Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
Quyển Thứ 423
Hội thứ hai Phẩm Vô Biên Tế thứ 23-4
Hội thứ hai Phẩm Viễn Ly thứ 24-1
Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm 
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa        Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la        mật đa quán sát các pháp. Khi ấy, Bồ tát Ma ha tát đối sắc không thọ,        không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối thọ        tưởng hành thức không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng        thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc        bấy giờ chẳng thấy sắc cho đến thức vậy.
Đối nhãn xứ không thọ, không        lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt        thân ý xứ không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi        thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy        giờ chẳng thấy nhãn xứ cho đến ý xứ vậy.
Đối sắc xứ không thọ, không        lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối thanh hương        vị xúc pháp xứ không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng        thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc        bấy giờ chẳng thấy sắc xứ cho đến pháp xứ vậy.
Đối nhãn giới không thọ, không        lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt        thân ý giới không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi        thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy        giờ chẳng thấy nhãn giới cho đến ý giới vậy.
Đối sắc giới không thọ, không        lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối thanh hương        vị xúc pháp giới không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng        thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc        bấy giờ chẳng thấy sắc giới cho đến pháp giới vậy.
Đối nhãn thức giới không thọ,        không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ        thiệt thân ý thức giới không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng        chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này        chính lúc bấy giờ chẳng thấy nhãn thức giới cho đến ý thức giới vậy.
Đối nhãn xúc không thọ, không        lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt        thân ý xúc không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi        thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy        giờ chẳng thấy nhãn xúc cho đến ý xúc vậy.
Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra        các thọ không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết        là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không thọ,        không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao?        Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy nhãn xúc        làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Đối bố thí Ba la mật đa không        thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối        tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa không thọ,        không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao?        Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy bố thí Ba        la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa vậy.
Đối nội không không thọ, không        lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối ngoại không,        nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không,        vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh        không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô        tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không không thọ, không lấy,        không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế        Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy nội không cho đến        vô tánh tự tánh không vậy.
Đối bốn niệm trụ không thọ,        không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối bốn        chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh        đạo chi không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết        là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này chính lúc bấy giờ        chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vậy.
Như vậy cho đến đối Phật mười        lực không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là        ngã. Đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,        mười tám pháp Phật bất cộng không thọ, không lấy, không trụ, không trước,        cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này        chính lúc bấy giờ chẳng thấy Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất        cộng vậy.
Đối tất cả tam ma địa môn không        thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối        tất cả đà la ni môn không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng        chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này        chính lúc bấy giờ chẳng thấy tất cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn        vậy.
Cho đến đối nhất thiết trí        không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã.        Đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không thọ, không lấy, không trụ,        không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát        Ma ha tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy nhất thiết trí, đạo tướng trí,        nhất thiết tướng trí vậy.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha        tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy sắc, cũng chẳng thấy thọ        tưởng hành thức. Vì cớ sao? Sắc thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy nhãn xứ, cũng chẳng        thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Vì cớ sao? Nhãn xứ thảy tánh không, vô sanh        diệt vậy.
Chẳng thấy sắc xứ, cũng chẳng        thấy thanh hương vị xúc pháp xứ. Vì cớ sao? Sắc xứ thảy tánh không, vô        sanh diệt vậy.
Chẳng thấy nhãn giới, cũng        chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Vì cớ sao? Nhãn giới thảy tánh không,        vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy sắc giới, cũng chẳng        thấy thanh hương vị xúc pháp giới. Vì cớ sao? Sắc giới thảy tánh không, vô        sanh diệt vậy.
Chẳng thấy nhãn thức giới, cũng        chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Vì cớ sao? Nhãn thức giới thảy        tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy nhãn xúc, cũng chẳng        thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Vì cớ sao? Nhãn xúc thảy tánh không, vô sanh        diệt vậy.
Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên        sanh ra các thọ, cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra        các thọ. Vì cớ sao? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy tánh không, vô        sanh diệt vậy.
Chẳng thấy bố thí Ba la mật đa;        cũng chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật        đa . Vì cớ sao? Bố thí Ba la mật đa thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy nội không, cũng        chẳng thấy ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Vì cớ sao? Nội không        thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy bốn niệm trụ, cũng        chẳng thấy bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Vì cớ sao? Bốn niệm        trụ thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Như vậy cho đến chẳng thấy Phật        mười lực, cũng chẳng thấy bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất        cộng. Vì cớ sao? Phật mười lực thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy tất cả tam ma địa        môn, cũng chẳng thấy tất cả đà la ni môn. Vì cớ sao? Tất cả tam ma địa môn        thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy pháp giới; cũng        chẳng thấy chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy. Vì cớ        sao? Pháp giới thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy tất cả hạnh Bồ tát        Ma ha tát, cũng chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao?        Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy nhất thiết trí; cũng        chẳng thấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vì cớ sao? Nhất thiết trí        thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng sanh        chẳng diệt tức phi sắc; thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng phi        thọ tưởng hành thức. Sở dĩ vì sao? Vì sắc thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt,        không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một        phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên sắc chẳng sanh chẳng diệt tức phi sắc;        thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng phi thọ tưởng hành thức.
Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ chẳng        sanh chẳng diệt tức phi nhãn xứ; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng sanh chẳng        diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Sở dĩ vì sao? Vì nhãn xứ thảy cùng        chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng        sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên nhãn xứ chẳng        sanh chẳng diệt tức phi nhãn xứ; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng sanh chẳng        diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ.
Bạch Thế Tôn! Sắc xứ chẳng sanh        chẳng diệt tức phi sắc xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng sanh chẳng        diệt cũng phi thanh hương vị xúc pháp xứ. Sở dĩ vì sao? Vì sắc xứ thảy        cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp        chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên sắc xứ        chẳng sanh chẳng diệt tức phi sắc xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng        sanh chẳng diệt cũng phi thanh hương vị xúc pháp xứ.
Bạch Thế Tôn! Nhãn giới chẳng        sanh chẳng diệt tức phi nhãn giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng sanh        chẳng diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Sở dĩ vì sao? Vì nhãn giới        thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì        pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên        nhãn giới chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhãn giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý        giới chẳng sanh chẳng diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý giới.
Bạch Thế Tôn! Sắc giới chẳng        sanh chẳng diệt tức phi sắc giới, thanh hương vị xúc pháp giới chẳng sanh        chẳng diệt cũng phi thanh hương vị xúc pháp giới. Sở dĩ vì sao? Vì sắc        giới thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao?        Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên        sắc giới chẳng sanh chẳng diệt tức phi sắc giới, thanh hương vị xúc pháp        giới chẳng sanh chẳng diệt cũng phi thanh hương vị xúc pháp giới.
Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới        chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhãn thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức        giới chẳng sanh chẳng diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Sở dĩ        vì sao? Vì nhãn thức giới thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không        hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi        nhiều phi khác. Vậy nên nhãn thức giới chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhãn        thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng sanh chẳng diệt cũng phi        nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới.
Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc chẳng        sanh chẳng diệt tức phi nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng sanh chẳng        diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Sở dĩ vì sao? Vì nhãn xúc thảy cùng        chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng        sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên nhãn xúc        chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng sanh        chẳng diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc.
Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc làm        duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhãn xúc làm duyên        sanh ra các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng        sanh chẳng diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các        thọ. Sở dĩ vì sao? Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy cùng chẳng        sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh        chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên nhãn xúc làm duyên        sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhãn xúc làm duyên sanh ra        các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh        chẳng diệt cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la mật        đa chẳng sanh chẳng diệt tức phi bố thí Ba la mật đa; tịnh giới, an nhẫn,        tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng sanh chẳng diệt cũng phi        tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Sở dĩ vì        sao? Vì bố thí Ba la mật đa thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai        không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai        phi nhiều phi khác. Vậy nên bố thí Ba la mật đa chẳng sanh chẳng diệt tức        phi bố thí Ba la mật đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã        Ba la mật đa chẳng sanh chẳng diệt cũng phi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,        tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Nội không chẳng        sanh chẳng diệt tức phi nội không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh        không chẳng sanh chẳng diệt cũng phi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh        không. Sở dĩ vì sao? Vì nội không thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không        hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi        hai phi nhiều phi khác. Vậy nên nội không chẳng sanh chẳng diệt tức phi        nội không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sanh chẳng diệt        cũng phi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không.
Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ        chẳng sanh chẳng diệt tức phi bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám        thánh đạo chi chẳng sanh chẳng diệt cũng phi bốn chánh đoạn cho đến tám        thánh đạo chi. Sở dĩ vì sao? Vì bốn niệm trụ thảy cùng chẳng sanh chẳng        diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt,        phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên bốn niệm trụ chẳng sanh chẳng        diệt tức phi bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi chẳng        sanh chẳng diệt cũng phi bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi.
Bạch Thế Tôn! Như vậy cho đến        Phật mười lực chẳng sanh chẳng diệt tức phi Phật mười lực; bốn vô sở úy        cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh chẳng diệt cũng phi bốn vô        sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Sở dĩ vì sao? Vì Phật mười lực        thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì        pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên        Phật mười lực chẳng sanh chẳng diệt tức phi Phật mười lực; bốn vô sở úy        cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh chẳng diệt cũng phi bốn vô        sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn! Tất cả tam ma địa        môn chẳng sanh chẳng diệt tức phi tất cả tam ma địa môn; tất cả đà la ni        môn chẳng sanh chẳng diệt cũng phi tất cả đà la ni môn. Sở dĩ vì sao? Vì        tất cả tam ma địa môn thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai        chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều        phi khác. Vậy nên tất cả tam ma địa môn chẳng sanh chẳng diệt tức phi tất        cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn chẳng sanh chẳng diệt cũng phi tất        cả đà la ni môn.
Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng        sanh chẳng diệt tức phi pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an        ẩn giới thảy chẳng sanh chẳng diệt cũng phi chơn như, thật tế, bất tư nghì        giới, an ẩn giới thảy. Sở dĩ vì sao? Vì pháp giới thảy cùng chẳng sanh        chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng        diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên pháp giới chẳng sanh        chẳng diệt tức phi pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn        giới thảy chẳng sanh chẳng diệt cũng phi chơn như, thật tế, bất tư nghì        giới, an ẩn giới thảy.
Bạch Thế Tôn! Tất cả hạnh Bồ        tát Ma ha tát chẳng sanh chẳng diệt tức phi tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát.        Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng sanh chẳng diệt cũng phi chư        Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả hạnh Bồ tát Ma ha        tát thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai chỗ. Vì cớ sao?        Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên        tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát chẳng sanh chẳng diệt tức phi tất cả hạnh Bồ        tát Ma ha tát. Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng sanh chẳng diệt        cũng phi chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí        chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhất thiết trí; đạo tướng trí, nhất thiết        tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng phi đạo tướng trí, nhất thiết tướng        trí. Sở dĩ vì sao? Vì nhất thiết trí thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt,        không hai không hai chỗ. Vì cớ sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, phi một        phi hai phi nhiều phi khác. Vậy nên nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt        tức phi nhất thiết trí; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng sanh        chẳng diệt cũng phi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng hai tức        phi sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng phi thọ tưởng hành thức. Nhãn        xứ chẳng hai tức phi nhãn xứ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng hai cũng phi        nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Sắc xứ chẳng hai tức phi sắc xứ, thanh hương vị        xúc pháp xứ chẳng hai cũng phi thanh hương vị xúc pháp xứ.
Nhãn giới chẳng hai tức phi        nhãn giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng hai cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý        giới. Sắc giới chẳng hai tức phi sắc giới, thanh hương vị xúc pháp giới        chẳng hai cũng phi thanh hương vị xúc pháp giới. Nhãn thức giới chẳng hai        tức phi nhãn thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng hai cũng phi        nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Nhãn xúc chẳng hai tức phi nhãn xúc, nhĩ tỷ        thiệt thân ý xúc chẳng hai cũng phi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Nhãn xúc làm        duyên sanh ra các thọ chẳng hai tức phi nhãn xúc làm duyên sanh ra các        thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng hai cũng phi        nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bố thí Ba la mật đa chẳng hai        tức phi bố thí Ba la mật đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát        nhã Ba la mật đa chẳng hai cũng phi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh        lự, bát nhã Ba la mật đa.
Nội không chẳng hai tức phi nội        không, ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng hai cũng phi ngoại        không cho đến vô tánh tự tánh không.
Bốn niệm trụ chẳng hai tức phi        bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi chẳng hai cũng phi        bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi.
Như vậy cho đến Phật mười lực        chẳng hai tức phi Phật mười lực, bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật        bất cộng chẳng hai cũng phi bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất        cộng.
Tất cả tam ma địa môn chẳng hai        tức phi tất cả tam ma địa môn, tất cả đà la ni môn chẳng hai cũng phi tất        cả đà la ni môn.
Pháp giới chẳng hai tức phi        pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy chẳng hai        cũng phi chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy.
Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát        chẳng hai tức phi tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chư Phật Vô thượng Chánh        đẳng Bồ đề chẳng hai tức phi chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Nhất thiết trí chẳng hai tức        phi nhất thiết trí; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng phi        đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Sắc vào pháp số        chẳng hai, thọ tưởng hành thức vào pháp số chẳng hai. Nhãn xứ vào pháp số        chẳng hai, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vào pháp số chẳng hai. Sắc xứ vào pháp        số chẳng hai, thanh hương vị xúc pháp xứ vào pháp số chẳng hai.
Nhãn giới vào pháp số chẳng        hai, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới vào pháp số chẳng hai. Sắc giới vào pháp số        chẳng hai, thanh hương vị xúc pháp giới vào pháp số chẳng hai. Nhãn thức        giới vào pháp số chẳng hai, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới vào pháp số        chẳng hai. Nhãn xúc vào pháp số chẳng hai, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vào        pháp số chẳng hai. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vào pháp số chẳng        hai, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vào pháp số chẳng        hai.
Bố thí Ba la mật đa vào pháp số        chẳng hai; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa        vào pháp số chẳng hai. Nội không vào pháp số chẳng hai, ngoại không cho        đến vô tánh tự tánh không vào pháp số chẳng hai. Bốn niệm trụ vào pháp số        chẳng hai, bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vào pháp số chẳng hai.        Như vậy cho đến Phật mười lực vào pháp số chẳng hai, bốn vô sở úy cho đến        mười tám pháp Phật bất cộng vào pháp số chẳng hai.
Tất cả tam ma địa môn vào pháp        số chẳng hai, tất cả đà la ni môn vào pháp số chẳng hai. Pháp giới vào        pháp số chẳng hai; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy        vào pháp số chẳng hai. Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát vào pháp số chẳng hai.        Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vào pháp số chẳng hai. Nhất thiết trí        vào pháp số chẳng hai; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vào pháp số        chẳng hai.
 
 
       Hội Thứ Hai
       Viễn Ly
Thứ 24-1
 
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi        Thiện Hiện rằng: Như Nhân giả đã nói: Nếu khi Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát        nhã Ba la mật đa quán sát các pháp ấy. Sao là Bồ tát Ma ha tát? Sao là Bát        nhã Ba la mật đa? Sao là quán sát các pháp?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp        rằng: Tôn giả đã hỏi sao là Bồ tát Ma ha tát ấy? Xá Lợi Tử! Kẻ siêng cầu        Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề lợi vui hữu tình, nên gọi Bồ tát. Đã giác như        thật, năng khắp biết rõ tướng tất cả pháp mà không sở chấp, nên lại gọi Ma        ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi lại Thiện        Hiện rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát năng khắp biết rõ tướng tất cả pháp mà        không sở chấp?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử!        Các Bồ tát Ma ha tát như thật biết rõ tất cả tướng sắc mà không sở chấp,        như thật biết rõ tất cả tướng thọ tưởng hành thức mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        nhãn xứ mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân        ý xứ mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        sắc xứ mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng thanh hương vị xúc        pháp xứ mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        nhãn giới mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt        thân ý giới mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        sắc giới mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng thanh hương vị        xúc pháp giới mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        nhãn thức giới mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ        thiệt thân ý thức giới mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        nhãn xúc mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân        ý xúc mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ mà không sở chấp, như thật biết rõ tất        cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ mà không sở        chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        bố thí Ba la mật đa mà không sở chấp; như thật biết rõ tất cả tướng tịnh        giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        nội không mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng ngoại không cho        đến vô tánh tự tánh không mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        bốn niệm trụ mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng bốn chánh        đoạn cho đến tám thánh đạo chi mà không sở chấp.
Như vậy cho đến như thật biết        rõ tất cả tướng Phật mười lực mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả        tướng bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        tam ma địa môn mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng đà la ni        môn mà không sở chấp.
Như thật biết rõ tất cả tướng        pháp giới mà không sở chấp; như thật biết rõ tất cả tướng chơn như, thật        tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy mà không sở chấp.
Cho đến như thật biết rõ tất cả        tướng nhất thiết trí mà không sở chấp; như thật biết rõ tất cả tướng đạo        tướng trí, nhất thiết tướng trí mà không sở chấp.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện        Hiện rằng: Lại sao gọi là tướng tất cả pháp? Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi        Tử! Nếu do các hành tướng trạng như thế hiện biết các pháp: là sắc, là        thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là nội, là ngoại, là hữu lậu, là        vô lậu, là hữu vi, là vô vi. Đấy thảy gọi là tướng tất cả pháp.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã        hỏi: Sao là Bát nhã Ba la mật đa ấy. Xá Lợi Tử! Có thắng diệu huệ xa, có        chỗ lìa nên gọi Bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử nói: Đây đối pháp nào mà        năng xa lìa? Thiện Hiện đáp rằng: Đây đối các uẩn, các xứ, các giới, các        phiền não kiến, và sáu thú thảy đều năng xa lìa, nên gọi Bát nhã Ba la mật        đa.
Lại, Xá Lợi Tử! Có thắng diệu        huệ xa, có chỗ đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử nói: Đây đối        pháp nào mà năng xa đến?
Thiện Hiện đáp rằng: Đây đối bố        thí Ba la mật đa, cho đến bát nhã Ba la mật đa đều năng xa đến, nên gọi        Bát nhã Ba la mật đa. Đây đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không đều        năng xa đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật đa. Đây đối bốn niệm trụ cho đến        tám thánh đạo chi đều năng xa đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật đa. Như vậy        cho đến đây đối Phật mười lực cho đến mười tám Phật bất cộng đều năng xa        đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật đa. Cho đến đây đối nhất thiết trí, đạo        tướng trí, nhất thiết tướng trí đều năng xa đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật        đa. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây nói là Bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã        hỏi: Sao là quán sát các pháp ấy. Xá Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu        hành Bát nhã Ba la mật đa quán sát sắc cho đến thức phi thường phi vô        thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi        không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu nguyện phi vô        nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát nhãn xứ cho đến ý xứ        phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh        phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu        nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi        chẳng xa lìa.
Quán sát sắc xứ cho đến pháp xứ        phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh        phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu        nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi        chẳng xa lìa.
Quán sát nhãn giới cho đến ý        giới phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi        tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng,        phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa        lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát sắc giới cho đến pháp        giới phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi        tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng,        phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa        lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát nhãn thức giới cho đến        ý thức giới phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã,        phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô        tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng,        phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát nhãn xúc cho đến ý xúc        phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh        phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu        nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi        chẳng xa lìa.
Quán sát nhãn xúc làm duyên        sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ phi thường phi vô        thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi        không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu nguyện phi vô        nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát bố thí Ba la mật đa        cho đến bát nhã Ba la mật đa phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ,        phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi        hữu tướng phi vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi        chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát nội không cho đến vô        tánh tự tánh không phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi        vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi        vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng,        phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát bốn niệm trụ cho đến        tám thánh đạo chi phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi        vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi        vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng,        phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Như vậy cho đến quán sát Phật        mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng phi thường phi vô thường, phi        vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất        không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng        lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Quán sát tất cả tam ma địa môn,        tất cả đà la ni môn phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi        vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi        vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng,        phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Như vậy cho đến quán sát nhất        thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí phi thường phi vô thường,        phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi        bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi        vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng xa lìa.
Xá Lợi Tử! Đây thảy gọi là quán        sát các pháp. Xá Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la        mật đa nên tác quán sát các pháp như vậy.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi        Thiện Hiện rằng: Nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc chẳng sanh        chẳng diệt tức phi sắc, thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng phi        thọ tưởng hành thức? Như vậy cho đến nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt        tức phi nhất thiết trí; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng sanh        chẳng diệt cũng phi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử!        Sắc, sắc tánh không; thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tánh không.        Trong tánh không đây vô sanh vô diệt, cũng vô sắc cho đến thức. Do đây nên        nói sắc chẳng sanh chẳng diệt tức phi sắc, thọ tưởng hành thức
chẳng sanh chẳng diệt cũng phi        thọ tưởng hành thức.
Xá Lợi Tử! Như vậy cho đến nhất        thiết trí, nhất thiết trí tánh không; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí;        đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí tánh không. Trong tánh không đây vô        sanh vô diệt, cũng vô nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.        Do đây nên nói nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt tức phi nhất thiết        trí; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng phi        đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi        Thiện Hiện rằng: Nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc chẳng hai tức        phi sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng phi thọ tưởng hành thức? Như        vậy cho đến nhất thiết trí chẳng hai tức phi nhất thiết trí; đạo tướng        trí, nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng phi đạo tướng trí, nhất thiết        tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử!        Hoặc sắc hoặc chẳng hai, hoặc thọ tưởng hành thức hoặc chẳng hai. Tất cả        như thế đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến,        vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do đây nên nói sắc chẳng hai tức phi        sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng phi thọ tưởng hành thức.
Xá Lợi Tử! Như vậy cho đến hoặc        nhất thiết trí hoặc chẳng hai; hoặc đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí        hoặc chẳng hai. Tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương        ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do đây nên nói        nhất thiết trí chẳng hai tức phi nhất thiết trí; đạo tướng trí, nhất thiết        tướng trí chẳng hai cũng phi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi        Thiện Hiện rằng: Nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc vào pháp số        chẳng hai, thọ tưởng hành thức vào pháp số chẳng hai? Như vậy cho đến nhất        thiết trí vào pháp số chẳng hai; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vào        pháp số chẳng hai?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử!        Sắc chẳng khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác sắc; sắc tức là        vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt tức là sắc. Thọ tưởng hành thức chẳng        khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác thọ tưởng hành thức; thọ        tưởng hành thức tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt tức là thọ tưởng        hành thức. Do đây nên nói sắc vào pháp số không hai, thọ tưởng hành thức        vào pháp số không hai.
Xá Lợi Tử! Như vậy cho đến nhất        thiết trí chẳng khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác nhất        thiết trí; nhất thiết trí tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt tức là        nhất thiết trí. Đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khác vô sanh vô        diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; đạo        tướng trí, nhất thiết tướng trí tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt        tức là đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Do đây nên nói nhất thiết trí        vào pháp số không hai; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vào pháp số        không hai.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa        Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la        mật đa quán sát các pháp, khi ấy Bồ tát Ma ha tát thấy ngã vô sanh rốt ráo        tịnh vậy, cho đến thấy kiến giả vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy sắc vô sanh        rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy thức vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xứ        vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý xứ vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy        sắc xứ vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy pháp xứ vô sanh rốt ráo tịnh        vậy.
Thấy nhãn giới vô sanh rốt ráo        tịnh vậy, cho đến thấy ý giới vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy sắc giới vô        sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy pháp giới vô sanh rốt ráo tịnh vậy.        Thấy nhãn thức giới vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý thức giới vô        sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xúc vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến        thấy ý xúc vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các        thọ vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý xúc làm duyên sanh ra các thọ        vô sanh rốt ráo tịnh vậy.
Thấy bố thí Ba la mật đa vô        sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy Bát nhã Ba la mật đa vô sanh rốt ráo        tịnh vậy. Thấy nội không vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy vô tánh tự        tánh không vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy bốn niệm trụ vô sanh rốt ráo        tịnh vậy, cho đến thấy tám thánh đạo chi vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Như vậy        cho đến thấy Phật mười lực vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy mười tám        pháp Phật bất cộng vô sanh rốt ráo tịnh vậy.
Thấy tất cả tam ma địa môn vô        sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy tất cả đà la ni môn vô sanh rốt ráo tịnh vậy.        Như vậy cho đến thấy nhất thiết trí vô sanh rốt ráo tịnh vậy; thấy đạo        tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sanh rốt ráo tịnh vậy.
Thấy pháp Dị sanh vô sanh rốt        ráo tịnh vậy, thấy Dị sanh vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp Dự lưu vô        sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy Dự lưu vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp        Nhất lai vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy Nhất lai vô sanh rốt ráo tịnh vậy.        Thấy pháp Bất hoàn vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấyBất hoàn vô sanh rốt ráo        tịnh vậy. Thấy pháp A la hán vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy A la hán vô        sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp Độc giác vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy        Độc giác vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy tất cả pháp Bồ tát vô sanh rốt ráo        tịnh vậy, thấy tất cả Bồ tát vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp chư Phật        vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy chư Phật vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy        pháp tất cả hữu tình vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy tất cả hữu tình vô        sanh rốt ráo tịnh vậy.