Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả  pháp đều lấy vô tánh mà làm tự tánh; vô tánh như thế chẳng chư Phật làm,  chẳng Ðộc giác làm, chẳng Bồ Tát làm, chẳng Thanh Văn làm, cũng chẳng  những kẻ trụ quả hành hướng làm. Làm sao thi thiết các pháp có khác,  rằng đây là địa ngục, đây làm bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là người,  đây là trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại, đây là trời  Phạm chúng cho đến trời sắc cứu cánh, đây là trời Không vô biên xứ cho  đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây  là Bất hoàn, đây là A la hán, đây là Ðộc giác, đây là Bồ Tát, đây là  Như Lai. Do nghiệp đây nên thi thiết địa ngục, do nghiệp đây nên thi  thiết bàng sanh, do nghiệp đây nên thi thiết quỷ giới. Do nghiệp đây nên  thi thiết người, do nghiệp đây nên thi thiết trời Bốn đại vương chúng  cho đến trời Tha hóa tự tại, do nghiệp đây nên thi thiết trời Phạm chúng  cho đến trời Sắc cứu cánh. Do nghiệp đây nên thi thiết trời Không vô  biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do pháp đây nên thi  thiết Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, do pháp đây nên thi thiết A la hán, do  pháp đây nên thi thiết Ðộc giác, do pháp đây nên thi thiết Bồ Tát, do  pháp đây nên thi thiết Như Lai?
Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh định  không tác dụng, làm sao nói được do nghiệp như thế sanh bành sanh, do  nghiệp như thế sanh quỷ giới, do nghiệp như thế sanh nơi trong người. Do  nghiệp như thế nên sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa  tự tại, do nghiệp như thế nên sanh trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu  cánh, do nghiệp như thế nên sanh trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi  tưởng phi phi tưởng xứ. Do pháp như thế được quả Dự lưu, do pháp như thế  được quả Nhất lai, do pháp như thế được quả Bất hoàn, do pháp như thế  được quả A la hán, do pháp như thế được Ðộc giác Bồ đề, do pháp như thế  được Nhất thiết tướng trí gọi Phật Thế Tôn, khiến các hữu tình giải  thoát sanh tử?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi  đã nói. Trong pháp vô tánh chẳng thể thi thiết các pháp có khác, không  nghiệp không quả, cũng không tác dụng. Nhưng các ngu phu chẳng rõ Thánh  pháp Tỳ nại da, nên chẳng như thật biết các pháp đều lấy vô tánh làm  tánh, ngu si điên đảo, phát khởi nhiều thứ nghiệp thân ngữ ý, theo  nghiệp sai khác chịu các thứ thân. Nương phẩm loại sai khác của thân như  thế, thi thiết địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, hoặc người, hoặc trời cho  đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vì muốn cứu vớt những đứa ngu như thế,  ngu si điên đảo chịu khổ sanh tử, nên thi thiết Thánh pháp và Tỳ nại da  phận sự sai khác. Nương phận vị đây thi thiết Dự lưu cho đến Ðộc giác,  Bồ Tát, Như Lai, nhưng tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Trong  pháp vô tánh thật không có pháp khác, không nghiệp, không quả cũng không  tác dụng, pháp vô tánh thường vô tánh vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện!  Như ngươi đã nói pháp vô tánh định không tác dụng, làm sao nói được do  pháp như thế được quả Dự lưu, nói rộng cho đến do pháp như thế được Nhất  thiết trí gọi Phật Thế Tôn, khiến các hữu tình thoát sanh tử ấy. Nơi ý  hiểu sao? Các sở tu đạo là vô tánh chăng? Các quả Dự lưu, quả Nhất lai,  Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác Bồ đề và đạo Bồ Tát, Nhất thiết tướng trí  là vô tánh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy. Các sở tu đạo nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí đều là vô tánh.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp vô tánh vì năng được pháp vô tánh  chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được.
Phật bảo:  Thiện Hiện! Vô tánh và đạo tất cả pháp này đều chẳng tương ưng, chẳng  phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô  tướng. Ngu phu dị sanh ngu si điên đảo, với pháp vô tướng khởi tưởng có  pháp, chấp đắm năm uẩn, với trong vô thường khởi tưởng là thường, với  trong các khổ khởi tưởng là vui, với trong vô ngã khởi tưởng là ngã, với  trong bất tịnh khởi tưởng là tịnh, với pháp vô tánh chấp đắm hữu tình.  Do đây chúng Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, phương  tiện khéo léo cứu vớt các loại hữu tình như thế khiến lìa điên đảo hư  vọng phân biệt, phương tiện an để trong pháp vô tướng, khiến siêng tu  học giải thoát sanh tử, chứng được Niết Bàn thường vui rốt ráo.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Việc sở chấp đắm của ngu phu dị sanh  và có chơn thật mà chẳng hư vọng, kia chấp đắm rồi tạo tác các nghiệp,  bởi nhân duyên này chìm đắm các thú, chẳng được thoát khổ sanh tử chăng?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Việc sở chấp đắm của ngu phu dị sanh cho đến không có  chừng hư đầu lông nhỏ khá nói chơn thật mà chẳng hư vọng, kia chấp đắm  rồi tạo tác các nghiệp. Bởi nhân duyên này chìm đắm các thú, chẳng giải  thoát các khổ sanh tử được, duy có hư vọng điên đảo chấp đắm. Ta nay vì  ngươi rộng nói thí dụ rõ lại nghĩa đây khiến cho dễ hiểu. Các kẻ có trí  nhờ các thí dụ dối nghĩa đã nói năng sanh chính hiểu.
Thiện Hiện!  Nơi ý hiểu sao? Trong mộng thấy người hưởng vui năm dục, trong mộng vả  có chút phần thật sự khá khiến người kia hưởng dục vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Mộng sở thấy người hãy chẳng thật có, huống chi thật sự khá khiến người kia hưởng vui năm dục.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Vả có các pháp hoặc thiện hoặc phi  thiện, hoặc hữu ký hoặc vô ký, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian  hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô vi, chẳng phải như việc trong  mộng đã thấy chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Quyết định không có  pháp hoặc thiện hoặc phi thiện, hoặc hữu ký hoặc vô ký, hoặc hữu lậu  hoặc vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô vi,  chẳng phải việc như trong mộng đã thấy ấy.
Phật bảo: Thiện Hiện!  Nơi ý hiểu sao? Trong mộng vả có các thú chơn thật việc ở trong qua lại  sanh tử chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Trong mộng vả có chơn thật tu đạo,  nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện  Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Sở vì sao? Pháp mộng đã thấy  đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo hãy  không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Trong gương sáng thảy hiện ra các  tượng vì có thật sự khá nương gây nghiệp, bởi đã gây nghiệp hoặc đọa địa  ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ giới, hoặc sanh trong người,  hoặc sanh trên trời hưởng khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:  Trong gương sáng thảy hiện ra các tượng đều không thật sự, chỉ gạt trẻ  ngu, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác  thú, hoặc sanh người trời hưởng các khổ vui.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Các tượng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện  Hiện thưa rằng: Trong gương sáng thảy đều không thật sự, chẳng năng thi  thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo hãy không , huống nương tu đạo có lìa  tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu  sao? Trong hang núi thảy phát ra các vang, vì có thật sự khá nương gây  nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa địa ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc  đọa quỷ giới, hoặc sanh trong người, hoặc sanh trên trời hưởng khổ vui  chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Trong hang núi thảy phát ra các vang  đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các  nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời hưởng  các khổ vui.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Các vang vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện  Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật . Sở vì sao? Vang hang núi  thảy đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo  hãy không , huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Trong các ánh nắng hiện tợ nước thảy,  vì có thật sự khá nương gây nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa địa ngục,  hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ giới hoặc sanh trong người, hoặc sanh  trên trời hưởng khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Trong các  ánh nắng hiện ra nước thảy đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao  khá nương gây làm các nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc  sanh người trời hưởng các khổ vui.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý  hiểu sao? Nước thảy trong các ánh nắng vả có chơn thật tu đạo, nương tu  đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa  rằng: bạch Thế Tôn! Chẳng thật . Sở vì sao? Nước thảy ánh nắng đều không  thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo hãy không,  huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo  Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Trong các bóng sáng hiện ra sắc tướng, vì có  thật sự khá nương gây nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa địa ngục, hoặc  đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ gìới, hoặc sanh trong người, hoặc sanh trên  trời hưởng khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Trong các bóng  sáng hiện ra sắc tướng đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá  nương gây làm các nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh  người trời hưởng các khổ vui.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu  sao? Sắc tướng trong các bóng sáng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo  kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:  Bạch Thế Tôn! Chẳng thật . Sở vì sao? Sắc tướng bóng sáng đều không  thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo hãy không ,  huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:  Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Thấy huyễn huyễn làm voi ngựa, xe cộ, bốn  thứ dũng quân, hoặc lại huyễn làm trâu dê, nam nữ và các việc lạ rất  hiếm có. Voi huyễn thảy đây vì có thật sự khá nương gây nghiệp, bởi  nghiệp đã gây hoặc đọa địa ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ giới,  hoặc sanh trong người, hoặc sanh trên trời hưởng khổ vui chăng?
Thiện  Hiện thưa rằng: Voi ngựa huyễn thảy đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu,  làm sao khá nương gây làm các nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác  thú, hoặc sanh trời người hưởng các khổ vui.
Phật bảo: Thiện  Hiện! Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo  kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:  Bạch Thế Tôn! Chẳng thật . Sở vì sao? Voi ngựa huyễn thảy đều không  thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo hãy không ,  huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:  Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Kẻ năng biến hóa, hoá ra làm thân, thân đã  hóa này vì có thật sự khá nương gây nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa  địa ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ giới, hoặc sanh trong người,  hoặc sanh trên trời được hưởng khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa  rằng: Các thân biến hóa đều không thật sự, làm sao khá nương gây làm các  nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời hưởng  các khổ vui.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiêủ sao? Hóa thân vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện  Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật . Sở vì sao? Các thân biến hóa  đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết, tu đạo hãy  không , huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Trong thành tấm hương hiện ra vật  loại, vì có thật sự khá nương gây nghiệp, bởi nghiệp đã gây, hoặc đọa  địa ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ giới, hoặc sanh trong người,  hoặc sanh trên trời hưởng khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:  Trong thành tầm hương hiện ra vật loại đều không thật sự, làm sao khá  nương gây làm các nghiệp, bởi nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh  người trời hưởng các khổ vui.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu  sao: Vật loại trong thành tầm hương vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo  kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa  rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật . Sở vì sao? Vật loại hiện ra trong thành  tầm hương đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết,  tu đạo hãy không , huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh  tịnh.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Trong đây vả có kẻ thật tạp nhiễm, kẻ thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Trong đây không thật kẻ tạp nhiễm và kẻ thanh tịnh.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Như kẻ tạp nhiễm và kẻ thanh tịnh thật vô sở hữu. Do  nhân duyên đây, tạp nhiễm thanh tịnh cũng chẳng thật có. Sở dĩ vì sao?  Các loại hữu tình trụ ngã ngã sở, hư dối phân biệt bảo có kẻ tạp nhiễm  và thanh tịnh. Do nhân duyên đây bảo có tạp nhiễm thanh tịnh. Chẳng phải  thâý thật ấy bảo có kẻ tạp nhiễm và kẻ thanh tịnh. Như thật thấy ấy,  biết không kẻ tạp nhiễm và kẻ thanh tịnh. Như vậy cũng không tạp nhiễm  thanh tịnh thật sự khá được, vì tất cả pháp rốt ráo không vậy.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các kẻ thấy  thật đã không tạp nhiễm và không thanh tịnh, kẻ chẳng thấy thật cũng  không tạp nhiễm và không thanh tịnh . Sở vì sao? Vì tất cả pháp vô sở  hữu vậy.
Bạch Thế Tôn! Các kẻ nói thật đã không tạp nhiễm và  không thanh tịnh, kẻ chẳng nói thật cũng không tạp nhiễm và không thanh  tịnh . Sở vì sao? Vì tất cả pháp không tự tánh vậy.
Bạch Thế Tôn!  Pháp không tự tánh đã không tạp nhiễm và không thanh tịnh. Pháp có tự  tánh cũng không tạp nhiễm và không thanh tịnh. Các pháp có tự tánh và  không tự tánh cũng không tạp nhiễm và không thanh tịnh . Sở vì sao? Vì  tất cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu  kẻ thấy thật và kẻ nói thật không nhiễm không tịnh; kẻ chẳng thấy thật,  kẻ chẳng nói thật cũng không tạp nhiễm, Thế Tôn vì sao có lúc nói có  pháp thanh tịnh ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Ta nói tất cả pháp tánh bình đẳng là pháp thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao gọi tất cả pháp tánh bình đẳng?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư  dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định,  pháp trụ, thật tế, cõi hư không, cõi bất tư nghì, nếu Phật ra đời hoặc  chẳng ra đời, tánh tướng thường trú. Ðấy gọi tất cả các pháp tánh bình  đẳng. Tánh bình đẳng đây gọi pháp thanh tịnh. Ðây nương thế tục nói là  thanh tịnh, chẳng nương thắng nghĩa . Sở vì sao? Trong thắng nghĩa đế đã  không phân biệt, cũng không hý luận, tất cả danh tự dứt đường ngôn ngữ.
cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp như mộng, tượng,  vang, nắng, sáng, huyễn hóa và thành tầm hương, tuy hiện tợ có mà không  thật sự. Các Bồ Tát Ma ha tát làm sao nương pháp chẳng thật có đây, pháp  tâm tới Vô thượng Chánh đẳng gíc, tác lời thệ này: Ta sẽ viên mãn bố  thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Ta sẽ viên mãn thù thắng  thần thông Ba la mật đa. Ta sẽ viên mãn phương tiện thiện xảo, diệu  nguyện, lực, trí Ba la mật đa. Ta sẽ viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,  bốn vô sắc định. Ta sẽ viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.  Ta sẽ viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Ta sẽ viên  mãn tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Ta sẽ viên mãn nội không cho  đến vô tánh tự tánh không. Ta sẽ viên mãn chơn như cho đến bất tư nghì  giới. Ta sẽ viên mãn khổ tập diệt đạo thánh đế. Ta sẽ viên mãn Cực hỷ  địa cho đến Pháp vân địa. Ta sẽ viên mãn tất cả đà la ni môn, tam ma địa  môn. Ta sẽ viên mãn năm nhãn, sáu thần thông. Ta sẽ viên mãn Như Lai  mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ta sẽ viên mãn pháp vô  vong thất, tánh hằng trụ xả. Ta sẽ viên mãn Nhất thiết trí, đạo tướng  trí, Nhất thiết tướng trí. Ta sẽ viên mãn ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám  mươi tùy hảo. Ta sẽ phát khởi vô lượng quang minh khắp soi mười phương  vô biên thế giới. Ta sẽ phát khởi một tiếng diệu âm khắp nhẫy mười  phương vô biên thế giới, theo pháp tâm tâm sở các hữu tình thắng hiểu  sai khác, vì nói nhiều thứ pháp môn vi diệu khiến được lợi vui?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp ngươi đã nói đây chẳng tất cả như  mộng, tượng vang, nắng sáng, huyễn hóa, thành tầm hương ư?
Thiện  Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy. Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như  mộng cho đến như thành tầm hương đều không thật sự, làm sao Bồ Tát Ma ha  tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu pháp đại thệ rằng: Ta sẽ  viên mãn tất cả công đức lợi ích an vui co lượng hữu tình?
Bạch  Thế Tôn! Chẳng phải mộng đã thấy, nói rộng cho đến trong thành tầm hương  hiện ra vật loại năng hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la  mật đa, huống năng viên mãn. Tất cả pháp khác cũng ưng như thế đều chẳng  thật ư?
Bạch Thế Tôn! Chẳng phải mộng đã thấy, nói rộng cho đến  trong thành tầm hương hiện ra vật loại, cho đến năng hành ba mươi hai  tướng Ðại sĩ, tám mươi tuỳ hảo, huống năng viên mãn. Tất cả pháp khác  cũng tương ưng như thế đều chẳng thật vậy?
Bạch Thế Tôn! Chẳng  phải mộng đã thấy, nói rộng cho đến trong thành tầm hương hiện ra vật  loại năng thành tất cả sự nghiệp sở nguyện. Tất cả pháp khác cũng tương  ưng như thế đều chẳng thật vậy?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,  như vậy. Như ngươi đã nói. Chẳng thật có pháp hãy chẳng năng hành bố thí  Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa, huống năng viên mãn. Như vậy  cho đến chẳng thật có pháp hãy chẳng năng hành ba mươi hai tướng Ðại  sĩ, tám mươi tùy hảo, huống năng viên mãn. Chẳng thật có pháp chẳng năng  thành xong sự nghiệp sở nguyện. Chẳng thật có pháp chẳng năng chứng  được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bố  thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa và vô  lượng vô biên thiện pháp khác chẳng thật có, nên chẳng năng chứng được  sở cầu Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Thiện Hiện! Phải biết các pháp  như thế, tất cả đều là suy nghĩ tạo tác. Các pháp có suy nghĩ tạo tác  đều chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các  pháp như thế đối đạo Bồ đề tuy năng dẫn pháp mà đối quả kia không dụng  giúp đỡ. Bởi các pháp này không sanh, không khởi, không thật tướng vậy.  Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, từ sơ phát  tâm tuy khởi các thứ thiện nơi thân ngữ ý. Nghĩa là hoặc tu hành bố thí,  tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa. Như vậy  cho đến hoặc tu hành Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng  trí, mà biết tất cả như mộng, tượng, vang, nắng sáng, huyễn hóa và thành  tầm hương, đều chẳng thật có.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp như  thế dù chẳng thật có, nếu chẳng viên mãn quyết định chẳng năng thành  thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề. Nghĩa là Bồ Tát Ma ha tát nếu chẳng viên mãn bố thí, tịnh giới, an  nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa, cho đến Nhất thiết trí,  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, quyết định chẳng năng thành thục  hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu, tùy chỗ tu trụ tất cả thiện pháp đều như thật biết như mộng  cho đến như thành tầm hương. Nghĩa là nếu tu hành bố thí, tịnh giới, an  nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa năng như thật biết như  mộng cho đến thành tầm hương. Như vậy cho đến nếu tu hành Nhất thiết  trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí năng như thật biết như mộng cho  đến như thành tầm hương. Nếu thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật,  cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng như thật biết như mộng cho đến  như thành tầm hương. Cũng như thật biết các loại hữu tình tâm hành sai  khác như mộng cho đến như thành tầm hương.
Lại nữa, Thiện Hiện!  Các Bồ Tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đối tất  cả pháp chẳng lấy làm có, chẳng lấy làm không. Hoặc do lấy như thế nên  chứng được Nhất thiết trí trí, cũng biết pháp kia như mộng cho đến như  thành tầm hương, chẳng lấy làm có, chẳng lấy làm không . Sở vì sao? Vì  bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa cho  đến Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đều chẳng thể  lấy vậy. Pháp thiện phi thiện cũng chẳng thể lấy vậy. Pháp hữu ký vô ký  cũng chẳng thể lấy vậy. Pháp hữu lậu vô lậu cũng chẳng thể lấy vậy. Pháp  thế gian xuất thế gian cũng chẳng thể lấy vậy. Bồ Tát Ma ha tát này  biết tất cả pháp chẳng thể lấy rồi, cầu tới Vô thượng Chánh đẳng bồ đề .  Sở vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể lấy, trọn chẳng thật sự, như  mộng cho đến như thành tầm hương. Pháp chẳng thể lấy chẳng năng chứng  được pháp chẳng thể lấy. Nhưng các hữu tình đối pháp như thế chẳng biết  chẳng thấy, Bồ Tát Ma ha tát này vì nhiêu ích các hữu tình kia, nên cầu  tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha  tát này từ sơ phát tâm vì muốn lợi vui các hữu tình nên tu hành bố thí  Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì việc mình, chẳng vì  việc nào khác. Vì muốn lợi vui các hữu tình nên cầu tới Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề, chẳng vì việc mình, chẳng vì việc nào khác.
Lại nữa,  Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu  thấy các ngu phu với trong phi ngã mà trụ tưởng ngã, với trong phi hữu  tình trụ tưởng hữu tình, như vậy cho đến với phi tri giả trụ tưởng tri  giả, với phi kiến giả trụ tưởng kiến giả. Bồ Tát Ma ha tát này thấy việc  đây rối rất sanh thương xót, phương tiện giáo hóa khiến lìa điên đảo  vọng tưởng chấp trước, an để trong cõi vô tưởng cam lồ. Trụ trong cõi  này chẳng còn khởi tưởng ngã cho đến tưởng kiến giả. Khi đó tất cả lay  động, tán loạn, hý luận, phân biệt chẳng hiện hành nữa. Tâm nhiều an trụ  cõi vắng lặng đạm bạc không hý luận.
Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha  tát do phương tiện đây hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, tự đối các  pháp không điều chấp trước, cũng năng dạy người đối tất cả pháp không  điều chấp trước. Ðây nương thế tục chẳng nương thắng nghĩa, vì trong  thắng nghĩa không sở chấp trước, mình người sai khác bất khả đắc vậy.
bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Khi Phật Vô  thượng Chánh đẳng giác, sở chứng Phật pháp vì nương thế tục nói gọi là  được, hay nương thắng nghĩa nói gọi là được ư?
Phật bảo: Thiện  Hiện! Khi Phật được Vô thượng Chánh đẳng giác, sở chứng Phật pháp nương  thế tục nói gọi là được, chẳng nương thắng nghĩa. Nếu nương thắng nghĩa,  năng được sở được đều chẳng thể được . Sở vì sao? Nếu bảo người này  được pháp như vậy, bèn có sở được. Kẻ có sở được, bèn chấp có hai. Kẻ  chấp có hai chẳng năng được quả, cũng không hiện quán.
Cụ thọ  Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu chấp có hai chẳng năng được quả cũng  không hiện quán, kẻ chấp không hai hãy năng được quả có hiện quán ư?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Kẻ chấp có hai chẳng năng được quả, cũng không hiện  quán. Kẻ chấp không hai cũng lại như thế, vì có sở chấp vậy. Như chấp có  hai, hoặc chẳng chấp hai, chẳng chấp chẳng hai, thời gọi được quả, cũng  gọi hiện quán . Sở vì sao? Nếu chấp do đây bèn năng được quả, cũng  không hiện quán, đều là hý luận. Chẳng phải trong tánh bình đẳng tất cả  pháp có các hý luận. Nếu lìa hý luận mới được gọi là pháp tánh bình  đẳng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự tánh, trong đây sao gọi pháp tánh bình đẳng?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nếu ở chỗ này đều không hữu tánh, cũng không vô tánh,  cũng chẳng thể nói là tánh bình đẳng. Như vậy mới gọi pháp tánh bình  đẳng.
Thiện Hiện! Phải biết tánh bình đẳng đã chẳng thể nói, cũng  chẳng thể biết, trừ tánh bình đẳng không pháp khá được, lìa tất cả pháp  không tánh bình đẳng.
Thiện Hiện! Phải biết pháp tánh bình đẳng, dị sanh Thánh giả đều chẳng năng hành, vì chẳng phải cảnh kia vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Pháp tánh bình đẳng đâu cũng chẳng phải cảnh Phật sở hành ư?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Pháp tánh bình đẳng tất cả Thánh giả đều chẳng năng  hành, cũng chẳng năng chứng. Nghĩa là các Dự lưu, hoặc các Nhất lai,  hoặc các Bất hoàn, hoặc các A la hán, hoặc các Ðộc giác, hoặc các Bồ  Tát, hoặc các Như Lai đều chẳng năng đem pháp tánh bình đẳng làm cảnh sở  hành. Trong đây tất cả hý luận phân biệt đều chẳng hành vậy.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Phật đối các pháp đều được tự tại,  nói sao khá nói pháp tánh bình đẳng cũng chẳng phải cảnh sở hành chư  Phật ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Phật đối các pháp tuy được tự tại,  nếu tánh bình đẳng cùng Phật có khác, khá nói là cảnh giới Phật sở hành.  Nhưng tánh bình đẳng cùng Phật không khác, làm sao khá nói Phật hành  cảnh kia.
Thiện Hiện phải biết: Nếu các dị sanh pháp tánh bình  đẳng, nếu các Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn A la hán, Ðộc giác, Bồ Tát, Như  Lai pháp tánh bình đẳng, như vậy tất cả pháp tánh bình đẳng đều đồng  một tướng, chỗ gọi vô tướng. Một bình đẳng đây không hai không khác, nên  chẳng thể nói đây là dị sanh pháp tánh bình đẳng, nói rộng cho đến đây  là Như Lai pháp tánh bình đẳng đây, các tánh bình đẳng đã bất khả đắc,  với trong dị tướng dị sanh và Dự lưu thảy sai khác cũng bất khả đắc.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu trong tất cả pháp tánh bình  đẳng, các tướng sai khác đều bất khả đắc, thời các dị sanh và Dự lưu  thảy pháp và hữu tình lẽ không sai khác?
Phật bảo: Thiện Hiện!  Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Ðối trong tất cả pháp tánh bình  đẳng, hoặc các dị sanh, hoặc các Thánh giả, cho đến Như Lai pháp và hữu  tình đều không sai khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:  Nếu trong tất cả pháp tánh bình đẳng, dị sanh Thánh giả pháp và hữu tình  đều không sai khác, sao có Tam-Bảo xuất hiện thế gian, chỗ gọi Phật  bảo, Pháp bảo, Tăng bảo?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Phật Pháp Tăng bảo pháp tánh bình đẳng mỗi mỗi khác ư?
Thiện  Hiện thưa rằng: Như tôi hiểu nghĩa pháp đã nói đó, Phật Pháp Tăng bảo  pháp tánh bình đẳng đều không sai khác . Sở vì sao? Phật Pháp Tăng bảo  pháp tánh bình đẳng, tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải tương  ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Nhưng Phật  Thế Tôn với trong pháp vô tướng, phương tiện khéo léo kiến lập nhiều thứ  pháp và hữu tình gọi tướng sai khác, chỗ gọi đây là dị sanh và pháp,  cho đến đây là Như Lai và pháp?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,  như vậy. Như ngươi đã nói. Chư Phật đối pháp phương tiện khéo léo năng  đối vô tướng kiến lập nhiều thứ pháp và hữu tình gọi tướng sai khác.
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Nếu các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác  chẳng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, hoặc chứng Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề, chẳng vì hữu tình kiến lập các pháp danh tướng sai khác, các loại  hữu tình hãy năng tự biết đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ  giới, đây là người, đây là trời, nghĩa là trời Bốn đại vương chúng cho  đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðây là sắc cho đến thức. Ðây là  nhãn xứ cho đến ý xứ. Ðây là sắc xứ cho đến pháp xứ. Ðây là nhãn giới  cho đến ý giới. Ðây là sắc giới cho đến pháp giới. Ðây là nhãn thức giới  cho đến ý thức giới. Ðây là nhãn xúc cho đến ý xúc. Ðây là nhãn xúc làm  duyên sanh ra các thọ. Ðây là địa giới cho đến thức giới. Ðây là nhân  duyên cho đến tăng thượng duyên. Ðây là theo duyên sanh ra các pháp. Ðây  là vô minh cho đến lão tử. Ðây là pháp thiện phi thiện, dây là pháp hữu  ký vô ký, đây là pháp hữu lậu vô lậu, đây là pháp thế gian xuất thế  gian, đây là pháp hữu vi vô vi. Ðây là bố thí Ba la mật đa cho đến Bát  nhã Ba la mật đa. Ðây là bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Ðây là  nội không cho đến vô tánh tự tánh không . Ðây là chơn như cho đến bất tư  nghì giới. Ðây là khổ tập diệt đạo thánh đế. Ðây là bốn tĩnh lự, bốn vô  lượng, bốn vô sắc định. Ðây là không, vô tướng, vô nguyện giải thoát  môn. Ðây là tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Ðây là Tịnh quán địa  cho đến Như Lai địa. Ðây là Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Ðây là tất  cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Ðây là năm nhãn, sáu thần thông. Ðây là  Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ðây là ba mươi  hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo. Ðây là pháp vô vong thất, tánh hằng  trụ xả. Ðây là Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Ðây  là cả tướng diệu nguyện trí. Ðây là Nhất thiết trí trí. Ðây là Tam-Bảo.  Ðây là Tam thừa. Các loại hữu tình đối danh tướng sai khác như thế thảy  tự năng biết chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! chẳng tự  biết vậy. Nếu Phật chẳng vì hữu tình kiến lập các danh tướng sai khác  như thế thảy, các loại hữu tình chẳng năng tự biết các danh tướng sai  khác như thế thảy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Vậy nên Như Lai đối pháp  vô tướng phương tiện khéo léo, tuy vì hữu tình kiến lập nhiều thứ danh  tướng sai khác, mà đối trong các pháp tánh bình đẳng năng không sở động.  Tuy đối hữu tình làm đại ân đức, mà với trong ấy năng chẳng lấy tướng.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Ví như Như Lai đối  trong tất cả pháp tánh bình đẳng đều không sở động. Như vậy tất cả dị  sanh, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác, Bồ Tát cũng đối  trong tất cả pháp tánh bình đẳng không sở động chăng?
Phật bảo:  Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Vì tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng  ra khỏi tánh bình đẳng vậy. Như tánh bình đẳng, phải biết chơn như nói  rộng cho đến bất tư nghì giới cũng lại như thế. Các pháp dị sanh và các  Thánh giả đối chơn như thảy không sai khác vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện  lại thưa Phật rằng: Nếu các dị sanh và các Thánh giả cùng tất cả pháp  tánh bình đẳng không sai khác ấy, khiến tất cả pháp và các hữu tình  tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác, vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi  khác. Nghĩa là sắc cho đến thức tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác.  Nhãn xứ cho đến ý xứ tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Sắc xứ cho  đến pháp xứ tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Nhãn giới cho đến ý  giới tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Nhãn thức giới cho đến ý  thức giới tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Nhãn xúc cho đến ý xúc  tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các  thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng mỗi khác nên tánh cũng  ưng khác.
Ðịa giới cho đến thức giới tướng mỗi khác nên tánh  cũng ưng khác. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên tướng mỗi khác nên  tánh cũng ưng khác. Theo duyên sanh ra các Pháp Tướng mỗi khác nên tánh  cũng ưng khác. Vô minh cho đến lão tử tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng  khác. Tham, sân, si tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Dị sanh, kiến  thú tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác.
Bốn tĩnh lự, bốn vô  lượng, bốn vô sắc định tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Bốn niệm  trụ cho đến tám thánh đạo chi tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác.  Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tướng mỗi khác nên tánh cũng  ưng khác.
Nội không cho đến vô tánh tự tánh không tướng mỗi khác  nên tánh cũng ưng khác. Chơn như cho đến bất tư nghì giới tướng mỗi khác  nên tánh cũng ưng khác. Khổ tập diệt đạo thánh đế tướng mỗi khác nên  tánh cũng ưng khác. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa  tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Tám giải thoát cho đến mười biến  xứ tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác.
Tịnh quán địa cho đến  Như Lai địa tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Cực hỷ địa cho đến  Pháp vân địa tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Tất cả đà la ni môn,  tam ma địa môn tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Năm nhãn, sáu  thần thông tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Như Lai mười lực cho  đến mười tám pháp Phật bất cộng tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác.  Ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo tướng mỗi khác nên tánh cũng  ưng khác. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả tướng mỗi khác nên tánh  cũng ưng khác. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mỗi  khác nên tánh cũng ưng khác.
Ngu phu dị sanh cho đến Như Lai  tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Pháp thiện phi thiện tướng mỗi  khác nên tánh cũng ưng khác. Pháp hữu ký vô ký tướng mỗi khác nên tánh  cũng ưng khác. Pháp hữu lậu vô lậu tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng  khác. Pháp thế gian, xuất thế gian tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng  khác. Pháp hữu vi vô vi tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác.
Bạch  Thế Tôn! Tánh pháp thảy như thế nếu mỗi khác ấy, thời pháp tánh cũng  ưng mỗi khác, làm sao đối các tướng khác pháp thảy khá được an lập pháp  tánh nhất tướng? Bồ Tát Ma ha tát làm sao khi hành Bát nhã Ba la mật đa  thẳm sâu chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh. Nếu Bồ  Tát Ma ha tát chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh, thời  ưng chẳng năng hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nếu chẳng năng hành  Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thời ưng chẳng năng từ một bậc Bồ Tát đến  một bậc Bồ Tát. Nếu định chẳng năng từ một bậc Bồ Tát. Nếu định chẳng  năng từ một bậc Bồ Tát đến một bậc Bồ Tát, thời ưng chẳng năng tới vào  Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu định chẳng năng tới vào Bồ Tát chánh tánh  ly sanh, thời ưng chẳng năng vượt các Thanh Văn và bậc Ðộc giác, thời  ưng chẳng năng viên mãn thần thông Ba la mật đa. Nếu định chẳng năng  viên mãn thần thông Ba la mật đa, thời ưng chẳng năng đối các thần thông  du hý tự tại, thời ưng chẳng năng viên mãn bố thí Ba la mật đa cho đến  Bát nhã Ba la mật đa. Nếu định chẳng năng viên mãn bố thí Ba la mật đa  cho đến Bát nhã Ba la mật đa, thời ưng chẳng năng từ một nước Phật tới  một nước Phật gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu định chẳng năng  từ một nước Phật tới một nước Phật gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn,  thời ưng chẳng năng ở chỗ chư Phật trồng các căn lành, thời ưng chẳng  năng nghiêm tịnh cõi Phật thành thục hữu tình. Nếu định chẳng năng  nghiêm tịnh cõi Phật thành thục hữu tình, thời ưng chẳng năng chứng được  Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề quay xe chánh pháp độ chúng hữu tình khiến  cho lìa hẳn sanh tử ác thú?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như ngươi đã  nói nếu các dị sanh và các Thánh giả cùng tất cả pháp tánh bình đẳng  không sai khác ấy, khiến tất cả pháp và các hữu tình tướng mỗi khác nên  tánh cũng ưng khác, vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác, làm sao đối  các tướng khác pháp thảy khá được an lập pháp tánh nhất tướng? Bồ Tát Ma  ha tát làm sao khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng phân biệt  pháp và các hữu tình có nhiều thứ tánh, cho đến nói rộng?
Thiện  Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp tánh các sắc là không tánh chăng? Pháp tánh  các thọ tưởng hành thức là không tánh chăng? Như vậy cho đến tất cả pháp  tánh hữu vi vô vi là không tánh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy. Tất cả pháp tánh đều là không tánh.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ở trong không tánh, tướng khác pháp  thảy hãy khá được chăng? Nghĩa là tướng khác sắc, nói rộng cho đến tất  cả tướng khác hữu vi vô vi hãy khá được chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Ở trong không tánh, tất cả tướng khác đều chẳng khá được.
Phật  bảo: Thiện Hiện! Do đây phải biết pháp tánh bình đẳng chẳng tức tất cả  ngu phu dị sanh, chẳng lìa tất cả ngu phu dị sanh. Như vậy cho đến chẳng  tức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, chẳng lìa Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.  Pháp tánh bình đẳng chẳng tức sắc chẳng lìa sắc, chẳng tức thọ tưởng  hành thức chẳng lìa thọ tưởng hành thức. Như vậy cho đến chẳng tức pháp  hữu vi và vô vi, chẳng lìa pháp hữu vi và vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Pháp tánh bình đẳng hãy là hữu vi hay là vô vi?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Pháp tánh bình đẳng chẳng là hữu vi, chẳng là vô vi.  Nhưng lìa pháp hữu vi, pháp vô vi bất khả đắc; lìa pháp vô vi, pháp hữu  vi cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Phải biết hoặc cõi hữu vi, hoặc  cõi vô vi, hai cõi như thế chẳng hợp chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối,  nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác nương  thế tục mà nói, chẳng nương thắng nghĩa . Sở vì sao? Chẳng phải trong  thắng nghĩa thân hành, ngữ hành, ý hành khá được; chẳng lìa thân hành,  ngữ hành, ý hành thắng nghĩa khá được.
Thiện Hiện phải biết: Tức  pháp hữu vi và pháp vô vi pháp tánh bình đẳng nói danh thắng nghĩa,  chẳng phải lìa tất cả hữu vi vô vi riêng có thắng nghĩa. Vậy nên, Bồ Tát  Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng động thắng nghĩa  mà hành hạnh Bồ Tát Ma ha tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi  Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng  hữu tình, khiến cho dứt hẳn sanh lão bệnh tử, chứng được Niết Bàn thường  vui rốt ráo.
Bấy  giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp  thảy tánh bình đẳng đều bản tánh không, bản tánh không đây đối tất cả  pháp chẳng phải năng sở tác, Bồ Tát Ma ha tát làm sao khi hành Bát nhã  Ba la mật đa thẳm sâu chẳng động thắng nghĩa dùng bốn nhiếp sự nhiêu ích  hữu tình?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Tất cả pháp  tánh bình đẳng đều bản tánh không, bản tánh không đây đối tất cả pháp  chẳng năng sở tác, nhưng các Bồ Tát năng vì hữu tình đem bố thí thảy làm  việc nhiêu ích. Nếu các hữu tình tự biết các pháp đều bản tánh không,  thời các Như Lai và các Bồ Tát chẳng hiện thần thông làm việc hy hữu.  Nghĩa là đối trong các pháp bản tánh không dù không sở động mà khiến hữu  tình xa lìa các tánh vọng tưởng điên đảo, nghĩa là khiến các hữu tình  xa lìa tưởng ngã, tưởng hữu tình, cho đến tưởng tri giả, kiến giả. Cũng  khiến xa lìa tưởng sắc cho đến thức. Tưởng nhãn xứ cho đến ý xứ. Tưởng  sắc xứ cho đến pháp xứ. Tưởng nhãn giới cho đến cho đến ý giới. Tưởng  sắc giới cho đến pháp giới. Tưởng nhãn thức giới cho đến ý thức giới.  Tưởng nhãn xúc cho đến ý xúc. Tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ  cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Tưởng địa giới cho đến ý thức  giới. Tưởng vô minh cho đến lão tử. Cũng khiến xa lìa tưởng hữu vi giới  trụ vô vi giới giải thoát tất cả sanh lão bệnh tử. Vô vi giới ấy tức các  pháp không, nương thế tục nói danh vô vi giới.
Cụ thọ Thiện Hiện  lại thưa Phật rằng: Do không nào nên nói các pháp không? Phật bảo:  Thiện Hiện! Do tưởng không nên nói các pháp không.
Lại nữa, Thiện  Hiện! Nơi ý hiểu sao? Nếu thân biến hóa lại làm việc hóa, đây có thật  sự mà chẳng không ư? Thiện Hiện thưa rằng: Các bị biến hóa đều không  thật sự, tất cả đều không .
Phật bảo: Thiện Hiện! Biến hóa cùng  không, hai pháp như thế chẳng hợp chẳng tan. Hai đây đều lấy "không  không" nên không, chẳng nên phân biệt này không này hóa . Sở vì sao?  Chẳng phải trong không tánh có không có hóa hai việc khá được, vì tất cả  pháp rốt ráo không vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vô sắc chẳng hóa,  vô thọ tưởng hành thức chẳng hóa. Các cái hóa này không chẳng đều không .  Các pháp hữu tình phải biết như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa  Phật rằng: Uẩn giới xứ thảy các pháp thế gian và các hữu tình khác đều  là hóa, bốn niệm trụ thảy pháp xuất thế gian và các hữu tình đâu cũng là  hóa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả thế gian xuất thế gian pháp  thảy không phải là hóa. Nhưng ở trong ấy có hóa Thanh Văn, có hóa Ðộc  giác, có hóa Bồ Tát, có hóa Như Lai, có hóa phiền não, có hóa các  nghiệp. Bởi nhân duyên đây ta nói tất cả đều như biến hóa ngang bằng  không sai khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Tất cả cõi  Ðoạn, chỗ gọi quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác, Như  Lai, dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau, đâu cũng là hóa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các pháp như thế, nếu cùng hai tướng sanh diệt hợp ấy cũng đều là hóa.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Pháp nào chẳng phải hóa? Phật bảo:  Thiện Hiện! Nếu pháp chẳng cùng sanh diệt hợp nhau, pháp này chẳng hóa.
Cụ  thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Pháp nào chẳng cùng sanh diệt hợp  nhau? Phật bảo: Thiện Hiện! Pháp chẳng dối gạt tức là Niết Bàn. Pháp này  chẳng cùng sanh diệt hợp nhau, vậy nên chẳng phải hóa.
Cụ thọ  Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Như Thế Tôn nói pháp tánh bình đẳng tất  cả đều không , không có kẻ năng động, không có hai khá được, không có  chút pháp chẳng tự tánh không , làm sao Niết Bàn khá nói chẳng hóa?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, không có chút pháp  chẳng tự tánh không. Tự tánh không đây chẳng Thanh Văn làm, chẳng Ðộc  giác làm, chẳng Bồ Tát làm, chẳng Như Lai làm, cũng chẳng ai làm, có  Phật không Phật tánh nó thường không , đấy tức Niết Bàn. Vậy nên ta nói  Niết Bàn chẳng phải hóa, chớ chẳng phải thật có pháp gọi là Niết Bàn,  khá nói vô sanh diệt chẳng phải hóa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta vì  các Bồ Tát tân học nói Niết Bàn chẳng phải hóa, chẳng riêng thật có bất  không Niết Bàn. Vậy nên, chẳng nên chấp đây làm nạn.
bấy giờ, cụ  thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Dùng phương tiện nào dạy răn, dạy  trao tân học Bồ Tát khiến biết các pháp tự tánh thường không ?
Phật  bảo: Thiện Hiện! Ðâu tất cả pháp trước có sau không mà chẳng thường  không? Nhưng tất cả pháp trước đã chẳng phải có, sau cũng chẳng phải  không, tự tánh thường không , chẳng nên kinh sợ. Nên tác phương tiện  khéo léo như thế, dạy răn dạy trao tân học Bồ Tát khiến biết các pháp tự  tánh thường không .
Khi Thế Tôn thuyết Kinh này rồi, vô lượng  chúng Bồ Tát Ma ha tát, Từ Thị Bồ Tát mà làm thượng thủ, cụ thọ Thiện  Hiện và Xá Lợi Tử, Ðại Thái Thục Thị Mục Kiền Liên, Ðại Ca Diếp Ba, A  Nan Ðà thảy, các Ðại Thanh Văn và các Thiên Long, A tố lạc thảy tất cả  đại chúng nghe Phật đã thuyết đều vui mừng lớn, tín thọ phụng hành.