Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
Lại  nữa, bạch Thế Tôn! Vì Dự lưu hướng Dự lưu quả vô sanh, nên phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. ; Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất  hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả vô sanh, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Dự lưu hướng Dự lưu quả vô diệt,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; Nhất lai hướng cho đến  la la hán quả vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt.  Dự lưu hướng Dự lưu quả vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô tự tánh; Nhất lai hướng cho đến A la hán quả vô tự tánh, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Dự lưu hướng Dự lưu quả  vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; Nhất lai  hướng cho đến A la hán quả vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô sở hữu. Dự lưu hướng Dự lưu quả không, nên phải biết Bát nhã Ba  la mật đa cũng không; Nhất lai hướng cho đến A la hán quả không nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Dự lưu hướng Dự lưu quả vô  tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; Nhất lai hướng  cho đến A la hán quả vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng  vô tướng. Dự lưu hướng Dự lưu hướng quả vô nguyện, nên phải biết Bát nhã  Ba la mật đa cũng vô nguyện; Nhất lai hướng cho đến A la hán quả vô  nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Dự lưu hướng  Dự lưu hướng quả xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa;  Nhất lai hướng cho đến A la hán quả xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng xa lìa. Dự lưu hướng Dự lưu quả vắng lặng, nên phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; Nhất lai hướng cho đến A la hán quả  vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng. Dự lưu  hướng Dự lưu hướng quả bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng bất khả đắc; Nhất lai hướng cho đến A la hán quả bất khả đắc, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Dự lưu hướng Dự lưu  hướng quả bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất  khả tư nghì; Nhất lai hướng cho đến A la hán quả bất khả tư nghì, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Dự lưu hướng Dự lưu  quả vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri;  Nhất lai hướng cho đến A la hán quả vô giác tri, nên phải biết Bát nhã  Ba la mật đa cũng vô giác tri. Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng trọn nên  thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực;  Nhất lai hướng cho đến A la hán quả chẳng trọn nên thế lực, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi  vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la  mật đa. 
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Ðộc giác vô sanh, nên phải  biết Bát nhã ba la mật đa cũng vô sanh; Ðộc giác bồ đề vô sanh, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Ðộc giác vô diệt, nên phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; Ðộc giác bồ đề vô diệt, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Ðộc giác vô tự tánh, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; Ðộc giác bồ đề vô tự tánh,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Ðộc giác vô sở hữu,  nên phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng vô sở hữu; Ðộc giác bồ đề vô sở  hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Ðộc giác không,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; Ðộc giác bồ đề không, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Ðộc giác vô tướng, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; Ðộc giác bồ đề vô tướng, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Ðộc giác vô nguyện, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; Ðộc giác bồ đề vô nguyện,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Ðộc giác xa lìa, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; Ðộc giác bồ đề xa lìa, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Ðộc giác vắng lặng, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; Ðộc giác bồ đề vắng lặng, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng. Ðộc giác bất khả đắc,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc; Ðộc giác bồ đề bất  khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Ðộc giác  bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư  nghì; Ðộc giác bồ đề bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng bất khả tư nghì. Ðộc giác vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô giác tri; Ðộc giác bồ đề vô giác tri, nên phải biết Bát  nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Ðộc giác chẳng trọn nên thế lực, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; Ðộc giác bồ  đề chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng  trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát  Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. 
Lại nữa, bạch Thế  Tôn! Vì Bồ Tát Ma ha tát vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô sanh; hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô sanh. Bồ Tát Ma ha tát vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô diệt; hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô diệt, nên phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Bồ Tát Ma ha tát vô tự tánh, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô tự  tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Bồ Tát Ma ha  tát vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; hạnh  Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô  sở hữu. Bồ Tát Ma ha tát không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng  không; hạnh Bồ Tát Ma ha tát không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng không. Bồ Tát Ma ha tát vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật  đa cũng vô tướng; hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô tướng, nên phải biết Bát nhã  Ba la mật đa cũng vô tướng. Bồ Tát Ma ha tát vô nguyện, nên phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô nguyện,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Bồ Tát Ma ha tát xa  lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; hạnh Bồ Tát Ma ha  tát xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Bồ Tát Ma ha  tát vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; hạnh  Bồ Tát Ma ha tát vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng  lặng. Bồ Tát Ma ha tát bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng bất khả đắc; hạnh Bồ Tát Ma ha tát bất khả đắc, nên phải biết Bát  nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Bồ Tát Ma ha tát bất khả tư nghì, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; hạnh Bồ Tát Ma ha  tát bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư  nghì. Bồ Tát Ma ha tát vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô giác trị; hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô giác tri, nên phải biết Bát  nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Bồ Tát Ma ha tát chẳng trọn nên thế  lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực;  hạnh Bồ Tát Ma ha tát chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba  la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên  nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. 
Lại  nữa, bạch Thế Tôn! Vì Như Lai Ứng Chánh đẳng Giác vô sanh, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh; Vô thượng Chánh đẳng bồ đề vô  sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; Vô  thượng Chánh đẳng bồ đề vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng  vô diệt. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã  ba la mật đa cũng vô tự tánh; Vô thượng Chánh đẳng bồ đề vô tự tánh, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô sở hữu. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác không, nên phải biết Bát nhã  Ba la mật đa cũng không; Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề không, nên phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vô  tướng, nên phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng vô tướng; Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng.  Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật  đa cũng vô nguyện; Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vô nguyện, nên phải biết  Bát nhã ba la mật đa cũng vô nguyện. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác xa lìa,  nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề xa lìa, nên phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng xa lìa. Như Lai Ứng  Chánh Ðẳng Giác vắng lặng; nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng  lặng; Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vắng lặng, nên phải biết Bát nhã ba la  mật đa cũng vắng lặng. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bất khả đắc, nên phải  biết Bát nhã ba la mật đa cũng bất khả đắc; Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề  bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Như  Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật  đa cũng bất khả tư nghì; Vô thượng Chánh đẳng giác bất khả tư nghì, nên  phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác  tri; Vô thượng Chánh đẳng bồ đề vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô giác tri. Như lại ứng Chánh đẳng giác chẳng trọn nên thế  lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã  Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây  nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. 
Lại  nữa, bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô sanh. Tất cả pháp vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô diệt. Tất cả pháp vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô tự tánh. Tất cả pháp vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô sở hữu. Tất cả pháp không, nên phải biết Bát nhã Ba  la mật đa cũng không. Tất cả pháp vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô tướng. Tất cả pháp vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô nguyện. Tất cả pháp xa lìa, nên phải biết Bát nhã ba la  mật đa cũng xa lìa. Tất cả pháp vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la  mật đa cũng vắng lặng. Tất cả pháp bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba  la mật đa cũng bất khả đắc. Tất cả pháp bất khả tư nghì, nên phải biết  Bát nhã ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Tất cả pháp vô giác tri, nên  phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng vô giác tri. Tất cả pháp chẳng trọn  nên thế lực, nên phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế  lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la  mật đa, tên Ðại Ba la mật đa.
Bấy  giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử thưa với Phật rằng: bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma  ha tát đối với Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây là kẻ năng tin hiểu,  chết từ chỗ nào đến sanh trong đây? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát này  phát thú Vô thượng Chánh đẳng bồ đề đã trải qua mấy thời gian? Bạch Thế  Tôn! Bồ Tát Ma ha tát này đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu Như Lai  Ứng Chánh Ðẳng Giác? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát này tu tập bố thí,  tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa đã lâu  chừng nào? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát này vì sao tin hiểu nghĩa thú  thẳm sâu Bát nhã Ba la mật đa như thế? 
Phật nói: Xá Lợi Tử! Nếu  Bồ Tát Ma ha tát đối với Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây là kẻ năng  tin hiểu, chết trong pháp hội từ mười phương thế giới vô số vô lượng vô  biên Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đến sanh trong đây. Xá lợi tử! Bồ Tát  Ma ha tát này đã từng gần gũi cúng dường vô số lượng vô biên chẳng thể  nghĩ bàn, chẳng thể cân lường Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Xá lợi tử! Bồ  Tát Ma ha tát này từ sơ pháp tâm từng siêng tu tập bố thí, tịnh giới,  an nhẫn, tinh tiến tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa, đã trải vô số lượng vô  biên trăm ngàn ức muôn ức kiếp. Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát Ma ha tát thấy  Bát nhã Ba la mật đa đây, bèn tác lên ý nghĩ này: “ Ta nghe Phật  thuyết”. Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát này đem vô tướng, vô nhị, vô sở đắc  làm phương tiện, năng chính tin hiểu nghĩa thú thẳm sâu Bát nhã Ba la  mật đa như thế. 
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: bạch  Thế Tôn! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu hãy có kẻ năng nghe, năng thấy  chưa? Phật nói: Thiện Hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế, thật không có  kẻ năng nghe và năng thấy. Bát nhã Ba la mật đa như thế cũng chẳng phải  sở nghe và chẳng phải sở thấy. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Sắc không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; thọ tưởng hành thức không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! nhãn xứ không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; thanh hương vị xúc pháp xứ không  nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Nhãn giới không  nghe không thấy, vì các các pháp ngu độn vậy; sắc giới, nhãn thức giới  và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không nghe không thấy,  vì các pháp ngu độn vậy. Nhĩ giới không nghe không thấy, vì các pháp ngu  độn vậy; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh  ra các thọ không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Tỷ giới không  nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; hương giới, tỷ thức giới và  tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không nghe không thấy vì các  pháp ngu độn vậy. Thiệt giới không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn  vậy; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra  các thọ không nghe không thấy vì các pháp ngu độn vậy. Thân giới không  nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; xúc giới, thân thức giới và  thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không nghe không thấy, vì  các pháp ngu độn vậy. Ý giới không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn  vậy; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ  không nghe không thấy vì các pháp ngu độn vậy. 
Thiện Hiện! Ðịa  giới không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; thủy hỏa phong  không thức giới không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện  Hiện! Vô minh không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; hành,  thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán  khổ ưu não không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện!  bố thí Ba la mật đa không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; tịnh  giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. 
Thiện Hiện! Nội không không  nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; ngoại không, nội ngoại không,  không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không,  tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh  không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả  đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không không  nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. 
Thiện Hiện! Chơn như  không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; pháp giới, pháp tánh,  bất hy vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. 
Thiện Hiện! Bốn tĩnh lự  không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; bốn vô lượng, bốn vô sắc  định không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! tám  giải thoát không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ không nghe không thấy, vì các pháp ngu  độn vậy. Thiện Hiện! Bốn niệm trụ không nghe không thấy, vì các pháp ngu  độn vậy; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác  chi, tám thánh đạo chi không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy.  Thiện Hiện! Không giải thoát môn không nghe không thấy, vì các pháp ngu  độn vậy; vô tướng vô nguyện giải thoát môn không nghe không thấy, vì các  pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Năm nhãn không nghe không thấy, vì các  pháp ngu độn vậy; sáu thần thông không nghe không thấy, vì các pháp ngu  độn vậy. 
Thiện Hiện! Phật mười lực không nghe không thấy, vì các  pháp ngu độn vậy; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại  hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không nghe không thấy, vì các  pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Pháp vô vong thất không nghe không thấy,  vì các pháp ngu độn vậy; tánh hằng trụ xả không nghe không thấy, vì các  pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Nhất thiết trí không nghe không thấy, vì  các pháp ngu độn vậy; đạo tướng trí nhất thiết tướng trí không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Tất cả đà la ni môn  không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; tất cả tam ma địa môn  không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. 
Thiện Hiện! Dự  lưu không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; Nhất lai, Bất hoàn, A  la hán không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Dự  lưu hướng Dự lưu quả không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy;  Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Ðộc giác không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; Ðộc giác bồ đề không nghe không  thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; hạnh Bồ Tát Ma ha tát không nghe  không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy; Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề không nghe không thấy, vì các pháp ngu độn vậy. Thiện Hiện!  Tất cả pháp không nghe không thấy, vì tất cả pháp ngu độn vậy. 
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha  tát dồn chứa công hạnh lâu chừng nào, mới năng tu học được Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu? 
Phật nói: Thiện Hiện! Với trong việc này cần  phải phân biệt mà nói. Thiện Hiện! Có Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm,  liền năng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, cũng năng tu học tĩnh lự  Ba la mật đa, tinh tiến Ba la mật đa, an nhẫn ba la mật đa, tịnh giới  Ba la mật đa, bố thí Ba la mật đa. Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này có  phương tiện khéo léo nên chẳng bài báng các pháp, đối tất cả pháp chẳng  tăng chẳng giảm. Bồ Tát Ma ha tát này thường chẳng xa lìa hạnh tương ưng  bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa,  cũng thường chẳng xa lìa Phật Thế Tôn cùng cát Bồ Tát Ma ha tát. Bồ Tát  Ma ha tát này từ một cõi Phật tới một cõi Phật, muốn đem vật trân kỳ quý  lạ, các đồ diệu cúng mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư  Phật Thế Tôn và các chúng Bồ Tát Ma ha tát thảy tùy ý nên xong, cũng  năng ở chỗ các Như Lai kia trồng căn lành. Bồ Tát Ma ha tát này, tùy chỗ  thọ thân chẳng đọa trong bào thai bụng mẹ mà sanh. Bồ Tát Ma ha tát này  tâm thường chẳng cùng lẫn lộn với các phiền não ở chung, cũng chẳng  thường khởi tâm Nhị thừa. Bồ Tát Ma ha tát này hằng chẳng xa lìa thù  thắng, thần thông, từ một nước Phật tới một nước Phật để thành tựu hữu  tình nghiêm tịnh cõi Phật. Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này mới năng  chính tu học Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu. 
Thiện Hiện! Có Bồ  Tát thừa các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy, tuy từng thấy nhiều Phật,  hoặc nhiều trăm Phật, hoặc nhiều ngàn Phật, hoặc nhiều trăm ngàn Phật,  hoặc nhiều trăm ức Phật, hoặc nhiều trăm trăm ức Phật, hoặc nhiều ngàn  trăm ức Phật, hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức Phật, hoặc nhiều trăm ngàn  trăm ức muôn ức Phật. Ở chỗ các Phật cũng nhiều tu tập hạnh bố thí, tịnh  giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa, mà đem hữu sở  đắc làm phương tiện nên chẳng năng tu học tĩnh lự Ba la mật đa, tinh  tiến Ba la mật đa, an nhẫn ba la mật đa, tịnh giới ba la mật đa, bố thí  Ba la mật đa. Thiện Hiện! Các thiện nam tử thiện nữ nhân này, nghe  thuyết Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu như thế, liền từ tòa dậy bỏ chúng  mà đi. Thiện Hiện! Các thiện nam tử thiện nữ nhân này chẳng kính Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu như thế, cũng chẳng kính Phật; đã bỏ Bát nhã ba  la mật đa thẳm sâu như thế cũng bỏ các Ðức Phật. Khiến trong chúng đây  cũng có loại kia, nghe ta thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu này, tâm  chẳng vui nhận, bỏ chúng mà đi. Sở vì sao? Vì các thiện nam tử thiện nữ  nhân này, đời trước nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đã từng bỏ  chúng mà đi, đời nay nghe thuyết Bát nhã ba la mật đa như thế, do sức  huân tập đời trước nên bỏ đi nữa. Các thiện nam tử thiện nữ nhân này,  đối Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đã thuyết đây, thân, ngữ và tâm đều  chẳng hòa hợp. Do đấy gây tác tăng trưởng, tạo nghiệp ngu si ác huệ. Kia  do gây tác tạo nghiệp tăng trưởng ngu si ác huệ, nên nghe thuyết Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tức thì hủy báng chướng ngại vứt bỏ.  Kia đã hủy báng chướng ngại vứt bỏ Bát nhã Ba la mật đa như thế, thời là  hủy báng chướng ngại nhất thiết tướng trí của chư Phật quá khứ, vị lai,  hiện tại, tức thì gây tác tăng trưởng năng cảm nghiệp thiếu hết chánh  pháp. Kia bởi gây tác tăng trưởng năng cảm nghiệp thiếu hết chánh pháp,  nên đọa đại địa ngục trải qua nhiều năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều  trăm ngàn năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều trăm trăm ức năm,  hoặc nhiều ngàn trăm ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức năm, hoặc  nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm, ở trong đại địa ngục chịu các độc  hại đại khổ dữ dội. Kia vì trọng tội nên ở thế giới đây, từ một đại địa  ngục đến một đại địa ngục cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiến chưa  thoát khỏi, lại phải chịu các độc hại đại khổ dữ dội. Nếu khi thế giới  đây khởi lên hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp, kia vẫn vì chưa hết nghiệp  thiếu chánh pháp, nên chết rồi lại chuyển sanh thế giới phương khác,  cùng đồng loại đây ở trong đại địa ngục trải qua nhiều năm: hoặc nhiều  trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn năm, hoặc nhiều trăm  ức năm, hoặc nhiều trăm trăm ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức năm,  hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm, ở trong đại địa ngục chịu các  độc hại khổ sở dữ dội. Kia vì trọng tội nên ở thế giới khác từ một đại  địa ngục đến một đại địa ngục cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp  chưa khởi trở đi, chịu các độc hại đại khổ dữ dội. Nếu khi thế giới  phương khác kia khởi lên hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp, kia vì vẫn  chưa hết nghiệp thiếu chánh pháp, nên chết rồi chuyển sanh thế giới các  phương khác, cùng đồng loại đây ở trong đại địa ngục trải qua nhiều năm:  hoặc nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn năm,  hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều trăm trăm ức năm, hoặc nhiều ngàn  trăm ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn trăm ngàn trăm ức năm, hoặc nhiều trăm  ngàn trăm ức muôn năm, ở trong các đại địa ngục chịu các độc hại khổ dữ  dội. Kia vì trọng tội nên ở các thế giới phương khác từ một đại địa  ngục cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi trở đi, chịu các  độc hại đại khổ dữ dội. 
Lần lữa như thế, trải qua các thế giới  phương Ðông, ở trong đại địa ngục chịu các độc hại đại khổ dữ dội. Lần  lữa như thế trải qua khắp thế giới phương Nam, ở trong đại địa ngục chịu  các độc hại đại khổ dữ dội. Lần lữa như thế trải qua khắp thế giới  phương Tây, ở trong đại địa ngục chịu các độc hại đại khổ dữ dội. Lần  lữa như thế trải khắp thế giới phương Bắc, ở trong đại địa ngục chịu các  độc hại đại khổ dữ dội. Lần lữa như thế trải các thế giới phương Ðông  bắc, ở trong đại địa ngục chịu các độc hại thọ đại khổ dữ dội. Lần lữa  như thế trải qua khắp các thế giới phương Ðông nam, ở trong đại địa ngục  chịu các độc hại đại khổ dữ dội. Lần lữa như thế trải qua khắp thế giới  phương Tây nam, ở trong đại địa ngục chịu các độc hại đại khổ dữ dội.  Lần lữa như thế trải khắp các thế giới phương Tây bắc, ở trong đại địa  ngục chịu các độc hại đại khổ dữ dội. Lần lữa như thế trải khắp các thế  giới phương Hạ, ở trong đại địa ngục chịu các độc hại đại khổ dữ dội.  Lần lữa như thế trải khắp thế giới phương Thượng, ở trong đại địa ngục  chịu các độc hại đại khổ dữ dội. 
Nếu các thế giới mười phương  kia như hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp khởi lên, kia vì vẫn chưa hết  nghiệp, thiếu chánh pháp, nên chết rồi lại sanh trong đại địa ngục trong  thế giới đây, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục cho đến hỏa  kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi trở đi, chịu các độc hại đại khổ  dữ dội. Nếu khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp thế giới này khởi lên,  kia vì vẫn chưa hết nghiệp thiếu chánh pháp, nên chết rồi sanh các thế  giới khác, trải khắp trong đại địa ngục mười phương chịu các độc hại đại  khổ dữ dội. Luân hồi như thế trải lâu vô số kiếp, kia vì thế lực tội  nghiệp thiếu chánh pháp chánh yếu, từ địa ngục ra đọa vào ác thú, bang  sanh trải lâu nhiều năm: hoặc nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc  nhiều trăm ngàn năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều trăm trăm ức  năm, hoặc nhiều ngàn trăm ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức năm, hoặc  nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm thọ thân bàng sanh, gặp đủ các khổ  tang hại khủng khiếp bức thảy. Vì tội chưa hết nên ở thế giới đây, từ  một chỗ hiểm ác đến một chỗ hiểm ác, cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong  kiếp chưa khởi trở đi, gặp đủ các khổ khủng bức thảy. Nếu khi thế giới  đây bị tam tai phá hoại, kia vì nghiệp thiếu chánh pháp dư thế chưa hết,  nên chết rồi chuyển sanh thế giới phương khác, cùng đồng loại đây ở  trong thú bàng sanh trải lâu nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm cho đến  nhiều trăm ngàn ức muôn ức năm, thọ thân bàng sanh gặp đủ các khổ tàn  hại khủng bức thảy. Vì tội chưa hết, nên ở thế giới khác từ một chỗ hiểm  ác đến một chỗ hiểm ác, cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa  khởi trở đi, gặp đủ các khổ tàn hại khủng bức thảy. Nếu khi thế giới đây  bị tam tai phá hoại, kia vì nghiệp thiếu chánh pháp dư thế chưa hết,  nên chết rồi chuyển sanh thế giới khác phương, cùng đồng loại đây ở  trong thú bàng sanh trải lâu nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm cho đến  nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm thọ thân bàng sanh, gặp đủ thứ khổ  khủng bức thảy. Vì tội chưa hết nên ở thế giới khác, từ một chỗ hiểm ác  đến một chỗ hiểm ác, cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi  trở đi, gặp đủ các khổ khủng bức thảy. Lần lữa như thế trải qua thế giới  mười phương thọ thân bàng sanh, gặp đủ các khổ tàn hại khủng bức thảy.  Nếu các thế giới mười phương kia bị tam tai phá hoại, kia vì nghiệp  thiếu chánh pháp dư thế chưa hết, nên chết rồi sanh lại trong thế giới  đây trong thú bàng sanh, từ một chỗ hiểm ác đến một chỗ hiểm ác, cho đến  hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi trở đi, gặp đủ các khổ tàn  hại khủng bức thảy. Nếu khi thế giới đây bị tam tai pháp hoại, kia vì  nghiệp thiếu chánh pháp dư thế chưa hết, nên chết rồi lại sanh thế giới  khác, trải khắp trong thú bàng sanh mười phương rộng chịu nhiều khổ. 
Xoay  vần như thế trải vô số kiếp, kia vì tội nghiệp thiếu chánh pháp mỏng  dần nên khỏi thú bàng sanh, đọa trong quỷ giới trải lâu nhiều năm: hoặc  nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều  trăm trăm ức năm, hoặc nhiều ngàn trăm ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn trăm  ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm, ở trong quỷ giới chịu  các thứ khổ oán gầy đói khá thảy. Vì tội chưa hết nên ở trong thế giới  đây, từ một nước quỷ đói đến một nước quỷ đói, cho đến hỏa kiếp, thủy  kiếp, phong kiếp chưa khởi trở đi chịu đủ các khổ oán gầy đói khát thảy.  Nếu khi thế giới đây bị tam tai phá hoại, kia vì nghiệp thiếu chánh  pháp dư thế chưa hết, nên chết rồi chuyển sanh thế giới phương khác,  cùng đồng loại đây trong thú quỷ đói trải lâu nhiều năm, hoặc nhiều trăm  năm, hoặc nhiều ngàn năm cho đến hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức  năm, ở trong quỷ giới chịu đủ các khổ oán gầy đói thảy. Vì tội chưa hết  nên ở thế giới khác, kia từ một nước quỷ đói đến một nước quỷ đói, cho  đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi trở đi, chịu đủ các khổ ốm  gầy đói khát thảy. Nếu khi thế giới kia bị tam tai phá hoại, kia vì  nghiệp thiếu chánh pháp dư thế chưa hết, nên chết rồi chuyển sanh thế  giới phương khác, cùng loại đây trong thú quỷ đói trải lâu nhiều năm,  hoặc nhiều trăm năm cho đến hoặc nhiều trăm ngàn trăm ức muôn năm, ở  trong quỷ giới chịu các khổ ốm gầy đói khát thảy. Vì tội chưa hết nên ở  các thế giới kia, từ một nước quỷ đói cho đến một nước quỷ đói, cho đến  hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi trở đi, chịu đủ các khổ ốm gầy  đói khát thảy. Nếu khi các thế giới mười phương kia bị tam tai phá  hoại, kia vì nghiệp thiếu chánh pháp dư thế chưa hết, nên phải chết rồi  lại sanh trong các thế giới đây trong thú quỷ đói, từ một nước quỷ đói  đến một nước quỷ đói, cho đến hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi  trở đi, chịu đủ các khổ ốm gầy đói khát thảy. Nếu thế giới đây bị tam  tai phá hoại, kia vì nghiệp thiếu chánh pháp dư thế chưa hết, nên chết  rồi lại sanh các thế giới kia, trải khắp trong thú quỷ đói mười phương,  rộng chịu nhiều khổ. 
Quanh khắp như thế trải vô số kiếp, kia nhờ  nghiệp thiếu chánh pháp dư thế sắp hết, dù được làm người mà thuộc hạng  hạ tiện. Nghĩa là sanh vào nhà chủ, mù từ bụng mẹ, hoặc nhà hàng thịt,  hoặc nhà gánh thây người, hoặc nhà làm nem thịt, hoặc nhà đánh cá, thợ  săn, hoặc nhà lao công, hoặc nhà mua vui cho người, hoặc nhà tà kiến,  hoặc nhà giữ các ác luật nghi bỉ xỉ lộn xộn; hoặc thọ được thân không  mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không tay, không chân, ung thư,  ghẻ, hủi, phong cuồng, mừng giận bất thường, vai gù, lưng cong, lùn xấu,  tay co, chân khèo, các căn khuyết thiếu, bần cùng khô héo, ngoan khôn  không biết gì cả, hễ làm việc gì người đều khinh tiện; hoặc sanh ở chỗ  chẳng có tên Phật, tên Pháp, tên Tăng, tên Bồ Tát, tên Ðộc giác; hoặc  lại sanh nơi thế giới tối tăm, hằng không ngày đêm chẳng thấy ánh sáng.  Kia vì nghiệp thiếu chánh pháp gây tác tăng trưởng rất sâu nặng, nên  chịu trọn đầy quả báo chẳng khá yên vui như thế thảy. 
Bấy giờ,  Xá Lợi Tử thưa với Phật rằng: Kia vì đã gây tác tăng trưởng năng cảm  nghiệp thiếu chánh pháp, cùng nghiệp ngũ vô gián có thể tương tự chăng? 
Phật  nói: Xá Lợi Tử! Kia nghiệp thiếu chánh pháp rất thô trọng lắm, chẳng  thể đem so nghiệp ngũ vô gián được. Là bởi kia nghe thuyết Bát nhã Ba la  mật đa thẳm sâu, tức liền chẳng tin, bài báng chê thảy. Nói: “Pháp như  thế chẳng phải Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã diễn thuyết, chẳng phải  pháp, chẳng phải luật, chẳng phải đại sư dạy. Chúng ta đối với pháp ấy  chẳng nên tu học”. Người báng pháp này tự báng Bát nhã Ba la mật đa,  cũng dạy vô lượng hữu tình hủy báng, tự hoại thân nó cũng khiến kia tự  hoại, tự uống độc dược cũng khiến kia uống, tự mất quả vui sanh thiên  giải thoát cũng khiến kia mất, tự đem bản thân gieo vào địa ngục lửa  cũng khiến kia gieo vào địa ngục; tự chẳng tin hiểu Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu, cũng khiến người khác chẳng tin hiểu Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu; tự hãm thân mình chìm đắm trong biển khổ, cũng hãm người khác  chìm đắm trong biển khổ. 
Xá Lợi Tử! Ta đối với Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu như thế, hãy chẳng cho kẻ báng chánh pháp kia nghe danh tự  ấy, huống là vì kia mà thuyết. Xá Lợi Tử! Kẻ báng pháp kia, Ta hãy chẳng  bằng lòng các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ Tát thừa nghe danh tự  nó, huống cho mắt thấy, há cho ở chung. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì các kẻ  bài báng Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, phải tự biết danh của kẻ phá  hoại chánh pháp, kia đọa loài tối tăm như loài ốc trâu ô uế, tự ô và ô  kẻ khác, như đống phân rác hôi thúi. Nếu có tín dụng lời nói kẻ pháp  pháp, cũng chịu đại khổ như trước đã thuyết. Xá Lợi Tử! Các kẻ phá hoại  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu kia, phải biết loại kia tức là địa ngục,  bàng sanh, ngạ quỷ. Vậy nên kẻ trí chẳng nên hủy báng Bát nhã Ba la mật  đa thẳm sâu. 
Khi ấy, Xá Lợi Tử thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn!  Vì duyên nào chỉ nói kẻ phá chánh pháp như thế, đọa đại địa ngục, bàng  sanh, ngạ quỷ chịu khổ trường thời, mà chẳng nói đến hình mạo thân lượng  của kẻ kia? 
Phật nói: Xá Lợi Tử! Thôi, chẳng cần nói hình lượng  của kẻ phá chánh pháp đời sau phải thọ ác thú. Sở vì sao? Vì nếu Ta nói  đủ hình lượng của kẻ phá chánh pháp đời sau phải thọ nơi ác thú, kia  nghe sẽ kinh bố và mửa máu nóng, bèn gây mất mạng hoặc khổ gần chết,  trong tâm buồn rầu như trúng tên độc, thân khổ héo dần như lúa mạ bị  đứt. Sợ kia nghe nói khổ thân rất xấu xí mà kẻ báng chánh pháp sẽ chịu  như thế, luống tự kinh hoàng, tán thân mất mạng. Ta thương xót kia, nên  chẳng vì ngươi nói hình mạo thân lượng kẻ phá chánh pháp. Xá Lợi Tử nói:  Cúi xin Phật nói hình lượng của kẻ phá chánh pháp đời sau phải chịu nơi  ác thú, để làm lời răn giới minh bảo đời sau, cho biết phá pháp bị đại  khổ báo chẳng dám gây nên tội ấy. Phật nói: Xá Lợi Tử! Ta trước đã nói  đủ làm minh giới rõ ràng. Nghĩa là đời vị lai, các thiện nam tử thiện nữ  nhân thảy, nghe Ta đã nói nghiệp của kẻ phá chánh pháp gây tác tăng  trưởng rất tròn đầy, đọa đại địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, ở trong mỗi  mỗi thú chịu khổ trường thời; đủ tự cẩn thận giữ gìn chẳng hủy chánh  pháp. 
Khi ấy, Xá Lợi Tử liền thưa với Phật rằng: “Dạ, bạch Thế  Tôn! Dạ, bạch Thiện Thệ! Các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy là kẻ tịnh  tín đời sau, nghe Phật trước nói nghiệp phá chánh pháp cảm khổ trường  thời đủ làm minh giới, thà bỏ thân mạng quyết chẳng báng pháp, ta khỏi  phải chịu khổ ấy ở đời vị lai.” 
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại  thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân kia  thảy thông minh, nghe Phật đã nói kẻ báng chánh pháp ở đời vị lai chịu  lâu đại khổ, nên khéo gìn giữ nghiệp thân ngữ ý, chớ đối chánh pháp bài  báng hủy hoại, đọa ba ác thú trường thời chịu khổ; ở thời gian lâu xa  chẳng thấy chư Phật, chẳng nghe Chánh pháp, chẳng gặp Tăng bảo, sanh thú  người mà hạ tiện bần cùng, xấu xí ngu dại, thân căn chẳng đủ, có nói  lời gì người chẳng tin chịu. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa với Thế Tôn  rằng: Gây tác tăng trưởng cảm nghiệp thiếu chánh pháp, lẽ đâu chẳng bởi  tập ác ngữ nghiệp ư? 
Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy.  Thật do thói quen ác ngữ nghiệp, nên gây tác tăng trưởng cảm nghiệp  thiếu chánh pháp. Ở trong chánh pháp Luật Tạng Ta đã nói, sẽ có kẻ ngu  si làm các hàng xuất gia, kia dù tôn xưng Ta lấy làm Ðại sư, mà đối Ta  nói Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bài báng hủy hoại. Thiện Hiện phải  biết, nếu có báng hủy Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thời là báng hủy  chư Phật Vô thượng Chánh đẳng bồ đề. Nếu có báng hủy chư Phật Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề, thời là báng hủy Nhất thiết tướng trí thời là hủy báng  Phật. Nếu có báng hủy Phật, thời là báng hủy Pháp. Nếu có báng hủy  Pháp, thời là báng hủy Tăng. Nếu có báng hủy Tăng, thời là sẽ báng hủy  thế gian chánh kiến. Nếu sẽ báng hủy thế gian chánh kiến, thời sẽ báng  hủy bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật  đa. Cũng sẽ báng hủy nội không, ngoại không, nội ngoại không, không  không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh  không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự  tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,  vô tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không,  bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không. Cũng sẽ báng hủy chơn  như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biết dị tánh, bình đẳng  tánh, ly sanh tánh, phát định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư  nghì giới. Cũng sẽ báng hủy khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế,  đạo thánh đế. Cũng sẽ báng hủy bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc  định. Cũng sẽ báng hủy tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ. Cũng sẽ báng hủy bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần  túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Cũng sẽ  báng hủy không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải  thoát môn. Cũng sẽ báng hủy năm nhãn, sáu thần thông. Cũng sẽ báng hủy  Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,  đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng sẽ báng hủy pháp vô vong thất,  tánh hằng trụ xả. Cũng sẽ báng hủy nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí. Cũng báng hủy tất cả đà la ni môn, tất cả tam na địa  môn. Kia do báng hủy các đống công đức, thời là thâu nhận vô số vô lượng  vô biên đống tội, thời là thâu nhận vô số vô biên đống tội. Do kia thu  nhận vô số vô lượng vô biên đống tội, thời là thâu nhận vôsố vô lượng vô  biên đống khổ, trọn trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và thú người. 
Khi  ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: bạch Thế Tôn! Các người ngu  si do mấy nhân duyên nên báng hủy Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế?  
Phật nói: Thiện Hiện! Do bốn nhân duyên. Những gì là bốn? Một  là bị các gió tà ma thổi làm mê hoặc, nên khiến kẻ ngu si báng hủy Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế. Hai là đối với pháp thẳm sâu chẳng  tin hiểu, nên khiến kẻ ngu si báng hủy Ba la mật đa thẳm sâu như thế. Ba  là chẳng siêng tinh tấn, đắm chấp năm uẩn, bị các tri thức thu nhận,  nên khiến kẻ ngu si báng hủy Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế. Bốn  là nhiều ôm giận dữ, ưa làm ác pháp, vui tự cao cử, khinh hủy kẻ khác,  nên khiến kẻ ngu si báng hủy Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu như thế.  Thiện Hiện! Do bốn nhân duyên như thế, nên khiến kẻ ngu si báng hủy Bát  nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế.
