Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi Độc giác pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Độc giác hướng Độc giác quả  pháp tánh; chẳng nên cầu rời Độc giác pháp tánh; chẳng nên cầu rời Độc  giác hướng Độc giác quả pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc Độc giác pháp  tánh, hoặc Độc giác hướng Độc giác quả pháp tánh; hoặc rời Độc giác pháp  tánh, hoặc rời Độc giác hướng Độc giác quả pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha  tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế chẳng tương ưng  chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến  chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi  vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng Độc giác pháp tánh, chẳng Độc giác hướng Độc giác quả  pháp tánh; chẳng rời Độc giác pháp tánh, chẳng rời Độc giác hướng Độc  giác quả pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu  chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Độc giác pháp tánh, chẳng Độc giác  hướng Độc giác quả pháp tánh; chẳng rời Độc giác pháp tánh, chẳng rời  Độc giác hướng Độc giác quả pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Độc giác pháp tánh, chẳng nên  cầu nơi Độc giác hướng Độc giác quả pháp tánh; chẳng nên cầu rời Độc  giác pháp tánh, chẳng nên cầu rời Độc giác hướng Độc giác quả pháp tánh.
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Tam miệu tam Phật đà  pháp tánh; chẳng nên cầu rời Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng nên cầu  rời Tam miệu tam Phật đà pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc Bồ tát Ma ha tát  pháp tánh, hoặc Tam miệu tam Phật đà pháp tánh; hoặc rời Bồ tát Ma ha  tát pháp tánh, hoặc rời Tam miệu tam Phật đà pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma  ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế chẳng tương  ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu  kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ  gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng Tam miệu tam Phật  đà pháp tánh; chẳng rời Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng rời Tam miệu  tam Phật đà pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở  hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng  Tam miệu tam Phật đà pháp tánh; chẳng rời Bồ tát Ma ha tát pháp tánh,  chẳng rời Tam miệu tam Phật đà pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Bồ tát Ma ha tát pháp tánh,  chẳng nên cầu nơi Tam miệu tam Phật đà pháp tánh; chẳng nên cầu rời Bồ  tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng nên cầu rời Tam miệu tam Phật đà pháp  tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng nên cầu nơi pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh; chẳng nên cầu rời pháp Bồ tát Ma ha  tát pháp tánh, chẳng nên cầu rời Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh.  Sở vì sao? Vì hoặc pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, hoặc Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề pháp tánh; hoặc rời pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, hoặc  rời Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc  Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế chẳng tương ưng chẳng phải  chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô  kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng.  Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề  pháp tánh; chẳng rời pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng rời Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là  tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng pháp Bồ tát Ma ha tát pháp  tánh, chẳng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh; chẳng rời pháp Bồ tát  Ma ha tát pháp tánh, chẳng rời Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh.  Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi  pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề pháp tánh; chẳng nên cầu rời pháp Bồ tát Ma ha tát pháp tánh,  chẳng nên cầu rời Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề pháp tánh. 
Kiều Thi  Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi  Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Độc giác thừa, Vô thượng  thừa pháp tánh; chẳng nên cầu rời Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng nên  cầu rời Độc giác thừa, Vô thượng thừa pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc  Thanh văn thừa pháp tánh, hoặc Độc giác thừa, Vô thượng thừa pháp tánh;  hoặc rời Thanh văn thừa pháp tánh, hoặc rời Độc giác thừa, Vô thượng  thừa pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu  cầu tất cả như thế chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu  sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô  đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Thanh văn thừa pháp  tánh, chẳng Độc giác thừa, Vô thượng thừa pháp tánh; chẳng rời Thanh văn  thừa pháp tánh, chẳng rời Độc giác thừa, Vô thượng thừa pháp tánh. Sở  vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô  sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng Độc giác thừa, Vô thượng thừa  pháp tánh; chẳng rời Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng rời Độc giác thừa,  Vô thượng thừa pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng nên cầu nơi Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  Độc giác thừa, Vô thượng thừa pháp tánh; chẳng nên cầu rời Thanh văn  thừa pháp tánh, chẳng nên cầu rời Độc giác thừa, Vô thượng thừa pháp  tánh.
Bấy  giờ, Thiên Đế Thích bạch Thiện Hiện rằng: Thưa Đại đức! Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, đây là đại Ba la mật đa, đây là vô  lượng Ba la mật đa, đây là vô biên Ba la mật đa. Các kẻ Dự lưu học ở  trong đây được quả Dự lưu. Các kẻ Nhất lai học ở trong đây được quả Nhất  lai. Các kẻ Bất hoàn học ở trong đây được quả Bất hoàn. Các kẻ A la hán  học ở trong đây được quả A la hán. Các kẻ Độc giác học ở trong đây được  Độc giác Bồ đề. Các Bồ tát Ma ha tát học ở trong đây, năng thành thục  hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!
Thiện  Hiện bảo rằng: Như vậy, như vậy. Như lời ngươi vừa nói. Kiều Thi Ca! Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, đấy là đại Ba la mật đa,  đấy là vô lượng Ba la mật đa, đấy là vô biên Ba la mật đa. Kiều Thi Ca!  Hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, các kẻ Dự lưu học ở trong đây  được quả Dự lưu. Các kẻ Nhất lai học ở trong đây được quả Nhất lai. Các  kẻ Bất hoàn học ở trong đây được quả Bất hoàn. Các kẻ A la hán học ở  trong đây được quả A la hán. Các kẻ Độc giác học ở trong đây được Độc  giác Bồ đề. Các Bồ tát Ma ha tát học ở trong đây, năng thành thục hữu  tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!
Kiều  Thi Ca! Sắc đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  đại. Thọ tưởng hành thức đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì sắc uẩn thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Nhãn xứ đại,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Nhĩ tỷ thiệt  thân ý xứ đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  đại. Sở vì sao? Vì nhãn xứ thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được,  nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Sắc xứ đại, nên Bồ tát Ma  ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Thanh hương vị xúc pháp xứ  đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì  sao? Vì sắc xứ thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là  đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng  nói là đại.
Kiều Thi Ca! Nhãn giới đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn  xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì nhãn giới thảy, ngằn  trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều  Thi Ca! Nhĩ giới đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh  ra các thọ đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  đại. Sở vì sao? Vì nhĩ giới thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá  được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Tỷ giới đại, nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Hương giới, tỷ thức  giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ đại, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì tỷ giới thảy,  ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều  Thi Ca! Thiệt giới đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa cũng đại. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên  sanh ra các thọ đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Sở vì sao? Vì thiệt giới thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng  khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Thân giới đại,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Xúc giới,  thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ đại, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì  thân giới thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại.  Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói  là đại.
Kiều Thi Ca! Ý giới đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa cũng đại. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm  duyên sanh ra các thọ đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì ý giới thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Địa giới đại,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Thủy hỏa  phong không thức giới đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì địa giới thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Khổ thánh đế  đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Tập  diệt đạo thánh đế đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Sở vì sao? Vì khổ thánh đế thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Vô minh đại,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Hành, thức,  danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu  não đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở  vì sao? Vì vô minh thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói  là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Nội không đại, nên Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Ngoại không, nội ngoại không,  không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không,  tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh  không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả  đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không đại, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì  nhãn giới thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại.  Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói  là đại.
Kiều Thi Ca! Chơn như đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,  bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ,  thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì chơn như thảy, ngằn  trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều  Thi Ca! Bố thí Ba la mật đa đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng đại. Tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la  mật đa đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại.  Sở vì sao? Vì bố thí Ba la mật đa thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng  khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Bốn tĩnh lự đại,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Bốn vô  lượng, bốn vô sắc định đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì bốn tĩnh lự thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Tám giải  thoát đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại.  Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám  thánh đạo chi đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Sở vì sao? Vì tám giải thoát thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Bốn niệm trụ  đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Bốn  chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh  đạo chi đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  đại. Sở vì sao? Vì bốn niệm trụ thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá  được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Không giải thoát môn  đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Vô  tướng, vô nguyện giải thoát môn đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì không giải thoát môn thảy, ngằn  trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều  Thi Ca! Năm nhãn đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Sáu thần thông đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì năm nhãn thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Phật mười  lực đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Bốn  vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám  pháp Phật bất cộng đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa cũng đại. Sở vì sao? Vì Phật mười lực thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Pháp vô vong  thất đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại.  Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ  đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì  sao? Vì pháp vô vong thất thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được,  nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Nhất thiết trí đại, nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Sở vì sao? Vì nhất thiết trí thảy, ngằn trước giữa sau đều  chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Tất cả đà la  ni môn đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại.  Tất cả tam ma địa môn đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì tất cả đà la ni môn thảy, ngằn trước giữa  sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Dự  lưu đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại.  Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì Dự lưu thảy, ngằn trước giữa sau  đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Dự lưu  hướng Dự lưu quả đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Nhất Lai hướng Nhất Lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la  hán hướng A la hán quả đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì Dự lưu hướng Dự lưu quả thảy, ngằn trước  giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca!  Độc giác đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  đại. Độc giác hướng Độc giác quả đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì Độc giác thảy, ngằn trước giữa  sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca! Bồ  tát Ma ha tát đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng đại. Tam miệu tam Phật đà đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát thảy, ngằn trước  giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều Thi Ca!  Pháp Bồ tát Ma ha tát đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì pháp Bồ tát Ma ha tát  thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó  đại nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều  Thi Ca! Thanh văn thừa đại, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng đại. Độc giác thừa, Vô thượng thừa đại, nên Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại. Sở vì sao? Vì Thanh văn thừa  thảy, ngằn trước giữa sau đều chẳng khá được, nên nói là đại. Bởi nó đại  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng nói là đại.
Kiều  Thi Ca! Bởi duyên cớ này nên tôi tác lên thuyết là: Sắc thảy đại, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng đại.
Kiều Thi  Ca! Sắc vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  vô lượng. Thọ tưởng hành thức vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng sắc uẩn thảy  chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không  chẳng khá được, lượng sắc uẩn thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều  Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên sắc uẩn thảy cũng vô lượng. Vì sắc uẩn  thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  vô lượng.
Kiều Thi Ca! Nhãn xứ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.  Sở vì sao? Vì lượng nhãn xứ thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều  Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng nhãn xứ thảy cũng  như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên nhãn xứ  thảy cũng vô lượng. Nhãn xứ thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Sắc xứ vô lượng,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Thanh  hương vị xúc pháp xứ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng sắc xứ thảy chẳng khá được,  nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được,  lượng sắc xứ thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không  vô lượng, nên sắc xứ thảy cũng vô lượng. Sắc xứ thảy vô lượng, nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Nhãn giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô lượng. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm  duyên sinh ra các thọ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng nhãn giới thảy chẳng khá  được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá  được, lượng nhãn giới thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì  hư không vô lượng, nên nhãn giới thảy cũng vô lượng. Nhãn giới thảy vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Nhĩ giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô lượng. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm  duyên sanh ra các thọ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng nhĩ giới thảy chẳng khá  được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá  được, lượng nhĩ giới thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì  hư không vô lượng, nên nhĩ giới thảy cũng vô lượng. Nhĩ giới thảy vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Tỷ giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô lượng. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm  duyên sanh ra các thọ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng tỷ giới thảy chẳng khá  được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá  được, lượng tỷ giới thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì  hư không vô lượng, nên tỷ giới thảy cũng vô lượng. Tỷ giới thảy vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Thiệt giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô lượng. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc  làm duyên sanh ra các thọ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng thiệt giới thảy chẳng  khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng  khá được, lượng thiệt giới thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi  Ca! Vì hư không vô lượng, nên thiệt giới thảy cũng vô lượng. Thiệt giới  thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô  lượng.
Kiều Thi Ca! Thân giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Xúc giới, thân thức giới và  thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng thân  giới thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng  hư không chẳng khá được, lượng thân giới thảy cũng như thế, chẳng khá  được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên thân giới thảy cũng vô  lượng. Thân giới thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Ý giới vô lượng, nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Pháp giới, ý thức  giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô lượng, nên Bồ tát Ma  ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng ý  giới thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng  hư không chẳng khá được, lượng ý giới thảy cũng như thế, chẳng khá được.  Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên ý giới thảy cũng vô lượng. Ý  giới thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Địa giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Thủy hỏa phong không  thức giới vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng địa giới thảy chẳng khá được, nên nói  vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng địa  giới thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô  lượng, nên địa giới thảy cũng vô lượng. Địa giới thảy vô lượng, nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Khổ thánh đế vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Tập diệt đạo thánh đế vô lượng, nên Bồ tát Ma  ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng  khổ thánh đế thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như  lượng hư không chẳng khá được, lượng khổ thánh đế thảy cũng như thế,  chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên khổ thánh đế thảy  cũng vô lượng. Khổ thánh đế thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vô minh vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.  Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu  thán khổ ưu não vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng vô minh thảy chẳng khá được, nên  nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng  vô minh thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô  lượng, nên vô minh thảy cũng vô lượng. Vô minh thảy vô lượng, nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều Thi  Ca! Nội không vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa cũng vô lượng. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,  thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế  không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng  tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,  tự tánh không, vô tánh tự tánh không vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng nội không  thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư  không chẳng khá được, lượng nội không thảy cũng như thế, chẳng khá được.  Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên nội không thảy cũng vô lượng.  Nội không thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Chơn như vô lượng, nên Bồ tát Ma  ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Pháp giới, pháp tánh,  bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới vô lượng, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao?  Vì lượng chơn như thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca!  Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng chơn như thảy cũng như thế,  chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên chơn như thảy  cũng vô lượng. Chơn như thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Bố thí Ba la mật đa  vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô  lượng. Tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.  Sở vì sao? Vì lượng bố thí Ba la mật đa thảy chẳng khá được, nên nói vô  lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng bố thí  Ba la mật đa thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không  vô lượng, nên bố thí Ba la mật đa thảy cũng vô lượng. Bố thí Ba la mật  đa thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  vô lượng.
Kiều Thi Ca! Bốn tĩnh lự vô lượng, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Bốn vô lượng, bốn vô sắc  định vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng  vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng bốn tĩnh lự thảy chẳng khá được, nên nói  vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng bốn  tĩnh lự thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô  lượng, nên bốn tĩnh lự thảy cũng vô lượng. Bốn tĩnh lự thảy vô lượng,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Tám giải thoát vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa cũng vô lượng. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô  lượng. Sở vì sao? Vì lượng tám giải thoát thảy chẳng khá được, nên nói  vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng tám  giải thoát thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không  vô lượng, nên tám giải thoát thảy cũng vô lượng. Tám giải thoát thảy vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Bốn niệm trụ vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,  bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng bốn niệm  trụ thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư  không chẳng khá được, lượng bốn niệm trụ thảy cũng như thế, chẳng khá  được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên bốn niệm trụ thảy cũng vô  lượng. Bốn niệm trụ thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Không giải thoát môn vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.  Vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng không giải  thoát môn thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như  lượng hư không chẳng khá được, lượng không giải thoát môn thảy cũng như  thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên không giải  thoát môn thảy cũng vô lượng. Không giải thoát môn thảy vô lượng, nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Năm nhãn vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa cũng vô lượng. Sáu thần thông vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng năm nhãn  thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư  không chẳng khá được, lượng năm nhãn thảy cũng như thế, chẳng khá được.  Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên năm nhãn thảy cũng vô lượng. Năm  nhãn thảy vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa  cũng vô lượng.
Kiều Thi Ca! Phật mười lực vô lượng, nên Bồ tát Ma  ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Bốn vô sở uý, bốn vô  ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng  vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô  lượng. Sở vì sao? Vì lượng Phật mười lực thảy chẳng khá được, nên nói vô  lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng Phật  mười lực thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô  lượng, nên Phật mười lực thảy cũng vô lượng. Phật mười lực thảy vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Pháp vô vong thất vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Tánh hằng trụ xả vô lượng, nên Bồ tát Ma  ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì lượng  pháp vô vong thất thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca!  Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng pháp vô vong thất thảy cũng  như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng, nên pháp vô  vong thất thảy cũng vô lượng. Pháp vô vong thất thảy vô lượng, nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Nhất thiết trí vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa cũng vô lượng. Đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô lượng,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì  sao? Vì lượng nhất thiết trí thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều  Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng nhất thiết trí  thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng,  nên nhất thiết trí thảy cũng vô lượng. Nhất thiết trí thảy vô lượng, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Kiều  Thi Ca! Tất cả đà la ni môn vô lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Tất cả tam ma địa môn vô lượng, nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Sở vì sao? Vì  lượng tất cả đà la ni môn thảy chẳng khá được, nên nói vô lượng. Kiều  Thi Ca! Thí như lượng hư không chẳng khá được, lượng tất cả đà la ni môn  thảy cũng như thế, chẳng khá được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng,  nên tất cả đà la ni môn thảy cũng vô lượng. Tất cả đà la ni môn thảy vô  lượng, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
