32. Thọ lạc vô cực (thọ mạng và niềm vui vô cực)
Phẩm này nói đến tuổi thọ và sự vui sướng nơi cõi Cực Lạc đều vô cực. Trước hết, kinh nói đến chúng hội thù thắng nơi cõi ấy, khuyến dụ chúng sanh nên thân cận. Tiếp đó, kinh miêu tả những điều vi diệu trong cõi Cực Lạc để khuyến dụ vãng sanh.
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc Bồ Tát [và] các hàng trời người rằng:
- [Trong] nước Phật Vô Lượng Thọ, công đức trí huệ của Thanh Văn, Bồ Tát chẳng thể nói kể. Cõi nước ấy lại vi diệu, an lạc, thanh tịnh như thế. Sao không ra sức làm lành, niệm đạo tự nhiên?
Giải: Ðoạn kinh này nêu lên cả thánh chúng lẫn cõi nước để khuyến dụ chúng sanh.
Câu ‘Phật bảo Di Lặc’ ngụ ý: từ phẩm này trở đi, ngài Di Lặc là đương cơ chính, A Nan chỉ đóng vai phụ. Trong phẩm bốn mươi tám, Phật bảo ngài Di Lặc: ‘Ta nay đúng như lý tuyên nói pháp môn vi diệu rộng lớn như thế ấy, [là pháp] được hết thảy chư Phật khen ngợi, phó chúc các ông thực hiện sự thủ hộ lớn lao’. Như vậy Di Lặc Bồ Tát đương lai hạ sanh ắt sẽ tuân lời phó chúc của Phật mà diễn thuyết kinh này.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vi diệu, an lạc, thanh tịnh’ như sau: ‘Trang nghiêm siêu tuyệt nên bảo là “vi diệu”. Chẳng có khổ não nên bảo “an lạc”. Tướng vô lậu, tướng vô tướng nên bảo là “thanh tịnh”. Ý nói: Hết thảy sự tướng cõi Cực Lạc đều là diệu tướng vô lậu. Hơn nữa Thật Tướng chẳng phải là vô tướng, cũng chẳng phải là bất tướng nên mọi thứ hiện ra đều là Thật Tướng. Do mọi tướng hiện hữu trong cõi Cực Lạc đều là tướng vô lậu, tướng Thật Tướng nên Phật bảo là ‘thanh tịnh’.
Hai câu cuối của đoạn chánh kinh trên được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Sao chẳng tận hết sức làm lành để cầu sanh nên bảo là “gắng sức làm lành”. Niệm đạo thì tự nhiên vãng sanh nên bảo là “tự nhiên”.
Sách Hội Sớ giảng: ‘Hai chữ “sao chẳng” là lời khích lệ, dẫn đến hai nghĩa: có hai điều lành.
Thứ nhất là xưng danh niệm Phật, đây chính là điều lành căn bản.
Hai là rộng hành các điều thiện, hồi hướng vãng sanh.
Niệm đạo gồm hai nghĩa: Niệm là năng niệm, đạo là điều được niệm.
Ðạo cũng có hai thứ:
- Thứ nhất là Di Ðà bổn nguyện, đây là tha lực đại đạo; chẳng cậy vào tự lực để tu thiện, nhất siêu trực nhập nên gọi là tự nhiên.
- Thứ hai là đạo được chứng bởi tam thừa vô vi tự nhiên, tánh chẳng tạo tác nên cũng gọi là tự nhiên.
Tuy có hai nghĩa, nhưng chủ yếu là nghĩa thứ nhất’.
Tịnh Ảnh Sớ dùng ý ‘làm lành cầu được vãng sanh’ để giảng chữ ‘gắng sức làm lành’, coi tự nhiên vãng sanh là ý nghĩa chữ ‘niệm tự nhiên’. Nói như vậy là nói vắn tắt. Ý ngài Tịnh Ảnh là dùng công đức của việc lành để hồi hướng Tịnh Ðộ, tận lực cầu vãng sanh thì gọi là ‘gắng sức làm lành’. Giảng như vậy rất hay.
Tiếp đó, ngài nói: tự nhiên vãng sanh chính là ‘niệm đạo tự nhiên’. Giảng như vậy quá vắn tắt, cách giải thích của Hội Sớ hay hơn: trực chỉ xưng danh niệm Phật là cội gốc của điều lành và đó là chánh hạnh. ‘Rộng làm các điều thiện, hồi hướng cầu được sanh’ cũng là ‘làm lành’ nhưng chỉ là trợ hạnh. Nêu lên cả chánh hạnh lẫn trợ hạnh, chánh phụ phân minh chính là ưu điểm của Hội Sớ.
Ðến ý ‘niệm đạo tự nhiên’, sách Hội Sớ càng giảng hay hơn nữa. Sách nêu lên hai nghĩa: Một là dùng tha lực để vượt thẳng [khỏi tam giới] cho nên là tự nhiên; hai là do vô vi vô tác nên là tự nhiên. Nghĩa thứ nhất là chánh yếu. Thuyết này cực hay, vì điểm mầu nhiệm của Tịnh tông thật đúng như sách Yếu Giải nhận định: ‘Từ sự trì đạt lý trì’ nên chỉ cần ròng rặt niệm Phật thì tự nhiên đạt được những điều như ‘vô tác, vô vi’…
Cả hai thuyết vừa nêu trên đều là lập luận dựa trên bản Ngụy dịch (câu kinh trước câu ‘niệm đạo tự nhiên’ chỉ thấy trong bản Ngụy dịch); trong hai bản Ngô dịch và Hán dịch, tiếp ngay sau câu ‘niệm đạo tự nhiên’ là cả một đoạn văn dài thuật chi tiết về công đức của Bồ Tát cõi Cực Lạc và cõi nước tự nhiên tối thắng. Hội bản chọn lấy, ghép thành phẩm này.
Do đó, trong hội bản đây, ngay sau chữ ‘niệm đạo tự nhiên’ ta thấy có đến tám chữ ‘tự nhiên’ như ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’, ‘tự nhiên vô vi’, ‘tự nhiên gìn giữ’, ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’, ‘tự nhiên có căn bổn’, ‘tự nhiên quang sắc hòa lẫn vào nhau’, ‘tự nhiên lôi kéo’; đủ thấy hai chữ ‘tự nhiên’ rất trọng yếu.
Ở đây, ‘tự nhiên’ chẳng có nghĩa là tự nhiên không do nhân gì như ngoại đạo thường nói, mà ‘tự nhiên’ có nghĩa là pháp vốn như vậy. ‘Tự’ là tự tánh, ‘nhiên’ được hiểu là ‘thanh tịnh bản nhiên’ (vốn sẵn thanh tịnh như vậy) như trong kinh Lăng Nghiêm nói. Như vậy, chữ ‘tự nhiên’ bao hàm ý nghĩa tự tánh bản nhiên; mà tự tánh bản nhiên chính là Chơn Như, Thật Tướng. Như vậy, ‘niệm đạo tự nhiên’ chính là trì danh niệm Phật, cũng chính là niệm Thật Tướng như Di Ðà Yếu Giải đã giảng:
‘Thật Tướng vô nhị mà cũng vô bất nhị. Vì thế, toàn thể làm y báo, chánh báo, làm pháp thân, làm báo thân, làm tự, làm tha, cho đến người nói, pháp được nói, kẻ độ, người được độ, người tin, vị Phật được tin, người phát nguyện, điều phát nguyện, người trì danh, danh hiệu được trì, người vãng sanh, cõi được vãng sanh về, người khen ngợi, vị Phật được khen ngợi. Không gì là chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào’.
Vì vậy, sách Hội Sớ coi đạo vô vi vô tác là đạo tự nhiên; lại còn xem tha lực pháp môn nhất siêu trực nhập là tự nhiên. Giảng như vậy đều nói lên ý chỉ chánh yếu của Trung Ðạo. So ra, tuy lời văn có khác với lời giảng của Yếu Giải, nhưng ý chỉ tương đồng. Nương theo tín nguyện trì danh, nương vào tha lực đại đạo liền được vãng sanh Cực Lạc. Trì danh chính là niệm Thật Tướng, là con đường trang nghiêm để nhất siêu trực nhập. Con đường như vậy, pháp tánh của nó vốn sẵn tự nhiên.
Chánh kinh: Từ lâu đã ưa thích tu tập xuất nhập cúng dường, xem kinh, hành đạo. Trí huệ, tài năng bén nhạy.
Tâm chẳng nửa chừng sanh hối hận, ý không lúc nào biếng nhác. Bề ngoài thong thả, bên trong luôn gấp rút. Tâm thênh thang như hư không, khế hội Trung Ðạo. Trong, ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, kiềm chế, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực.
Thân tâm khiết tịnh, chẳng có tham ái. Chí nguyện an định chẳng tăng, chẳng giảm. Cầu đạo, hòa chánh, chẳng lầm lạc, khuynh tà. Tuân theo những ước thúc, giáo lịnh trong kinh như giữ thừng mực chẳng dám sai sảy. Ðều vì mộ đạo, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ.
Giải: Ðoạn kinh này nói về công đức thù thắng của hội chúng cõi Cực Lạc.
Chữ ‘xuất nhập cúng dường’ trích từ hai bản Hán dịch và Ngô dịch. Nguyên văn ghi: ‘Ðều theo nhau bay đi, lần lượt ra vào, cúng dường vô cực’. Ý nói: Các vị Bồ Tát, A La Hán từ cõi Cực Lạc bay đến mười phương, hưng khởi đủ các sự cúng dường lớn lao. Ðấy là tu phước. ‘Xem kinh, hành đạo’ là tu huệ. Thánh chúng cõi ấy đối với hai thứ phước huệ trang nghiêm này đều ‘ưa thích’ nên ‘từ lâu đã tu tập’.
Tiếp đó, chữ ‘tài mãnh’ nên hiểu như trong phẩm Pháp Tạng Nhân Duyên đã ghi: ‘Tài cao dũng triết, siêu dị hơn đời’. Tài năng dũng mãnh là do trí huệ. Vì vậy, ‘trí huệ tài mãnh’ (tạm dịch: ‘trí huệ, tài năng bén nhạy’) nghĩa là huệ căn bén nhạy, tài năng hơn đời.
‘Nửa chừng hối hận’ là đang giữa đường tu bỗng thối chuyển. Sở dĩ thối chuyển là do lòng tin chẳng vững, gặp duyên liền thối thất. Thánh chúng cõi Cực Lạc trí huệ bén nhạy, đoạn nghi, sanh tín kiên cố chẳng lay động như núi Kim Cang nên ‘tâm chẳng giữa chừng hối hận’, thẳng tiến một lèo.
‘Ý không lúc nào biếng nhác’: Biếng nhác là vì nguyện chẳng sâu. Nguyện chẳng sâu xa, khẩn thiết thì không sức hành trì.
‘Thong thả’ là an nhàn, trầm ổn, chẳng khẩn trương, gấp gáp. ‘Bề ngoài thong thả, bên trong luôn gấp rút’ là nói vẻ ngoài thong dong, nhàn hạ, tựa hồ vô sự, nhưng trong nội tâm luôn tinh tấn chẳng ngơi, niệm niệm tiếp nối, tâm tâm chẳng gián đoạn, chẳng để lỡ một sát na nào mà chẳng quán chiếu nên kinh mới nói: ‘Trong luôn gấp rút’.
Tâm thánh chúng giống như hư không. Do hư không không có bờ mé nên tự tâm cũng không có bờ mé. Hư không chẳng có một vật nên tự tâm cũng chẳng có một vật. Do hư không rỗng không nên sum la vạn tượng, mười phương cõi nước đều nương vào hư không mà sanh. Hư không tạo dựng vạn vật nên tự tâm cũng tạo lập vạn vật. Do không có một vật nên chẳng rơi vào hữu biên. Do dung chứa vạn vật nên không bị rơi vào không biên. Chẳng có một vật mà lại dung chứa muôn vật nên chiếu được cả Không lẫn Hữu. Chứa đựng vạn vật mà không hề có một vật nào cả nên cả Không lẫn Hữu đều mất, thung dung Trung Ðạo nên mới bảo là ‘khế hội Trung Ðạo’.
Kinh Kim Cang dạy: ‘Nên không trụ vào đâu mà sanh cái tâm mình’. Vô trụ chính là sanh tâm, sanh tâm chính là vô trụ, đấy nghĩa là Trung Ðạo.
‘Trong ngoài tương ưng’ (trung biểu tương ưng); ‘trung’ là nội tâm, ‘biểu’ là những cái được biểu hiện ra ngoài. Tâm Bồ Tát khế hợp Trung Ðạo, vừa đạt được trong tâm vừa biểu hiện ra ngoài nên cả trong lẫn ngoài như một, tự nhiên tương ưng, chẳng cần phải an bài tạo tác nên ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’.
Từ chữ ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’ cho đến chữ ‘chẳng có lo nghĩ’ là cả một đoạn lớn. Những diệu đức của Bồ Tát được nêu trong đoạn này toàn là do ‘khế hội Trung Ðạo’ tạo thành.
‘Nghiêm chỉnh’ là nghiêm túc, chỉnh tề, chữ này diễn tả oai nghi của thánh chúng.
‘Kiềm giữ, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực’ (kiểm liễm đoan trực) chính là nội dung của oai nghi ‘nghiêm chỉnh’. ‘Kiểm’ là kiềm giữ chẳng để phân tán. ‘Liễm’ là thâu liễm, thu gom lại.
Như vậy, ‘kiểm liễm’ chính là như kinh đã nói ‘thảy đều tự đoan chánh mắt, tai, miệng, lưỡi’. Gìn giữ cái nghe, kiềm chế cái nhìn để tuyệt các ý ngoại duyên.
Thêm nữa, ‘đoan’ là đoan chánh, ‘trực’ là chẳng cong quẹo, là chánh trực. Vì thế, chữ ‘đoan trực’ ngoài chỉ vẻ oai nghi nơi thân trang nghiêm, trong chỉ tâm ý chánh trực. Ðấy là cả thân lẫn tâm đều đoan nghiêm.
‘Thân tâm khiết tịnh, chẳng có lo nghĩ’ là vì khế hội Trung Ðạo nên Sắc chẳng khác Không, Không nào khác Sắc, chiếu phá khách trần, tự nhiên ly ái, chẳng có tham nhiễm, thân tâm tự nhiên khiết tịnh.
‘Chí nguyện an định chưa từng khuyết giảm’: Chữ ‘an’ gồm có các nghĩa tịch tĩnh, định, chỉ, yên ổn, vui vẻ, tốt lành, không mong cầu. ‘Ðịnh’ là quyết định, kiên định, chẳng hề lay động, biến đổi. Các thệ nguyện đã phát của thánh chúng cõi kia tự nhiên kiên định, chẳng hề chợt tăng, chợt giảm, chợt bỏ qua, hay chợt bị khuyết thiếu, đúng như kinh nói: ‘Ví dù thân ở trong các khổ, nguyện tâm như vậy mãi mãi chẳng thối thất’. Ðấy chính là khuôn phép cho ‘chí nguyện an định, chẳng hề tăng giảm’.
‘Cầu đạo hòa chánh, chẳng lầm lạc, khuynh tà’: Chữ ‘hòa’ bao gồm các nghĩa: điều hòa, hài hòa, ôn hòa, bình ổn, hòa kính, hòa hợp, vui vẻ, tương ưng. ‘Chánh’ là như một, luôn giữ như một. Chánh gồm đủ các nghĩa: đúng đắn, không thiên lệch, thường, ngưng dứt, hạnh không lệch lạc, tà vạy, thẳng thắn, chẳng khuất khúc. Thánh chúng cõi Cực Lạc hòa bình, trung chánh, vì cầu vô thượng đạo nên chẳng bị những điều nghiêng lệch, tà vạy làm lầm lẫn. ‘Khuynh’ là nghiêng lệch, lật úp; ‘tà’ là tà ác, tà ngoại.
Thánh chúng cõi ấy chẳng bị những thứ khuynh tà làm lầm lạc là vì họ ‘tuân theo những ước thúc, giáo lịnh trong kinh như giữ thừng mực, chẳng dám sai sảy’. ‘Lịnh’ là mạng lịnh, pháp luật, giáo lịnh. ‘Thừng mực’ là như khi thợ mộc thao tác, dùng sợi dây làm mực [căng ra] búng dây đánh dấu, rồi cứ theo dấu ấy mà làm chẳng dám sai chạy chút nào nên khỏi bị hư hao, chẳng bị cong vạy, lệch lạc.
Trong phẩm Siêng Tu Giữ Vững của kinh này, những câu như: ‘Tùy thuận lời dạy của ta là hiếu với Phật’, ‘chẳng được làm xằng, tăng giảm kinh pháp’ cũng mang cùng ý nghĩa như vậy. Ðấy chính là ‘rời ngoài một chữ trong kinh thì giống như lời ma nói’. Những hành nhân trong đời phải nên lấy thánh ngôn làm chỗ y chỉ vậy.
‘Ðều vì mộ đạo, tâm thênh thang, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ’: Câu thứ nhất ý nói những điều mong cầu trong tâm đều là lẽ đạo tột cùng. Câu thứ hai ý nói: tâm mênh mông, chẳng còn vọng niệm. Ý câu ba là tín tâm kiên định, trí huệ rõ suốt không nghi nơi pháp, nên chẳng còn có ý tưởng lo nghĩ.
Nếu hiểu theo quan điểm của Tịnh tông thì ‘tâm thênh thang, trọn không còn niệm khác’ chính là buông bỏ vạn duyên, ‘đều vì mộ đạo’ là chỉ đề cao nhất niệm, ‘không còn lo nghĩ’ chính là ngay trong một niệm là Phật.
Một tiếng niệm Phật hiệu muôn mối lo nghĩ đều tiêu tan, linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần, chỉ còn lại mỗi cái tâm đã hết sạch phiền não nên còn có gì là vui, gì là buồn nữa. Vì thế, kinh mới bảo ‘chẳng có lo nghĩ’.
Chánh kinh: Tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập. Ðạm bạc, an tịnh, vô dục tạo thành thiện nguyện. Tận tâm gắng gỏi, xót thương từ mẫn, đều hợp lễ nghĩa. Sự lý viên dung, quá độ giải thoát.
Giải: Hai chữ ‘tự nhiên’ xuyên suốt toàn đoạn kinh này, ấy là do ‘khế hội Trung Ðạo’ nên tự nhiên như thế.
‘Tự nhiên vô vi’ là chẳng do tạo tác, tự nhiên an trụ trong pháp vô vi. Ðấy là vô vi chơn thật. Nếu là do tạo tác thì đã trở thành hữu vi rồi.
Chữ ‘hư không’ ngụ ý tâm như hư không, rộng mở vô hạn, ly cấu vô nhiễm, chẳng nhận chứa mảy trần. ‘Chẳng lập’ nghĩa là chẳng lập một pháp nào cả.
‘Ðạm’ là đạm bạc, ‘an’ là an tịnh. Chữ ‘đạm an’ còn dùng để mô tả trạng thái nước tuôn chảy êm đềm, đầy tràn. Sóng nước liên tục tựa như luôn tiếp nối nhau nên được dùng để ví cái tâm lìa khỏi Ðoạn lẫn Thường. Dòng nước êm đềm, tràn đầy ví như cái tâm bình đẳng, viên mãn.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘dục’ trong ‘vô dục’ như sau: ‘Nhiễm ái trần cảnh gọi là dục’. Sách còn bảo: ‘Muốn nhận lấy duyên thì gọi là dục’. Câu Xá Luận lại bảo: ‘Dục là mong cầu làm ra sự nghiệp’.
Theo đó, những điều như ‘bỏ các chấp trước ái kiến’ và ‘cũng chẳng có ý tưởng mong cầu hay chẳng mong cầu’ được nói trong kinh này đều là ‘vô dục’ cả.
Ba câu vừa giảng trên đều thể hiện ý ‘về mặt lý chơn thật Thật Tế, chẳng nhận lấy mảy trần’; nhưng đối với muôn hạnh môn lại ‘chẳng bỏ một pháp nào’ nên kinh mới dạy tiếp: ‘Tạo thành thiện nguyện, tận tâm gắng gỏi’, hiển thị rõ ràng diệu nghĩa sự lý vô ngại, viên dung tự tại.
Trong phẩm Ðức Tuân Phổ Hiền đã nói: các đại Bồ Tát trong hội ‘nhập không, vô tướng, vô nguyện pháp môn’, nhưng các vị ‘đều cùng tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện’. Ðiều ấy thật tương đồng với sự kiện các Bồ Tát lại do vô vi, vô nguyện, vô lập, vô dục mà ‘tạo thành thiện nguyện, tận tâm gắng gỏi’ được nói ở đây. Ta thấy rõ, thánh chúng cõi Cực Lạc đều tôn thờ Di Ðà, tu tập chuyên gắng, trụ chơn thật huệ để cầu thành tựu.
Tiếp đó, chữ ‘xót thương’ chỉ tâm đại bi. ‘Từ mẫn’ là tâm đại từ. Do đại từ bi nên dẫu biết rõ thật không có chúng sanh để độ, nhưng hạnh nguyện độ sanh vẫn chẳng cùng tận. Bởi thế ‘tâm thường trụ chắc nơi đạo độ thế’, ‘muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật’. Cái đại nguyện được kết thành ấy tự nhiên khế lý khế cơ, chiếu chơn, đạt tục; do khế lý chiếu chơn nên đại nguyện ấy lấy Thật Tướng làm thể, liễu nghĩa rốt ráo, lực dụng vô lượng. Do khế cơ và thấu hiểu thế gian nên khéo phù hợp cơ nghi.
‘Ðều hợp lễ nghĩa’: Lễ nghĩa chính là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, tức là đạo đức thế gian. Hai chữ này chẳng những để chỉ đạo đức của xã hội đương thời hay thời cổ Ấn Ðộ mà còn chỉ chung tất cả các chuẩn mực, quy luật đạo đức của xã hội trong các thời đại mai sau. Ðại nguyện đã phát phải phù hợp với đạo đức xã hội thì mới được xã hội đương thời chấp nhận; có như vậy mới có thể hoằng dương giáo nghĩa, lợi khắp các chúng sanh được.
‘Sự lý viên dung’ (nguyên văn là ‘bao la biểu lý’): ‘Bao’ là chứa đựng; ngài Gia Tường giảng: ‘La là thâu tóm’. Như vậy, ‘bao la’ nghĩa là bao dung, hàm chứa. ‘Biểu’ (bên ngoài) chỉ sự tướng; ‘lý’ (bên trong) chỉ lý thể. Do đó, ‘bao la biểu lý’ chính là Sự lẫn Lý cùng viên mãn, chơn lẫn tục cùng chiếu, trọn thâu các điểm nhiệm mầu, nhiếp khắp muôn loại: thượng trí hạ ngu đều được độ thoát. Thế gian, xuất thế gian đều dung thông vô ngại.
‘Quá độ’: Bản Ngô dịch ghi tựa đề kinh này là ‘Quá Ðộ Nhân Ðạo Kinh’; quá độ nghĩa là tự mình thoát khỏi sanh tử lại còn khiến cho người khác cũng thoát sanh tử.
‘Giải thoát’ là cởi bỏ những trói buộc của hoặc nghiệp, thoát khỏi cái khổ tam nghiệp. Sách Duy Thức Thuật Ký nói: ‘Giải là rời khỏi triền phược, thoát là tự tại’.
Sách còn bảo: ‘Nói giải thoát đó thì thể của nó là viên tịch. Các hữu tình do bị phiền não chướng ngại, trói trăn nên luôn ở trong sanh tử. Chứng được viên tịch rồi thì xa lìa được những trói trăn đó nên gọi là giải thoát’.
Ý nói: đại nguyện của thánh chúng là không những chỉ nhằm khiến tự thân thoát khỏi sanh tử mà còn làm cho hết thảy hữu tình cùng thoát khỏi sanh tử, vĩnh viễn được giải thoát nên mới bảo là ‘quá độ giải thoát’.
Chánh kinh: Tự nhiên chẳng thay đổi, chơn thật tuyệt đối, khiết bạch, chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt tướng tự nhiên của tự nhiên, tự nhiên tự có căn bổn, tự nhiên quang sắc nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối thắng. Uất Ðan thành thất bảo. Tự nhiên từ hư không hiện ra vạn vật, quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện, tốt lành thật khôn sánh, soi tỏ nơi không trên dưới, thông suốt không bờ mé.
Giải: ‘Tự nhiên bảo thủ’ (tạm dịch là ‘tự nhiên chẳng thay đổi’) chính là như nhà Thiền thường nói là ‘bảo nhậm’. Nhậm là nhậm vận (tùy ý), cần đi thì đi, muốn ngồi cứ ngồi. Bảo là niệm niệm chẳng sai khác. Tự nhiên nghĩa là tùy ý. Vì thế, ‘tùy ý giữ gìn chẳng thay đổi’ là bảo nhậm vậy.
‘Chơn’ là nhất chơn pháp giới, là thể tánh Chơn Như, là chơn tâm diệu minh, ý nghĩa giống như chữ ‘chơn’ trong ‘chơn thật tế’ được nói trong kinh này. Ở đây kinh ghi là ‘chơn chơn’ (tạm dịch là ‘chơn thật tuyệt đối’) hàm ý: Ðây chẳng phải là chơn do so với vọng mà nói, mà là lẽ chơn thật đã dứt bặt mọi đối đãi, là lẽ chơn thật trong Chơn Ðế.
‘Khiết’ là vô cấu, ‘bạch’ là vô nhiễm, tức là như Lục Tổ bảo: ‘Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh’, cũng tức là như tổ Bách Trượng dạy: ‘Tâm tánh vô nhiễm vốn tự viên thành’. Cái được ta tùy ý gìn giữ chính là cái chơn tâm vô nhiễm vốn sẵn thanh tịnh dứt tuyệt mọi đối đãi này.
‘Vô thượng’ là như Vãng Sanh Luận Chú giảng: ‘Vô thượng là đạo này cùng tột lý, cùng tận tánh, không còn có gì hơn nổi’. Lấy đó làm chí nguyện nên bảo là ‘chí nguyện vô thượng’.
‘Tịnh định’ là tâm thanh tịnh, vắng lặng, bất động.
‘An lạc’ là an nhiên tự tại, tùy ý thường vui sướng.
‘Một mai’ (nhất đán) là chỉ trong một sát na nào đó.
Ấy là vì ‘vô thượng’ chính là chỗ đi chẳng đến được nên không thể tính được hành trình, chẳng thể nói nổi kỳ hạn, chỉ trong vô tâm tam muội (như lời dạy của Cao Phong thiền sư) đột nhiên sờ phải, va nhằm, mò đúng cái chốt hướng thượng, trong sát na tương ưng, thấu suốt nguồn tâm, khế nhập lý nhất tâm nên mới bảo là ‘một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt’ (nguyên văn: nhất đán khai đạt minh triệt).
‘Khai’ là tâm khai ngộ, ‘đạt’ là hiểu rõ, ‘minh’ là minh bạch như Tín Tâm Minh nói: ‘Minh bạch thấu suốt’. ‘Triệt’ là thấu triệt, cũng có nghĩa là triệt ngộ.
Ngộ được gì? Chỉ là ngộ được ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’. Như kẻ cuồng trong kinh Lăng Nghiêm mê mờ tưởng đầu mình bị mất, chạy cuồng đi tìm là chẳng tự nhiên. Một khi hết cuồng thì hết cuồng chính là Bồ Ðề, đầu mình vẫn y đó, chẳng phải là ‘tự nhiên’ hay sao?
Lại như lúc cổ đức chứng ngộ đã bảo: ‘Sư cô vốn là đàn bà’, lại cũng như câu nói: ‘Sớm biết đèn là lửa, cơm đã chín mấy dạo’. Tỳ kheo ni là đàn bà, đèn tức là lửa, đều là những ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’.
Lại như lúc chưa ngộ, bảo núi là núi, sông là sông. Người ngộ bảo núi chẳng phải là núi, sông chẳng phải là sông. Bậc triệt ngộ bảo núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Cao Phong thiền sư bảo: ‘Ði, về vẫn là người khi xưa, chỗ đi về năm xưa vẫn chẳng thay đổi!’. Chỉ vẫn là như cũ nên chẳng phải là tự nhiên hay sao?
Thêm nữa, ‘tướng tự nhiên’ chính là Thật Tướng vốn sẵn của tự tánh. Vì vậy, núi, sông, nam, nữ, thời nay, thời xưa… không thứ nào chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào, ngay nơi tướng chính là Ðạo, ngay nơi sự chính là chơn, thứ nào cũng đều vốn sẵn thanh tịnh, thứ nào cũng là ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’.
‘Căn bổn’ chính là bổn thể, là tự thể căn bổn của hết thảy các pháp. Kinh Ðại Nhật nói: ‘Một thân, hai thân cho đến vô lượng thân đều thuộc trong bổn thể’. Câu kinh này đã giảng rõ ý nghĩa chữ ‘căn bổn’. Bổn còn là bổn tâm, tức là nguồn cội tự tâm. Bổn còn có nghĩa là bổn tánh, tức là tánh đức cố hữu.
Chữ ‘có’ trong câu ‘tự có căn bổn’ rất thiết yếu. ‘Có’ là như kẻ cuồng sẵn có cái đầu, quyết định là có, chẳng từ bên ngoài mà có. Trong Tâm Vương Minh, Phó Ðại Sĩ đã viết: ‘Nước có vị mặn, sắc vẫn trong veo, quyết định là có, nhưng chẳng thấy hình. Tâm vương cũng vậy, ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, tùy theo tình huống thích ứng, hoàn thành các việc’. Bốn chữ ‘quyết định là có’ đã mở toang mật tạng của chư Phật, nghĩa là tâm vương của con người quyết định là có, giống như vị mặn trong nước. Vị mặn ấy chắc chắn là có, nhưng chẳng thấy được hình dáng của vị mặn đó. Ngài Tào Sơn (sư tổ tông Tào Ðộng) cũng nói: ‘Chỉ cần biết có là được, chẳng luận là còn đang trong phiền não, vô minh’. Như vậy, muôn phần chẳng thể coi thường cái chữ ‘có’ này được.
Câu ‘tự nhiên tự có căn bổn’ có hai ý nghĩa:
a. Thể tánh của vạn tượng sum la là không hai. Ngàn con sóng đều là nước, muôn thứ vật dụng đều là vàng. Trong tự nhiên tự có bổn thể. Cái bổn thể ấy chính là căn bổn.
b. Hai là chẳng do tạo tác, nhất niệm đốn ngộ nên bảo là tự nhiên. Hiểu rõ vạn pháp đều nằm gọn trong tự tâm, thấy ngay được Chơn Như tự tánh. Tự tánh của tự tâm chính là căn bổn nên bảo là ‘tự nhiên có căn bổn’.
Kinh Tịnh Danh nói: ‘Ngay lập tức rỗng rang, lại đạt được bổn tâm’. ‘Rỗng rang’ chính là ‘một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt’. Cái bổn tâm lại tìm được ấy chính là ‘tướng tự nhiên trong tự nhiên, tự nhiên tự có căn bổn’.
Kinh Bồ Tát Giới còn bảo: ‘Tự tánh của ta vốn thanh tịnh. Nếu hiểu biết tự tâm, thấy được tánh thì đều thành Phật đạo’, đủ chứng tỏ câu nói của tổ Tào Sơn: ‘Chỉ cần biết có là được’ chính là tâm ấn mà chư Phật đã truyền cho nhau. Trạm Ngu lão nhân nói: ‘So với Lục Tổ, Tào Sơn chỉ nắm được cái chuôi này’.
‘Tự nhiên quang sắc hồi tham, chuyển biến tối thắng’ (tạm dịch: ‘Tự nhiên quang sắc xoay chuyển nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối thắng’): Tham là nhập vào, các ánh sáng chập vào nhau. Hồi là xoay chuyển, chuyển vần trọn khắp không ngừng, biến hóa không trở ngại vậy. Thể của Thật Tướng là chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại thường tịch, thường chiếu. Tịch nhưng thường chiếu, chiếu nhưng thường tịch nên từ pháp thân lưu xuất báo thân, hóa thân; từ lý thể sanh ra vô lượng tướng dụng vi diệu. Do đó, từ căn bổn của tự nhiên ấy tự nhiên sanh ra vô lượng quang minh, sắc tướng nhập lẫn vào nhau, xoay vần biến hóa, vượt xa mười phương nên kinh bảo là ‘tối thắng’.
Trong kinh thường hay dùng bảo châu để ví cái tâm. Quán kinh nói: ‘Mỗi một bảo châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám vạn bốn ngàn kim sắc khác nhau. Mỗi một kim sắc chiếu khắp cõi báu biến thành các tướng khác nhau: hoặc biến thành đài kim cang, hoặc biến thành lưới chơn châu, hoặc biến thành mây nhiều màu. Khắp mười phương tùy ý biến hiện thực hành Phật sự’.
Kinh còn nói: ‘Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Quang minh, tướng hảo ấy và các hóa Phật [hiện ra trong các quang minh ấy] chẳng thể nói trọn’.
Những đoạn kinh trên đã tả thật rõ quang minh, sắc tướng vi diệu khó nghĩ lường, tùy ý biến hiện. Trong quang minh có màu sắc, trong màu sắc lại hiện tướng. Các tướng đẹp mầu nhiệm như lưới châu v.v… đều chỉ là từ một sắc biến hiện. Lại như Phật có đủ các tướng hảo, trong mỗi tướng hảo lại phóng quang. Trong quang minh lại có Phật hiện. Ðấy đều là những điều đã thể hiện cùng tột ý ‘xoay chuyển, nhập lẫn vào nhau’ trong đoạn kinh này; còn ‘thực hành Phật sự’ và nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới chẳng bỏ; ấy chính là những sự ‘tối thắng’.
Tham chiếu những kinh văn vừa được trích dẫn trên đây, ta thấy các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc đều là từ căn bổn của tự nhiên biến hiện ra. Ðó chính là như Vãng Sanh Luận nói: ba thứ trang nghiêm đều nhập trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú, tức là chơn thật trí huệ vô vi pháp thân. Vì vậy, ‘căn bổn của tự nhiên’ chính là một thanh tịnh cú như Vãng Sanh Luận đã bảo.
‘Uất Ðan thành thất bảo’: Uất Ðan nói đủ là Uất Ðan La Cứu Lưu, hoặc còn phiên là Uất Ðan Việt, Câu Lô v.v… ở đây, chỉ gọi tắt là Uất Ðan. Ðó chính là tên của một trong bốn đại châu ở phương Bắc, dịch nghĩa là Cao Thượng Tác, Thắng Thượng Sanh, Cao Thắng.
Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa nói: ‘Tàu dịch là Cao Thượng Tác, nghĩa là cao trỗi hơn các phương khác, cũng có nghĩa là thù thắng hơn cả’. Sách viết thêm: ‘Câu Lô châu, Tàu dịch là Thượng Thắng, hoặc dịch là Thắng Sanh’. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn bảo châu này ‘ở dưới trời Tứ Thiên (tức là trong thế gian này). So với ba châu kia, châu này tối thượng tối thắng, tối diệu’.
Bản Ngô dịch ghi ý ‘Uất Ðan thành thất bảo’ như sau: ‘Tự nhiên như Uất Ðan, tự nhiên thành thất bảo’.
Theo như Hoa Nghiêm Sớ Sao, quyển mười ba thì: ‘Uất Ðan Việt, Tàu dịch là Thắng Sanh vì [ở đó] quyết định thọ đến một ngàn tuổi, cơm áo tự nhiên vậy’. Nhân dân sống nơi châu ấy không cần phải cày bừa, dệt vải, làm lụng mà cơm áo tự nhiên dư dật. Câu ‘tự nhiên như Uất Ðan’ trong bản Ngô có ý nói đến sự tự nhiên này.
Bản hội tập trích theo bản Hán dịch nên ghi là ‘Uất Ðan thành thất bảo’, chính là gộp cả hai ý của câu văn trong bản Ngô dịch, hàm ý: [Cõi Cực Lạc] giống như châu Uất Ðan tự nhiên sanh ra đầy đủ, tràn ngập các thứ cơm áo, vật dụng; lại còn tự nhiên sanh ra bảy báu thắng thượng.
‘Hoành lãm thành vạn vật’ (dịch ý là: ‘Tự nhiên từ hư không hiện ra vạn vật’): Chữ ‘hoành’ chỉ không gian, ‘lãm’ là nắm giữ, rút lấy, dẫn dắt, ‘vạn vật’ là hết thảy các vật. Do vậy, ‘hoành lãm thành vạn vật’ có nghĩa là tự nhiên từ mười phương hư không hiện ra vạn vật. Hết thảy vạn sự, vạn vật đều sanh từ căn bổn tự nhiên, mà ‘căn bổn tự nhiên’ chính là như kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: ‘Vốn là cái thể mầu nhiệm, sáng sạch của Bồ Ðề’. Tức là: vạn vật đều từ trong Ðại Quang Minh Tạng xuất hiện.
Trong cõi Cực Lạc cũng giống như thế: tất cả đều do đại nguyện của đức Di Ðà tạo thành, tất cả đều là cái sẵn có trong cái tâm thanh tịnh của chúng sanh. Vì thế kinh chép: ‘Vạn vật trong nước nghiêm tịnh sáng đẹp, hình sắc đẹp đẽ lạ lùng, cùng vi cực diệu không thể tính kể nổi’.
‘Quang tinh minh câu xuất’ (tạm dịch là: ‘Quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện’): ‘Quang’ là quang minh, ‘tinh’ là tinh diệu, ‘minh’ là minh tịnh (sáng sạch), ‘xuất’ là xuất hiện. Tự tâm vốn đủ cả vạn đức, đã sạch bụi vô minh thì nó trở thành thanh tịnh trang nghiêm, quang minh vi diệu, đẹp đẽ, khiết tịnh, hết thảy diệu tướng cùng hiện ra cả nên kinh bảo: ‘Quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện, tốt đẹp thật khôn sánh’.
Phần trên, kinh đã nói: ‘Quang sắc chói ngời, trang nghiêm, đẹp đẽ đến cùng cực’ và ‘thanh tịnh trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy thế giới trong mười phương’. Do vậy, mười phương thế giới thật chẳng thể sánh nổi những điều đẹp đẽ tốt lành nơi cõi Cực Lạc.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘soi tỏ nơi không trên dưới, thông suốt không bờ mé’ (nguyên văn: ‘Trước ư vô thượng hạ, đỗng đạt vô biên tế’) như sau:
‘Cái lý được chứng nhập ấy là pháp bình đẳng, chẳng có cao, thấp nên gọi là “không trên dưới”. Theo bề dọc thì sâu xa, theo bề ngang thì rộng rãi, chẳng có ranh giới nên gọi là ‘không bờ mé’. Ấy tức là những điều được quán chiếu bởi Phật trí. “Trước” (tạm dịch là ‘soi tỏ’) có nghĩa là sáng tỏ, “đỗng đạt” nghĩa là chứng nhập’.
Theo đó, câu đầu (tức câu ‘soi tỏ nơi không trên dưới’) là nói đến lý thể được Bồ Tát chứng nhập, lý thể ấy là Như Như. Câu thứ hai (tức câu ‘thông suốt không bờ mé’) nói đến Phật trí luôn soi chiếu, Phật trí ấy chính là Như Như trí.
Nghĩa là: lý thể được nói ở đây chính là ‘căn bổn tự nhiên’. Phật trí thông suốt vì từ căn bổn ấy phát sanh cái tướng trí huệ tự nhiên. Bản thể và công dụng giống hệt nhau: Lý và Trí chẳng hai, Năng lẫn Sở cùng mất, dứt bặt đối đãi một cách viên dung; ngôn ngữ lẫn tư duy đều chẳng thể diễn tả nổi. ‘Không trên dưới’ là bản thể của cái Lý được chứng nhập ấy vốn sẵn bình đẳng. Những câu kinh như ‘Pháp này bình đẳng chẳng có cao, thấp’ và ‘Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt’ đều nói lên ý nghĩa bình đẳng. Do bình đẳng nên không có cao, thấp.
‘Trước’ (tạm dịch là ‘soi tỏ’) là ‘hiển trước’ (làm sáng tỏ), ‘chiếu trước’ (chiếu soi), đều có nghĩa là hiển lộ cho nên sách Hội Sớ mới giảng: ‘Chữ “trước” là sáng tỏ’. Sách Hội Sớ thật khéo dùng chữ ‘minh’ (sáng tỏ) để giải thích chữ ‘trước’ vì chữ ‘minh’ ấy chính là ‘minh tâm kiến tánh’ vậy. Ðiều được ta thấu tỏ chính là cái lý thể bình đẳng không trên dưới tức là cái tâm này của ta.
Về chữ ‘đỗng đạt’ (tạm dịch là ‘thông suốt’) thì ‘đỗng’ là rõ ràng, minh bạch, ‘đạt’ là hiểu thấu cái tâm, rõ thấu đến tận nguồn cội. Hiểu rõ cùng tận nguồn tâm nên bảo là ‘đỗng đạt’. Do vậy, Hội Sớ dùng chữ ‘chứng nhập’ để giải thích chữ ‘đỗng đạt’.
‘Không bờ mé’ là [như không gian] xét theo chiều dọc thì tột cùng cả trên lẫn dưới; theo chiều ngang thời cả tám phương đều chẳng hề có bờ mé, chẳng thể cùng tận. Khả năng chiếu soi của Phật trí cũng giống như thế nên sách Hội Sớ mới giảng: ‘Ấy tức là những điều được quán chiếu bởi Phật trí’.
Ngài Gia Tường giảng: ‘Chứng quả chẳng có hình sắc tốt xấu sai khác. “Ðỗng đạt” là trí, “vô biên tế” là cảnh Chơn Ðế’. Ý nói: Quả giác được chứng ấy không có những hình tướng sai khác, đó là ‘không trên dưới’. Trí khế hợp với cảnh Chơn Ðế nên ‘không bờ mé’. Như vậy, ngài Gia Tường đồng quan điểm với sách Hội Sớ.
Còn ngài Tịnh Ảnh lại giải thích theo cách khác, ngài viết: ‘Chỉ nghĩ nhớ đến đạo, hạnh đức tỏ rõ, chẳng phân biệt là thượng căn hay hạ căn đều cùng được vãng sanh nên bảo là “trước ư vô thượng hạ”. Như đã được vãng sanh rồi thì thấu suốt cùng tột các thần thông không giới hạn nên bảo là ‘đỗng đạt vô biên tế’. Ý ngài nói: Ba bậc thượng, trung, hạ đều được vãng sanh nên bảo là ‘không trên dưới’. Do nhân dân cõi Cực Lạc đều có thần thông vô hạn nên bảo là ‘không bờ mé’. Ta nên vận dụng cả ba thuyết này.
Chánh kinh: Ai nấy đều nên siêng tinh tấn, nỗ lực tự cầu lấy thì ắt được siêu tuyệt, vãng sanh cõi Phật A Di Ðà thanh tịnh vô lượng, chặt ngang năm đường, ác đạo tự đóng lấp. Ðạo thù thắng vô cực dễ đi mà chẳng có người theo! Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo. Lắng lòng dường hư không, siêng hành cầu đạo đức ngõ hầu được trường sanh cùng cực, thọ lạc chẳng có cùng cực. Sao lại mê đắm sự đời, nhao nhác lo chuyện vô thường?
Giải: Những đoạn kinh trước đoạn kinh này đều nói về công đức trí huệ của thánh chúng cõi Cực Lạc; còn trong đoạn này là lời đức Thế Tôn nhắc nhở đại chúng trong pháp hội phải siêng năng tu tập cầu sanh Cực Lạc.
Trước đó, ngài đã khai thị: chơn tâm thường trụ ai ai cũng có, ai cũng có thể thành Phật. Tâm vốn tự thanh tịnh sanh ra muôn pháp. Ngộ thì khế hợp ngay với bổn Phật, mê thì chìm mất trong sanh tử.
Ngay khi ấy, đức Thế Tôn còn xót thương, buông lời khuyên dụ từ bi: đại chúng đã biết ‘tâm này là Phật’ thì phải tinh tấn để ‘tâm này làm Phật’. Vì thế Phật mới nói: ‘Ai nấy đều nên siêng tinh tấn…’. Chữ ‘ai nấy’ không những chỉ để chỉ những người trong pháp hội lúc ấy mà còn kiêm chỉ hết thảy những ai trong đời sau nghe được pháp này: Ai nấy đều phải tuân theo lời dạy từ bi của đức Phật, tin nhận, phụng hành, niệm Phật vãng sanh nhằm thể hiện phương tiện rốt ráo ‘tâm này làm Phật’.
‘Ai nấy đều nên siêng tinh tấn, nỗ lực tự cầu lấy’ là lời đức Phật khuyên đại chúng ai nấy đều phải nên tinh tấn siêng tu, nỗ lực tự thực hành cầu sanh Tịnh Ðộ, chứng triệt để nguồn tâm, viên mãn Phật trí.
Luận Câu Xá giảng chữ ‘siêng’ như sau: ‘Siêng là khiến cho tâm dũng mãnh trở thành tánh’. ‘Siêng’ cũng có nghĩa là tinh tấn. ‘Cầu’ là cầu đạo, mà cũng chính là cầu sanh Tịnh Ðộ. Phẩm Chí Tâm Tinh Tấn trong kinh này có câu: ‘Người chí tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả’. Vì thế, tiếp theo ngay câu ‘ai nấy nên siêng tinh tấn…’ kinh nói tiếp: ‘Ắt được siêu tuyệt’.
Chữ ‘tự’ trong câu ‘nỗ lực tự cầu lấy’ rất quan trọng. Những chữ ‘tự’ trong các câu như ‘ông nên tự biết’, ‘ông nên tự nhiếp’ được ghi trong kinh này cũng đóng vai trò quan trọng như vậy. Sách Hội Sớ nói: ‘Vui cầu nơi chính mình, mà cái “chính mình” đó chính là tự tâm. Vì thế nói là “tự cầu”. Ý nói: Tịnh tông tuy là tha lực pháp môn, nhưng tự tâm hành nhân nếu chẳng tinh tấn, đoạn trừ nghi hoặc, sanh lòng chánh tín sâu xa, khẩn thiết nguyện cầu được vãng sanh thì trọn chẳng được vãng sanh. Bởi thế, Phật căn dặn ‘nỗ lực tự cầu lấy’.
‘Tâm này là Phật’ là tánh đức; ‘tâm này làm Phật’ là tu đức. Có công tu đức thì tánh đức mới được hiển hiện. Vì thế, nỗ lực tự cầu thì ‘ắt được siêu tuyệt’. ‘Siêu’ là siêu thoát, ‘tuyệt’ là diệt sạch, trừ dứt. Do đó, ‘siêu tuyệt’ là vượt thoát luân hồi, đoạn trừ sanh tử.
Sách Hội Sớ viết: ‘Ngay trong một lúc nhanh chóng vượt khỏi tam giới, đoạn tuyệt các nghiệp buộc ràng trong bao kiếp nên bảo là “siêu tuyệt”, mà cũng là do đã đoạn tuyệt [nghiệp chướng] nên được siêu thoát vậy’. Thánh, phàm, trí, ngu, chín phẩm muôn loài ai nấy đều được ‘siêu tuyệt’ toàn là nhờ vào Di Ðà Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, từ quả khởi tu, chỉ trong một đời được thành tựu nên đều được sanh về ‘cõi Phật A Di Ðà thanh tịnh vô lượng’.
Hễ được vãng sanh thì do nương vào sức gia hộ của Di Ðà bổn nguyện sẽ chẳng bị đọa vào ba ác đạo nữa nên kinh mới nói: ‘Ác đạo tự đóng lấp’. Ai nấy đều đạt bất thối cho mãi đến khi thành Phật nên kinh mới bảo: ‘Chặt ngang năm đường’. Năm đường (ngũ thú) là ba ác đạo và cả hai nẻo: nhân, thiên. Do A Tu La được tính gộp vào thiên thú nên ‘năm đường’ cũng chính là ‘sáu nẻo’. Nhân thú, thiên thú vốn được gọi là ‘thiện thú’ (đường lành) nhưng vẫn bị coi là ‘ác thú’ là do so sánh với Cực Lạc mà nói.
Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Ba ác đạo gọi là “ác thú”, hai đường nhân, thiên gọi là “thiện thú”. Nay đem sánh với cõi thanh tịnh của Phật Di Ðà thì cả năm đường trong cõi Sa Bà đều được gọi là “ác thú”.
Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều là chỗ kẻ thuần ác hướng đến nên gọi là “ác thú”. Cõi trời, cõi người của Sa Bà là chỗ kẻ tạp ác hướng đến nên cũng gọi là “ác thú”.
Nếu theo như phương này thì phải tu tập đoạn trừ, trước hết đoạn Kiến hoặc, lìa khỏi cái nhân tạo ra tam đồ, diệt cái quả tam đồ. Sau đấy, đoạn Tu hoặc, lìa khỏi cái nhân sanh trong nhân, thiên, tuyệt quả nhân thiên. Do có đoạn trừ dần dần nên chẳng gọi là chặt ngang”.
Còn nếu được vãng sanh về Tịnh Ðộ của Phật Di Ðà thì bỏ ngay một lúc cả năm đường trong Sa Bà nên gọi là chặt ngang’.
Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Ắt được siêu tuyệt, chẳng phải đoạn trừ theo thứ tự nên bảo là chặt ngang’.
Do đó, ‘chặt ngang’ có nghĩa là hoành xuất, hoành siêu (vượt khỏi tam giới theo chiều ngang; các pháp môn khác phải theo thứ tự đoạn trừ dần từng lớp phiền não để thoát khỏi sanh tử nên gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều dọc (thụ siêu, thụ xuất)). Sách Gia Tường Sớ lại bảo: ‘Tu nhân Bồ Ðề, dứt ngang sự chuyển vần trong năm đường nên ‘ác đạo tự đóng lấp’. Chữ ‘tự’ ở đây là ‘tự nhiên’.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘vô cực’ trong câu ‘đạo vô cực thù thắng’ như sau: ‘Phàm phu sanh về đó liền chóng tiến lên quả địa nên bảo là vô cực’. Bản Ngụy dịch ghi là ‘vô cùng cực’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Câu “thăng lên đạo vô cực” diễn tả cái sở đắc. Ðắc đạo sâu rộng nên bảo là vô cực’.
Như vậy, sách Hội Sớ cho rằng phương tiện khiến cho phàm phu nhanh chóng chứng được quả vị là phương tiện tột cùng, chẳng thể thấu hiểu đến cùng cực được nên phương tiện đó được xưng tụng là ‘vô cực’; còn Tịnh Ảnh Sớ lại coi tánh đức sâu rộng khó nghĩ lường của quả vị là ‘vô cực’. Còn theo Gia Tường Sớ thì: ‘Người sanh về nhiều nên bảo là vô cực’, tức là ngài Gia Tường hiểu do đạo ấy khiến vô lượng người được vãng sanh nên đạo ấy được gọi là ‘vô cực’.
Thế thì: người vãng sanh nhiều vô cực, đắc quả nhanh chóng là phương tiện vô cực. Tánh đức thù thắng của quả đức rộng sâu vô cực khiến ta thấy được rằng: ân đức của Phật Di Ðà là rốt ráo vô cực nên kinh mới chép là ‘đạo vô cực thù thắng’.
Câu ‘dễ đi mà chẳng có người theo’ được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Tu nhân liền được sanh về nên gọi là “dễ đi”. Không có kẻ tu nhân, ít người vãng sanh nên bảo là “chẳng có người theo”. Ngài Gia Tường bảo: ‘Chỉ tu mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, mà ít người thực hành nên mới bảo là “dễ đi mà chẳng có người theo”.
Ở trên, ngài Gia Tường vừa bảo nhiều người được vãng sanh, ở đây lại nói ít kẻ vãng sanh, tựa hồ mâu thuẫn, nhưng thật sự hai lời nói trên chẳng hề trái nghịch nhau. Vì nếu xét theo số người được vãng sanh trong mười phương mà nói thì đúng là rất nhiều; còn nếu chỉ luận theo uế độ đây thì người tín nguyện vãng sanh rất là hiếm hoi. Vì thế, Phật bảo là ‘chẳng có người theo’.
‘Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo’: Câu đầu ý nói cõi ấy chẳng nghịch, chẳng trái đối với những người được vãng sanh; còn câu kế đó được cổ đức giải thích theo hai cách:
a. Ngài Tịnh Ảnh cho rằng: ‘Cõi ấy chẳng trái nghịch’ thể hiện ý “dễ đi”. “Tự nhiên lôi kéo” thể hiện ý “chẳng có người”. Chúng sanh cõi Sa Bà mang triền cái từ lâu nên tự nhiên bị lôi kéo, trói buộc, chẳng thoát được nên “chẳng có người”. Ý nói: Cõi Cực Lạc đối với những người vãng sanh chẳng hề trái nghịch mảy may, nên trước hết bảo là ‘dễ đi’. Hiềm vì người cõi Sa Bà vốn từ lâu đã bị buộc ràng che lấp bởi phiền não nên tự nhiên bị chúng lôi kéo, chẳng sanh lòng nhàm chán thì làm sao vãng sanh nổi nên kinh mới bảo là ‘chẳng có người’.
b. Ngài Pháp Trụ bảo: ‘Tự nhiên lôi kéo là nhân viên mãn, quả chín muồi, chẳng nhọc dụng công mà tự nhiên chiêu cảm’. Ngài Gia Tường nói: ‘Tu nhân ắt sẽ chiêu cảm quả nên bị quả ấy lôi kéo’. Quan điểm của hai vị Pháp Trụ và Gia Tường giống nhau, cùng cho rằng tu nhân đắc quả, tự nhiên do quả ấy sẽ được vãng sanh.
Những thuyết trên tuy khác nhau, nhưng đều phù hợp ý kinh.
Trong câu ‘quyên chí nhược hư không, cần hành cầu đạo đức’ (tạm dịch: ‘Lắng lòng dường hư không, siêng hành cầu đạo đức’), ‘quyên’ là dứt bỏ, tâm chán lìa tột bực, không mong cầu chuyện đời, tấm lòng rỗng không, tịch tĩnh, thanh tịnh, không cấu nhiễm, khác nào hư không nên kinh mới bảo là ‘quyên chí nhược hư không’. Câu này cũng có nghĩa là buông bỏ muôn duyên.
‘Ðạo đức’: Chánh pháp gọi là ‘đạo’; đắc đạo chẳng để mất là ‘đức’. ‘Siêng hành cầu đạo đức’ chính là chỉ giữ lấy một niệm.
‘Ngõ hầu được trường sanh cùng cực, thọ lạc chẳng có cùng cực’: Thế gian chẳng có pháp trường sanh chơn thật, chỉ có vãng sanh thì mới được trường sanh. Kinh dạy: ‘Cõi ấy Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng’. Trong cõi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui: thấy Phật, nghe pháp, tùy ý tu tập thẳng đến khi thành Phật nên kinh bảo là ‘thọ, lạc vô cùng cực’.
Cõi ấy có tên là Cực Lạc, An Lạc, An Dưỡng, đức Phật cõi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, thắng diệu như vậy rất đáng ưa thích, mong cầu; uế độ Sa Bà thật đáng nhàm chán. Cớ sao vẫn cứ tham đắm chuyện thế tục, nhao nhác lo chuyện vô thường? ‘Niểu niểu’ (tạm dịch là ‘nháo nhác’) là huyên náo, tranh đua. Ở đây, chữ ‘niểu niểu’ diễn tả trạng thái giành giật, ồn ào. Người đời tham đắm những thứ mình có, muốn luôn giữ mãi, nhưng những thứ ấy thật sự là vô thường nên đâm ra lo lắng. Nhưng dẫu lo cũng chẳng làm gì được! Bởi thế mới có phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn tiếp ngay theo phẩm này.
Phẩm này nêu rõ diệu đức của cõi Tịnh Ðộ, khuyên lơn, dẫn dụ chúng sanh; phẩm sau sẽ chỉ ra những thứ ác khổ của uế độ để chúng sanh biết mà nhàm lìa.