát đời trước; tám thắng              xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời trước chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời              trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám thắng xứ, chín định              thứ đệ, mười biến xứ đời trước. Bốn niệm trụ đời trước chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn niệm trụ đời trước không có tánh              sở hữu, là tự tánh của bốn niệm trụ đời trước; bốn chánh đoạn, bốn              thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đời              trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho              đến tám chi thánh đạo đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của              bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đời trước. Pháp môn giải              thoát không đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              pháp môn giải thoát không đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh              của pháp môn giải thoát không đời trước; pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời trước không có tánh              sở hữu, là tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời              trước. Mười địa Bồ-tát đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì              sao? Vì mười địa Bồ-tát đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh              của mười địa Bồ-tát đời trước. Năm loại mắt đời trước chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì năm loại mắt đời trước không có tánh              sở hữu, là tự tánh của năm loại mắt đời trước; sáu phép thần thông              đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sáu phép thần              thông đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của sáu phép thần              thông đời trước. Mười lực Phật đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì mười lực Phật đời trước không có tánh sở hữu, là tự              tánh của mười lực Phật đời trước; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu              biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật              bất cộng đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn              điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đời trước không có              tánh sở hữu, là tự tánh của là tự tánh bốn điều không sợ cho đến              mười tám pháp Phật bất cộng đời trước. Pháp không quên mất đời trước              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp không quên mất đời              trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không quên mất đời              trước; tánh luôn luôn xả đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì tánh luôn luôn xả đời trước không có tánh sở hữu, là tự              tánh của tánh luôn luôn xả đời trước. Trí nhất thiết đời trước chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì trí nhất thiết đời trước không              có tánh sở hữu, là tự tánh của trí nhất thiết đời trước. Trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời trước không có              tánh sở hữu, là tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời              trước. Tất cả pháp môn Đà-la-ni đời trước chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni đời trước không có tánh              sở hữu, là tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni đời trước; tất cả              pháp môn Tam-ma-địa đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa đời trước không có tánh sở hữu, là tự              tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa đời trước. Dự-lưu quả đời trước              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Dự-lưu quả đời trước              không có tánh sở hữu, là tự tánh của Dự-lưu quả đời trước; Nhất-lai,              Bất-hoàn, A-la-hán quả đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì              sao? Vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả đời trước không có tánh sở              hữu, là tự tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả đời trước. Quả              vị Ðộc-giác đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì quả              vị Ðộc-giác đời trước không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị              Ðộc-giác đời trước; tất cả hạnh đại Bồ-tát đời trước chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát đời trước không có              tánh sở hữu, là tự tánh của hạnh đại Bồ-tát đời trước. quả vị giác              ngộ cao tột của chư Phật đời trước chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật đời trước không có              tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật đời              trước.              Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc              đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc đời sau không              có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc đời sau; thọ, tưởng, hành, thức              đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành,              thức đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thọ, tưởng, hành,              thức đời sau. Nhãn xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì nhãn xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn xứ đời              sau; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời sau không có tánh sở              hữu, là tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời sau. Sắc xứ đời              trước chẳng phải buộc chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc xứ đời sau không              có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc xứ đời sau; thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời sau. Nhãn giới đời sau chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhãn giới đời sau không có tánh sở              hữu, là tự tánh của nhãn giới đời sau; sắc giới, nhãn thức giới và              nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc giới cho đến các thọ do              nhãn xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh              của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời sau.              Nhĩ giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ giới              đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ giới đời sau; thanh              giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh              giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời sau không có              tánh sở hữu, là tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc              làm duyên sanh ra đời sau. Tỷ giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì tỷ giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh              của tỷ giới đời sau; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các              thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh              ra đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của hương giới cho đến              các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời sau. Thiệt giới đời sau              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thiệt giới đời sau không              có tánh sở hữu, là tự tánh của thiệt giới đời sau; vị giới, thiệt              thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra              đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì vị giới cho đến              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời sau không có tánh sở hữu,              là tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh              ra đời sau. Thân giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì thân giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của thân giới              đời sau; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời sau              không có tánh sở hữu, là tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do              thân xúc làm duyên sanh ra đời sau. Ý giới đời sau chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì ý giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự              tánh của ý giới đời sau; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các              thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra              đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp giới cho đến các              thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời sau. Địa giới đời sau chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì địa giới đời sau không có tánh sở              hữu, là tự tánh của địa giới đời sau; thủy, hỏa, phong, không, thức              giới đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thủy, hỏa,              phong, không, thức giới đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời sau. Vô minh đời sau chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì vô minh đời sau không có tánh              sở hữu, là tự tánh của vô minh đời sau; hành, thức, danh sắc, lục xứ,              xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời              sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì hành cho đến lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời sau. Bố thí              Ba-la-mật-đa đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bố              thí Ba-la-mật-đa đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa đời sau; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã              Ba-la-mật-đa đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đời sau không có tánh sở hữu, là              tự tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đời sau. Pháp              không nội đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp              không nội đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không              nội đời sau; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không              không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi,              pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới,              pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh,              pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp,              pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không              tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đời sau chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp không ngoại cho đến pháp không không              tánh tự tánh đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp không              ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đời sau. Chơn như đời              sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì chơn như đời sau              không có tánh sở hữu, là tự tánh của chơn như đời sau; pháp giới,              pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng,              tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh              giới bất tư nghì đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời sau không có tánh sở hữu,              là tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đời sau.              Thánh đế khổ đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              Thánh đế khổ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của Thánh đế              khổ đời sau; Thánh đế tập, diệt, đạo đời sau chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt, đạo đời sau không có tánh sở              hữu, là tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo đời sau. Bốn tịnh lự đời              sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn tịnh lự đời sau              không có tánh sở hữu, là tự tánh của bốn tịnh lự đời sau; bốn vô              lượng, bốn định vô sắc đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì              sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc đời sau không có tánh sở hữu,              là tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc đời sau. Tám giải thoát              đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tám giải thoát              đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám giải thoát đời sau;              tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đời sau chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến              xứ đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ đời sau. Bốn niệm trụ đời sau chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn niệm trụ đời sau không có tánh              sở hữu, là tự tánh của bốn niệm trụ đời sau; bốn chánh đoạn, bốn              thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đời              sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho              đến tám chi thánh đạo đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đời sau. Pháp môn giải              thoát không đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp              môn giải thoát không đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              pháp môn giải thoát không đời sau; pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp môn              giải thoát vô tướng, vô nguyện đời sau không có tánh sở hữu, là tự              tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đời sau. Mười địa              Bồ-tát đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì mười địa              Bồ-tát đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười địa Bồ-tát              đời sau. Năm loại mắt đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì năm loại mắt đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của năm              loại mắt đời sau; sáu phép thần thông đời sau chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì sáu phép thần thông đời sau không có tánh sở hữu,              là tự tánh của sáu phép thần thông đời sau. Mười lực Phật đời sau              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì mười lực Phật đời sau              không có tánh sở hữu, là tự tánh của mười lực Phật đời sau; bốn điều              không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại              xả, mười tám pháp Phật bất cộng đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng              đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của là tự tánh bốn điều              không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đời sau. Pháp không              quên mất đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp              không quên mất đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp              không quên mất đời sau; tánh luôn luôn xả đời sau chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì tánh luôn luôn xả đời sau không có tánh sở              hữu, là tự tánh của tánh luôn luôn xả đời sau. Trí nhất thiết đời              sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì trí nhất thiết đời              sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của trí nhất thiết đời sau. Trí              đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời sau không có              tánh sở hữu, là tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đời              sau. Tất cả pháp môn Đà-la-ni đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở.              Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni đời sau không có tánh sở hữu, là              tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni đời sau; tất cả pháp môn              Tam-ma-địa đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tất cả              pháp môn Tam-ma-địa đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của tất              cả pháp môn Tam-ma-địa đời sau. Dự-lưu quả đời sau chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì Dự-lưu quả đời sau không có tánh sở hữu,              là tự tánh của Dự-lưu quả đời sau; Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả              đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì Nhất-lai,              Bất-hoàn, A-la-hán quả đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả đời sau. Quả vị Ðộc-giác đời sau              chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì quả vị Ðộc-giác đời sau              không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị Ðộc-giác đời sau; tất cả              hạnh đại Bồ-tát đời sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              tất cả hạnh đại Bồ-tát đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của              hạnh đại Bồ-tát đời sau. quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật đời              sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao              tột của chư Phật đời sau không có tánh sở hữu, là tự tánh của quả vị              giác ngộ cao tột của chư Phật.              Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc              đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc đời giữa              không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc đời giữa; thọ, tưởng, hành,              thức đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng,              hành, thức đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thọ, tưởng,              hành, thức đời giữa. Nhãn xứ đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì nhãn xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của              nhãn xứ đời giữa; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời giữa chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời giữa              không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đời              giữa. Sắc xứ đời giữa chẳng phải buộc chẳng phải mở đời giữa. Vì              sao? Vì sắc xứ đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc xứ              đời giữa; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời giữa chẳng phải buộc,              chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đời giữa              không có tánh sở hữu, là tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ              đời giữa. Nhãn giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao?              Vì nhãn giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của nhãn giới              đời giữa; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn              xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì              sao? Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời              giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của sắc giới cho đến các thọ              do nhãn xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Nhĩ giới đời giữa chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì nhĩ giới đời giữa không có tánh sở              hữu, là tự tánh của nhĩ giới đời giữa; thanh giới, nhĩ thức giới và              nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng              phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thanh giới cho đến các thọ do              nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh              của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đời              giữa. Tỷ giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tỷ              giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của tỷ giới đời giữa;              hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên              sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì hương              giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đời giữa không có              tánh sở hữu, là tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm              duyên sanh ra đời giữa. Thiệt giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng              phải mở. Vì sao? Vì thiệt giới đời giữa không có tánh sở hữu, là tự              tánh của thiệt giới đời giữa; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc,              cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc              làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của vị              giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Thân              giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thân giới              đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của thân giới đời giữa;              xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm              duyên sanh ra đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì              xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đời giữa              không có tánh sở hữu, là tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do              thân xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Ý giới đời giữa chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì ý giới đời giữa không có tánh sở              hữu, là tự tánh của ý giới đời giữa; pháp giới, ý thức giới và ý              xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời giữa chẳng phải              buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc              làm duyên sanh ra đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của pháp              giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đời giữa. Địa giới              đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì địa giới đời              giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của địa giới đời giữa; thủy,              hỏa, phong, không, thức giới đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải              mở. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời giữa không có              tánh sở hữu, là tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đời              giữa. Vô minh đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì vô              minh đời giữa không có tánh sở hữu, là tự tánh của vô minh đời giữa;              hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não đời giữa chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì              sao? Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đời giữa không              có tánh sở hữu, là tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ,              ưu, não đời giữa. 
